Người dịch: Trần văn Bình
Cây cầu bằng thủy tinh
Tác giả: Robert Arthur

     húng tôi, gồm nam tước De Hirsch, trung úy cảnh sát quốc gia Oliver Baynes và tôi, đang nói về những vụ giết người không thể giải thích nổi. Nói cho đúng ra thì đây là De Hirsch đang nói. Baynes và tôi chỉ có quyền nghe. Qua một chuỗi những cuộc điều tra, tiến hành theo một trình tự không thể chê vào đâu được, người Hung-ga-ri với chiếc mũi khoằm như mỏ đại bàng, đã khám phá năm sáu vụ “nổi tiếng”. Hồ sơ những vụ này đang được lưu trữ tại cơ quan cảnh sát với ghi chú: “Đang giải quyết”.
De Hirsch đôi khi cũng tỏ ra cáu giận. Ông quá tự tin vào bản thân, vào trí thông minh, vào việc mọi người quý mến mình và đối với ông thì không có gì là bí mật cả. Tôi vẫn muốn hỏi ông tại sao một người rất cẩn thận nhưng giày dép của ông ta thường phải sửa, quần áo thường phải giặt giũ, phơi phóng. Tất nhiên tôi không hỏi như vậy.
Oliver Baynes bắt đầu cựa quậy. Baynes là một người béo lùn, lực lưỡng. Ông diễn đạt ý kiến một cách chậm chạp không khác gì một người đang đau yếu. Nhưng đây là một cảnh sát xuất sắc - một trong những cảnh sát tốt nhất.
Anh uống cạn cốc bia - lúc này là tháng Tám, buổi chiều rất nóng bức - và đưa tay ra lấy thêm một hộp bia nữa. Anh nhìn về phía tôi.
- Tại sao anh không hỏi bạn anh giải quyết vụ người phụ nữ tóc vàng đi tống tiền như thế nào? - Anh nói với vẻ châm chọc kín đáo.
De Hirsch tỏ ra ngạc nhiên. Cặp mắt đen của ông sáng lên, hai cánh mũi phập phồng.
- Bí mật của người phụ nữ tóc và tống tiền ư? - Ông nói bằng giọng dịu dàng và khiêm tốn.
Baynes mở hộp bia và gạt bớt bọt đi.
- Mụ ta là Marianne Montrose. Khoảng giữa ba và bốn giờ chiều ngày mười ba, tháng Hai vừa rồi mụ ta leo hai mươi bốn bậc cửa đầy tuyết phủ vào một ngôi nhà trên đồi, cách đây năm chục ki-lô-mét. Mụ ta vào trong nhà và không bao giờ trở ra nữa.
Baynes rót bia vào cốc, thổi bớt bọt trên cốc.
- Sau đó - Anh nỏi tiếp - chúng tôi đã lục soát ngôi nhà. Không có một dấu vết nào, dù nhỏ. Xung quanh nhà, tuyết phủ dày lên sáu mươi xăng-ti-mét. Không có một dấu vết nào chứng tỏ mụ đã ra khỏi nhà. Hơn nữa, chủ nhà là người độc nhất sống trong nhà, đang bị đau tim. Ông không chịu ra khỏi nhà để chữa trị mà cũng không đào sẵn một cái huyệt trong phòng ngủ để tự chôn mình. Những vết chân đi vào trong nhà in rõ trên tuyết. Người ta đã trông thấy mụ bước vào đây nhưng cũng không tìm thấy mụ ở trong nhà. Các ông nói xem, đã có chuyện gì xảy ra đối với mụ?
De Hirsch nhìn chằm chằm vào Baynes.
- Anh nói rõ mọi tình tiết - Ông nói - Và tôi sẽ cho anh biết...
Ông không nói “tôi sẽ cố gắng”.
- Tôi sẽ làm công việc ghi chép - Tôi nói - Cuối cùng thì chúng ta sẽ biết rõ sự thật. Và cái đó có thể cho tôi một bài báo mới.
Baynes uống bia mà không nói gì, mắt lim dim như đang buồn ngủ. De Hirsch uống thêm một cốc nước khoáng nữa, vì chúng tôi đang ngồi với nhau trong một căn nhà ở nông thôn. Tôi tới bàn giấy lấy tập hồ sơ về Marianne Montrose ra. Hồ sơ rất đầy đủ. Tôi sẽ dùng nó để viết cho một tờ tạp chí địa phương. Tôi đã tìm ra một đầu đề: “Người đẹp Marianne sẽ ra sao?”

*

- Ông muốn bắt đầu từ đâu? - Tôi hỏi - Đây là lời khai của chàng trai Danny Gresham. Anh này là người nói chuyện với Marianne trước khi mụ ta vào ngôi nhà và sau đó biến mất.
De Hirsch lấy tay gạt tờ giấy đánh máy ra rồi nói:
- Anh đọc giúp tôi - Ông ta nói một câu đáng mến.
Oliver Baynes khịt mũi như muốn bật cười, tôi lườm anh ta rồi bắt đầu đọc:
Morgan’s Gap, ngày mười ba, tháng Hai, ghi theo lời khai của Danny Gresham, mười chín tuổi.
Tôi đang ở trong văn phòng tòa báo Weekly Sentinel de Morgan’s Gap và đang đọc bản in thử. Lúc ấy là ba giờ rưỡi chiều. Bên ngoài nhiệt độ khoảng mười hai, mười ba độ dưới không độ. Đẹp trời. Tôi muốn gọi điện thoại cho bạn gái của tôi là Dolly Hansome để đề nghị cô ấy cùng đi trượt tuyết. Tuyết thật là đẹp. Cùng lúc ấy có một chiếc xe hơi mui trần chạy tới và đậu bên vỉa hè.
Một phụ nữ ngồi trước vòng lái. Trông bà ta hơi giống Dolly Hansome, nhưng già hơn. Bà ta có bộ tóc vàng trong chiếc khăn quàng màu đỏ và vận một bộ đồ trượt tuyết cũng màu đỏ. Bà ta xuống xe và đứng nhìn quả đồi và thung lũng một lúc. Trên đồi có ngôi nhà của ông Hillyer, người chuyên viết truyện trinh thám với bút danh là Eyrie, tức là cái tổ chim. Cái tên đó rất phù hợp với ông Hillyer vì nhà của ông ta ở chót vót trên đỉnh đồi.
Thoạt nhìn thì ngôi nhà ấy rất không phù hợp với một người độc thân bị bệnh tim. Mùa hè muốn lên trên đó phải đi theo một đường ngoằn ngoèo để đến phía sau nhà, nhưng mùa đông thì xe cộ chỉ có thể đậu ở cuối bậc thềm mà thôi.
Điều đó có nghĩa là ông Hillyer không thể rời khỏi nhà từ khi tuyết bắt đầu rơi. Nhưng ông ta không hề bận tâm. Vào mùa thu, ông đã trữ được mười hai ngàn lít dầu mazut và rất nhiều đồ hộp và ông ấy rất yên tâm. Hàng ngày bà Hoff lên trên ấy để quét dọn và làm bếp. Hai mươi bốn bậc thềm không làm cho bà già sợ hãi, kể cả người em rể của bà, ông Sam, cũng vậy. Ông này là người dọn dẹp cầu thang và quét dọn tầng trệt.
Ông Hillyer thích sự cô đơn, ông ta không muốn giao tiếp với xã hội. Đó là một người cao lớn, mảnh khảnh, có bộ mặt dài vừa chua cay vừa hách dịch. Ông đã viết được mười hai cuốn tiểu thuyết trinh thám và giữ được nhiều bài báo nói về công việc của mình. Ông ta rất hài lòng về những bài báo ấy, chúng đã làm cho ông được nổi tiếng về sự sắp xếp nội dung các cốt truyện của mình.
Tuy nhiên năm năm trở lại đây ông thôi viết lách. Tôi cho rằng ông đã thất vọng vì sách của mình không bán được.
Vâng, tôi xin nói về người phụ nữ.
Bà ta nhìn ngôi nhà sau đó quay lại đi vào văn phòng tòa báo. Tôi vội vàng đón tiếp bà. Bà ta mỉm cười và chào tôi. Bà ta có giọng nói ồm ồm làm người nghe sợ phát run lên. Bà ta hỏi tôi có phải là tổng biên tập không. Tôi trả lời tôi chỉ giữ chức phó thôi. Sau đó bà ta xin phép được dùng điện thoại. Có thể được thôi, tôi nói và đưa máy nối cho bà. Bà ta xin máy của ông Mark Hillyer. Tôi không có việc gì khác ngoài việc nghe bà ta nói chuyện. Bà nói bằng một giọng khác thường:
“A-lô! Mark đấy ư? Marianne đây. Tôi gọi cho ông từ trong làng. Tôi hy vọng là ông đợi tôi, và ông biết, Mark thân yêu - trong trường hợp mà bộ óc tài giỏi của ông không nghĩ ra được một câu chuyện chưa hề xuất bản - thì từ văn phòng tòa báo tôi sẽ tới thăm ông. Tôi sẽ tới nơi sau đây mười phút nữa”.
Bà ta gác máy và nói bằng giọng cảm động:
- Mark không thích tôi. Đây là một người cực kỳ thông minh, ông ta sẽ giết tôi nếu ông ta thấy mình không bị trừng phạt. Nhưng đây lại là một chuyện khác. Trong mọi trường hợp, nếu tôi không trở lại đây, ông sẽ báo tin cho cảnh sát, đúng không? Nếu không, tôi sẽ quay lại để nói mọi việc đã diễn ra tốt đẹp.
Bà ta lại mỉm cười và tất nhiên tôi trả lời rằng bà ta có thể tin ở tôi và, trong trường hợp xấu, tôi sẽ cử người đi tìm bà. Tôi cảm thấy bị kích thích mạnh, cái này rất giống với một cuốn truyện trinh thám của ông Hillyer. Tuy nhiên tôi cho rằng bà ta chỉ nói cho vui thôi. Nhưng tôi cũng ra cửa sổ để chứng kiến sự ra đi của bà ta.
Bà ta nổ máy và một phút sau tôi thấy chiếc xe hơi của bà chạy tới quả đồi có ngôi nhà của ông Hillyer. Ở sườn đồi có một tốp trẻ con đang chơi trò trượt tuyết, ngồi trên xe lăn hoặc những chiếc chậu to bằng nhôm. Tôi muốn gọi dây nói cho Dolly Hansome để cùng ra chơi với chúng. Nhưng ý định của tôi không thành. Tôi thấy chiếc xe mui trần đã chạy tới bậc thềm. Người phụ nữ đỗ xe và bắt đầu trèo lên từng bậc để lên ngôi nhà, cánh cửa ra vào mở to. Bà ta bước vào và cửa đóng lại sau lưng bà.
Trong buổi chiều còn lại ấy, tôi vừa làm việc vừa nhìn ngôi nhà của ông Hillyer. Trời bắt đầu tối. Người phụ nữ ấy vẫn không trở ra.
(Danny Gresham khai đến đây là hết).
Tôi nhìn ông De Hirsch, ông ngồi ngả lưng trên ghế, đầu ngả ra như đang ngắm trần nhà.
- Đoạn vào đầu rất thú vị cho một vụ giết người - Ông nói và nhìn tôi với vẻ hạ cố - Lúc này thì tôi chưa có kết luận nào. Yêu cầu anh đọc tiếp.
Tôi đọc:
Morgan’s Gap, ngày mười bốn, tháng Hai, ghi theo lời khai của viên cảnh sát Harvey Redman.
Hôm qua, vào lúc năm giờ ba mươi chiều, anh Danny Gresham chạy đến văn phòng của tôi. Anh ta khai rằng có một phụ nữ trẻ, đẹp đã tới gặp ông Hillyer và có thể người ấy đã gặp nguy hiểm. Thoạt tiên, tôi cho rằng anh ta đã hoang tưởng, nhưng anh ta đã kể lại mọi tình tiết và tôi quyết định đến tận nơi xem xét. Khi viết truyện trinh thám thì người ta có thể bỏ qua một số việc làm cụ thể.
Tôi mang theo đèn pin và hai chúng tôi ngồi lên một chiếc xe cũ. Chúng tôi đến nhà ông Hillyer vào khoảng sáu giờ. Đúng là chiếc xe mui trần của bà Montrose còn đậu ở đấy. Và Danny đã chỉ cho tôi xem những vết giày của phụ nữ trên những bậc thềm.
Chỉ có những dấu giày đi lên, không có những dấu đi xuống.
Vậy có lý do để nói bà ta vẫn còn ở trên nhà.
Chúng tôi theo những bậc thềm để lên nhà; tránh không làm mất dấu giày cũ. Với vẻ ngạc nhiên, ông Hillyer dẫn chúng tôi vào trong nhà. Tôi nhắc lại những lời người phụ nữ ấy nói với Danny rồi hỏi ông ta người phụ nữ ấy hiện ở đâu, ông Hillyer bật cười.
- Tôi sợ rằng cô Montrose ấy đã giễu cợt các ông - Ông ấy nói - Cô ta đã rời khỏi đây vào lúc tối. Cách đây chừng một tiếng đồng hồ.
- Ông Hillyer - Tôi bảo ông ta - Có những vết giày đi lên. Không có vết nào đi xuống cả. Hơn nữa, chiếc xe hơi vẫn đậu ở chỗ cũ.
- Trời! Thật là lạ lùng! - ông Hiỉlier nói cũng vẫn với vẻ cười cợt.
- Đúng đây là điều tôi nghĩ - Tôi trả lời - Do đó tôi hỏi ông bà ta hiện ở đâu?
- Tôi không biết gì cả! - Ông ta cãi lại và nhìn thẳng vào mắt tôi - Ông cảnh sát, tôi sẽ thành thật với ông: người đàn bà ấy là một mụ tống tiền. Mụ tới đây để nhận một khoản tiền cống nạp của tôi là một ngàn đô-la. Tôi đã giao tiền cho mụ ta. Sau đó mụ ra về. Đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi khẩn khoản yêu cầu ông lục soát kỹ ngôi nhà xem có dấu vết gì về sự có mặt ở đây của mụ ta không, hoặc về hành động nào đó của tôi chống lại mụ ta không. Tôi yêu cầu phải đưa vụ này ra ánh sáng.
Danny và tôi đã đã lục tung ngôi nhà. Ngồi bên lò sưởi trong phòng làm việc, ông Hillyer hút thuốc đợi kết quả công việc của chúng tôi.
Không khó khăn gì lắm trong việc tìm kiếm. Nhà có sáu phòng cùng trên một mặt bằng. Ở kho đồ cũ, ở tầng hầm không có dấu vết gì. Ở lò sưởi trung tâm chỉ có một ít tro. Nền nhà xây bằng xi-măng. Tường đôi có tấm cách nhiệt.
Người đàn bà trẻ không có ở trong nhà. Cũng không có gì chứng tỏ là bà ta đã bước chân vào nhà. Không có dấu vết vật lộn, cũng không có một vết máu nào.
Tôi và Danny ra khỏi nhà. Xung quanh ngôi nhà tuyết rất dày. Ở tầng trệt phía bắc sáng hôm nay tuyết đã được xúc đi bằng xẻng, nay chỉ còn một lớp tuyết mỏng. Không có dấu vết nào mà không nhìn thấy được. Bên ngoài tuyết phủ đầy đặc trên sườn đồi một vùng cách ngôi nhà đến bốn trăm mét. Danny bỏ cuộc. Không một ai đi trên tuyết mà không để lại dấu vết.
Chúng tôi quan sát nhà để xe, lục soát chiếc xe, nhất là thùng xe cũng không thấy dấu vết của người đàn bà trẻ. Đúng là bà Montrose đã ra đi.
- Các ông tin chắc là tôi không nói dối chứ? Các ông làm cho tôi vui mừng - Ông Hillyer cười khúc khích - Chắc chắn là tôi không giết và giấu xác của mụ ta, ít nhất là tôi đã không xây một chiếc cầu bằng tuyết để đưa xác mụ ta ra khỏi quả đồi này.
- Tôi không hiểu!
- Xem nào, ông cảnh sát, ông đọc các tiểu thuyết trinh thám kinh điển rồi chứ. Môt trong những chuyện hay nhất kể về một kẻ giết người bằng con dao thủy tinh. Sau đó hắn ném dao vào thùng nước khiến nó trở thành không nhìn thấy được và không ai tìm thấy nó. Có thể là tôi đã tạo ra một cây cầu bằng thủy tinh - nó cũng không thể nhìn thấy được. Một giả thiết khác: có một chiếc đĩa bay đã tới đây nhặt xác mụ ta đi. Không có tiếng động, không ai nhìn thấy.
- Tôi thấy ông không coi vụ này là nghiêm trọng, ông Hillyer - Tôi nói - Cá nhân tôi, tôi không đồng ý với ông. Tôi sẽ báo tin cho cảnh sát Liên bang.
Và tôi đã làm đúng như vậy. Họ là người tìm xác của người phụ nữ ấy. Lúc này tôi còn nhiều việc khác phải làm.
(Cảnh sát Harvey Redman khai đến đây là hết).
Tôi khản giọng. Tôi ngừng đọc và uống một ngụm bia. Ông De Hirsch mở mắt ra.
- Rất đầy đủ! Ông nhã nhặn nói - Anh là một điều tra viên tuyệt vời, kể cả nếu trí tưởng tượng của anh không mấy phong phú. Tôi cho rằng anh là người phụ trách vụ này, đúng không trung úy? - Ông nhìn Baynes và hỏi.
- Đúng - Baynes càu nhàu - Nhưng sau các thanh tra Reynolds và Rivkin. Họ đã tiến hành lục soát một lần nữa. Kết quả vẫn như kỳ trước. Lúc này tôi mới vào cuộc. Tôi thừa hưởng mọi khó khăn. Lúc này mà thẩm vấn Hillyer thì chẳng khác gì hỏi con mèo đã làm gì với con chuột. Ông ta nhắc lại mình đã bị tống tiền trong nhiều năm do một sai phạm đã mắc phải. Mụ Montrose biết chuyện này. Từ đó hàng năm ông phải nộp cho mụ một ngàn đô-la. Tôi liên hệ với New York. Đúng là mụ Montrose ở trong một nhóm tống tiền. Chắc chắn câu chuyện ông ta phải nộp tiền cho mụ là có thật. Tôi đi hỏi ở ngân hàng địa phương. Đúng là ông Hillyer đã rút khoản tiền một ngàn đô-la trước đó.
Tôi quan sát xung quanh nhà và cũng rút ra kết luận như viên cảnh sát và các thanh tra làm việc này trước tôi. Một lớp tuyết thì không chịu nổi sức nặng của một người. Nếu là trượt tuyết thì phải có dấu vết để lại. Hay là xác người được chuyển bằng cầu cạn. Nhưng trong nhà không có vật gì giống cầu cạn cả. Sáng hôm đó bà Hoff đã quét dọn sạch sẽ. Bà già cũng xuống nhà xe để lấy một vài thứ lặt vặt. Bà nói mình không thấy ở đấy có vật gì giống chiếc cầu cạn cả. Bà thề rằng mình chưa bao giờ nghe thấy một câu chuyện lạ lùng đến như vậy. Mặt khác, mấy hôm đó ông Hillyer không gọi dây nói đi đâu cả. Tôi đã kiểm tra việc này ở Sở Bưu điện.
Phải tưởng tượng như thế nào? Người phụ nữ ấy đi ra bằng cách nào? Tôi đã cho bốn người dùng xe trượt tuyết đi xung quanh vùng này. Một bán kính khoảng bốn trăm mét. Họ cũng không tìm ra một dấu vết nào. Tôi tin chắc không có một nơi nào để giấu xác mụ cả.
Hillyer thì tỏ ra vui mừng. Ông ta cho các nhà báo tới phỏng vấn. Ông ta tặng sách của mình cho họ. Ông ta như trẻ lại đến mười tuổi; ông cười đùa như một thằng điên.
Ông Charles Fort đã viết một cuốn sách nói về những vụ mất tích bí mật. Ông ta nói về sự biến mất bằng đĩa bay. Chắc rằng ông ta cũng phải bó tay trong vụ này.
Cuối cùng chúng tôi phải xếp vụ này lại. Tất cả những gì chúng tôi nắm được là: một phụ nữ đã đi trên những bậc thềm để vào trong nhà sau đó người ấy biến mất. Còn phải đợi thêm những sự kiện.
Rồi đến tháng sáu..
Oliver Baynes ngừng nói để uống cạn cốc bia.
Ông De Hirsch nhấc cái đầu nặng nề của mình lên.
- Đến tháng sáu thì người ta tìm thấy xác người ư?
- Đúng - Anh trả lời - Đến tháng sáu thì mụ Marianne chuyển từ kiểu bí mật này sang một kiểu bí mật khác. Ông biết không?
Nhưng ông De Hirsch đã giơ tay lên.
- Hãy để cho anh Bob đọc tiếp tài liệu của mình. Tôi biết anh ấy đang soạn thảo một bài báo giật gân. Tôi thường đọc các bài báo của Bob.
Tôi đọc:
Morgan’s Gap, ngày ba, tháng sáu. Ghi theo lời kể của Willy Johson, mười một tuổi và Ferdie Pulver, mười tuổi.
Hai đứa trẻ chơi bên cạnh bờ ao nước xanh đen có đường kính khoảng chín mét. Một thác nước lởm chởm đá cao chừng mười lăm mét cung cấp nước cho ao. Khi đầy, nước ao chảy xuống các khe đá nhỏ (xác một đứa trẻ nằm ở đây thì được, nhưng quá hẹp đối với xác của người lớn). Liễu mọc um tùm bên bờ ao dưới ánh nắng mặt trời. Chim chóc bay lượn chỗ này, chỗ khác. Một con quạ dang đôi cánh đen trên không trung. Một con chim cổ đỏ líu lo trong bụi rậm.
Hai đứa trẻ đi chân đất. Giày trên tay và nước thì rất lạnh. Chúng muốn xem nhiệt độ nước là bao nhiêu.
- Ôi nói xem - Ferdie kêu to - Thật là tuyệt. Chúng ta kiếm dải băng vải và chơi trò kẻ cướp đi.
Willy khịt mũi:
- Trò kẻ cướp ư! Thú vị hơn câu cá đấy. Này, ném lưỡi câu đi.
Ferdie ném lưỡi câu. Mặt nước hiện lên những vòng tròn quanh vật vừa ném xuống.
- Này! Có cái gì, tớ thấy lưỡi câu mắc rồi...
Nó kéo lưỡi câu. Cần câu cong lên bởi một vật nặng. Ferdie không chú ý, nó đang mải nhìn một vật gì màu trắng treo trên cành liễu.
- Cái gì kia? - Nó ngạc nhiên hỏi - Có phải là ma không, Willy?
Willy không ngước mắt lên. Nó vừa kéo cần câu vừa thở.
- Cậu nghĩ vớ vẩn. Có thể đấy là một cành cây hoặc cái gì đó.
Một vật màu sẫm đỏ nổi lên. Rồi vật đó lật ngửa: một cái đầu, tóc vàng, mặt hình bầu dục hiện ra như để thay đổi cách sống.
- Này - Willy kêu to - Xác chết! Chạy đi Ferdie.
Đằng sau chúng, cái đầu hình như ngập ngừng một thoáng sau đó lại chìm sâu xuống chỗ nó vừa nổi lên.
(Willy và Ferdie kể đến đây là hết.)
Oliver Baynes lại nói tiếp trong khi ông De Hirsch uống nốt chai nước khoáng.
- Cha mẹ của bé Willy đi gọi cảnh sát và viên cảnh sát ấy đi gọi tôi. Hai tiếng đồng hồ sau, sáu người chúng tôi có mặt ở nhà ông Mark Hillyer. Ông nhà văn tỏ ra đáng mến khi chúng tôi nói lý do của cuộc gặp này.
- Nếu đã tìm thấy mụ ta, các ông hãy xem trong túi áo trượt tuyết của mụ. Mụ có một ngàn đô la khi ra đi và tôi rất muốn lấy lại.
Chúng tôi tới hiện trường dùng kích và dây thừng để lôi xác Marianne lên. Danny, cũng đi theo chúng tôi, kêu lớn:
- Đúng là bà ta rồi. Nhưng tại sao xác lại ở cách xa ngôi nhà như vậy? Bà ta biết bay ư?
Xác người chưa bị phân hủy nhiều vì nước lạnh giá. Mụ có một ngàn đô-la trong túi. Chúng tôi tháo móc ngoạm và lột mũ, tháo găng tay của mụ ra. Tôi để cho người của mình tiếp tục khám nghiệm và ra lệnh vớt tiếp những vật ở dưới ao lên. Chỉ thấy một vài vỏ chai bia, vỏ đồ hộp đã han gỉ, không có cầu vượt cũng như vật nào khác.
Chúng tôi đã tìm thấy xác chết cách ngôi nhà của Mark Hillyer bốn trăm mét nhưng không biết tại sao lại như vậy.
Tôi cho mổ tử thi. Người này chết vì lạnh. Dạ dày không có gì. Cũng không có chất độc trên cơ thể. Người này chết mấy tiếng đồng hồ sau bữa ăn cuối cùng? Cũng không thể biết được.

*

Oliver Baynes nhìn De Hirsch với vẻ thách đố.
- Ông đã nghe toàn bộ câu chuyện về mụ tống tiền tóc vàng - Anh nói - Chúng tôi xin nghe những lời giải thích của ông. Nhưng xin đừng nói đến đĩa bay, cây cầu bằng thủy tinh hay những vật tương tự.
Ông bạn người Hung-ga-ri của chúng tôi chắp những ngón tay lại.
- Tôi không thể giả thiết nếu không nói đến đĩa bay, cây cầu bằng thủy tinh và đặc biệt là vải liệm được.
Trung úy Baynes nói với vẻ chán nản:
- Tôi hiểu. Ông hãy kể một vài chuyện nhảm nhí loại ấy trong khi ông không biết gì về đã có chuyện gì xảy ra đối với mụ Marianne.
- Không thể như vậy được - Ông De Hirsch phản đối với vẻ đáng mến - Vì tôi đã biết chuyện xảy ra. Có nghĩa là tôi sẽ biết nếu anh nói rõ một việc.
- Việc gì? - Baynes hỏi.
- Cái vật màu trắng mà thằng bé Ferdie tưởng nhầm là ma ấy.
- Đơn giản nó chỉ là một mảnh vải trải giường mắc vào một cành liễu. Có tên ông Hillyer do thợ giặt thêu trên đó. Theo ông nhà văn có thể nó bị gió bay trong khi phơi hồi mùa xuân. Các chuyên gia đã xem xét từng sợi vải một. Đúng là vải trải giường.
- Không, không phải là vải trải giường mà là vải liệm - Ông Hillyer nói chữa lại - Một tấm vải liệm? Các anh không thấy ư? Đúng là cái tôi đã nói - một đĩa bay, một cây cầu bằng thủy tinh, một tấm vải liệm. Các anh không tin ư? Ỷ lại vào trí thông minh của mình, ông ta đã nói sự thật với các anh! Ông ta đã cho các anh mọi chi tiết của dấu hiệu, ít nhất là trong lời khai của ông ta đối với viên cảnh sát tới đầu tiên. Ông ta đã giết mụ Marianne và đưa mụ lên một đĩa bay hoặc một cây cầu bằng thủy tinh để ném mụ xuống ao.

*

Baynes cắn môi. Anh nhìn ông De Hirsch với vẻ ngạc nhiên. Đây đúng là lúc ông già hài lòng nhất - khi ông dùng những lời giải thích của mình để ném người nghe chuyện xuống dưới vực sâu của sự lúng túng.
Từ từ lấy trong túi ra chiếc ví và từ chiếc ví, Baynes lấy ra một tờ hai chục đô-la.
- Tôi đánh cược hai mươi đô-la là ông sẽ nộp giống Hillyer - Anh ta nói với vẻ nghiêm trang.
Mắt ông De Hirsch sáng lên. Nhưng rồi ông lắc đầu.
- Chúng ta là hai vị khách mời của một người bạn thân thiết nhất. Làm thế nào mà tôi có thể lấy tiền vì một câu trả lời rất đơn giản này.
Baynes nghiến răng. Anh lại lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc nữa.
- Năm mươi đô-la. Tôi cho rằng ông không biết gì cả.
Ông De Hirsch nhìn tôi. Tôi tính rất nhanh số tiền nhuận bút mà tôi có thể nhận được nếu viết được câu chuyện này và tôi lấy cuốn sổ séc ra.
- Tôi đánh cược một trăm đô-la rằng ông không thể cho chúng tôi lời giải đáp được - Tôi nói và nhìn thẳng vào mắt ông.
Tôi tin chắc người bạn Hung-ga-ri này không thể có được, một trăm, năm mươi thậm chí là năm đô- la.
Nam tước De Hirsch đứng lên.
- Với tư cách là một người đứng đắn, tôi thấy mình không thể từ chối làm việc này được. Tuy nhiên tôi cần một chiếc cặp phơi quần áo...
Ông Baynes thì ngậm miệng lại còn tôi thì há ra.
- Trong ngăn kéo tủ bếp. Bà Ruggle, người giúp việc tôi có thể để chúng ở trong ấy..
Ông già nhẹ nhàng đứng lên, lấy trong túi ra một chiếc khăn tay và một chiếc bút máy.
Tôi nhìn Baynes, anh ta cũng nhìn tôi. Không ai thốt lên một lời nào cả. Ông De Hirsch vào trong bếp chừng năm phút đồng hồ... Tôi nghe thấy tiếng động mạnh. Có lẽ đây là tiếng cánh cửa tủ lạnh đóng lại. Sau đó ông trở lại và ngồi xuống. Ông mở một chai nước khoáng nữa, chai nước khoáng tôi vừa lấy thêm cho ông.
- Phải chờ chừng một vài phút. Trong khi đó chúng ta có thể nói chuyện. Các anh nghĩ gì về sự khôn khéo?
- Trời! Sự khôn khéo - Baynes càu nhàu - Ông hãy nói Hillyer đã giết con mụ tống tiền ấy như thế nào cho chúng tôi nghe.
Ông De Hirsch vỗ trán.
- Tôi quên không hỏi các anh một chuyện. Ông Hillyer có mắc chứng mất ngủ không?
Baynes cau mày.
- Có - Anh ta nói - Đây là một phần trong báo cáo về y tế người ta đưa cho tôi... nhưng...
- Tất nhiên, như tôi đã dự đoán... nhưng chúng ta không nên có giả thiết nào cả... Nghe đây, trung úy, Hillyer đã giết người phụ nữ ấy bằng cách cho thuốc ngủ vào nước uống, mụ ta đã mê đi, ông ta lấy tuyết gói mụ lại. Khi tỉnh lại thì người mụ đã bị đông cứng đến một nửa rồi. Mụ cố thoát khỏi vật bao bọc mình cứng như thép ấy. Và cuối cùng là cái chết đến với mụ.
- Thật là lãng mạn - Baynes càu nhàu - Như vậy là ông chưa nói gì cả. Ông không nói mụ ta bị trói như thế nào mà trên người không có dấu vết gì. Có thể là mụ ta đã uống phải thuốc ngủ. Tôi đã nghĩ đến điều này. Nhưng rồi sao nữa?
Nam tước De Hirsch nói sang vấn đề khác.
- Bob, anh nói xem, có phải là Mark Hillyer đã vô đạo đức khi làm việc này không? Ông ta vẫn tìm sự nổi tiếng mà không được, đúng không?
- Đúng thế - Tôi trả lời - Đã có một cuộc tranh luận về chuyện này: ông ta đã giết hay không giết mụ này? Mụ Marianne đã chui vào trong tuyết như thế nào? Đây là một điều bí mật. Một trăm năm nữa tên của Mark Hillyer còn được nêu lên trên sách báo và những nhà thông thái của thế kỷ vẫn còn tranh luận về sự phạm tội hoặc vô tội của ông ta. Như Baynes đã nói, ông ta còn được ưa chuộng. Một số sách mới của ông ta sẽ ra đời. Những sách cũ được tái bản. Ông ta đã nổi tiếng và sẽ càng nổi tiếng hơn khi bí mật này chưa được làm sáng tỏ. Bí mật được giữ càng lâu bao nhiêu, ông ta càng nổi tiếng bấy nhiêu.
- Phải. Khi bí mật được khám phá, hắn sẽ trở thành một tên giết người dã man, một kẻ bỉ ổi. Một cú rơi trời giáng của kẻ hoang tưởng tự đại. Nhưng lúc này tôi cho rằng chúng ta có thể thảo luận về những bí mật của đĩa bay, của cây cầu bằng thủy tinh và tấm vải liệm. Chúng có một đặc điểm chung là người ta không thể nhìn thấy chúng được.
Ông đứng lên và đi xuống bếp. Lại có tiếng mở và đóng của cánh cửa tủ lạnh. Ông trở lại với một vật trên tay. Vật đó được bọc trong chiếc khăn tay, ông đặt vật đó lên mặt bàn.
- Bây giờ chúng ta trở lại tháng Hai ấy - Ông nói với giọng đầy uy lực - Chiều hôm ấy trời rất lạnh. Mark Hillyer, qua cửa sổ, giận dữ đứng nhìn mụ tống tiền ấy tới nhà. Ở sườn đồi có một tốp trẻ con đang nô đùa. Bất chợt một ý nghĩ lóe lên trong óc hắn ta với mọi chi tiết. Với may mắn tối thiểu, hắn có thể loại trừ mụ ta một cách an toàn. Nếu thất bại thì bệnh tật có thể biện hộ cho hắn. Nếu thắng lợi hắn sẽ rất sung sướng khi thấy mọi người vắt óc để tìm ra sự bí mật tự tay hắn tạo ra ấy.
Lập tức hắn bắt tay vào việc. Hắn lấy một tấm khăn trải giường lớn nhất trong nhà trải xuống nền nhà ở tầng trệt phía bắc. Một vài phút sau, mụ Marianne tới nơi. Hai người nói chuyện. Hắn mời mụ một cốc rượu trong đó có một liều thuốc ngủ rất mạnh. Hai mươi phút sau, mụ ngủ li bì.
Hắn đẩy chiếc xe có người phụ nữ trên một tấm thảm nhỏ xuống tầng trệt ấy. Không cần nhiều sức khỏe. Không gì làm tim hắn đập mạnh hơn.
Tới nơi, hắn đặt mụ nằm co dúm trên chiếc khăn trải giường...
Với điệu bộ như đang trên sân khấu, ông Hillyer mở chiếc khăn tay ra. Đây là chiếc khăn bằng vải. Vật gói trong chiếc khăn là một cái cặp phơi quần áo. Chiếc cặp như là một người phụ nữ thu nhỏ lại. Chiếc khăn tay là đại diện cho tấm khăn trải giường.
Để thấy được chiếc cặp, người ta phải mở chiếc khăn từ từng góc của nó vì mỗi góc của khăn được đặt vào giữa khăn, gói gọn chiếc cặp. Như là chiếc phong bì thư.
Chiếc khăn đã được nhúng nước và đặt vào tủ lạnh như quần áo được phơi trong mùa đông. Nó cứng lại như gỗ. Tất cả thành một gói chỉ to vài xăng-ti-mét. Nếu là khăn thật và người thật thì mỗi chiều cũng chỉ hơn một mét.
Và cuối cùng, tôi và Baynes, chúng tôi đã biết rõ những việc mà Mark Hillyer đã làm. Hắn đã tưới nước vào tấm khăn trải giường lớn. Hắn đã đặt mụ tống tiền nằm co quắp giữa tấm khăn, sau đó hắn gói từ bốn góc khăn kẻ khốn khổ ấy lại. Trời lạnh đã làm cái gói ấy cứng như gỗ. Một vài phút sau, mụ Marianne đã bị dây thép trói chặt và đặt nằm trong cỗ quan tài bằng tuyết ấy. Mark Hillyer chỉ còn việc lăn cái gói ấy xuống chân đồi. Cái gói ấy có diện tích lớn nên không để lại dấu vết gì trên tuyết.
Để chứng minh điều này, ông Hillyer đã búng ngón tay vào cái gói khăn tay ấy và ngay lập tức cái gói rơi vào sọt đựng giấy vụn.
- Một chiếc đĩa bay - Ông Hillyer kêu lên - Khi khai báo, Danny Gresham đã nói đến việc bọn trẻ ngồi trên những chiếc mâm bằng nhôm và trượt xuống chân đồi với một tốc độ khủng khiếp. Đó là những chiếc đĩa bay mà Hillyer đã nhìn thấy và dựa vào cách ấy để giết người. Cây cầu bằng thủy tinh thì đã có sẵn, đó là lớp tuyết dày từ ngôi nhà tới thác nước lởm chởm đá.
Chiếc đĩa bay đã lăn tròn trên tuyết xuống chân dốc. Nó không tự dừng lại được. Một vật trắng, lăn trên tuyết trắng. Không thể nhìn thấy được. Gió lại thổi tung những mẩu tuyết nhỏ lên, phủ từng lớp mỏng trên nền tuyết cũ. Muốn tìm ra dấu vết phải đặt chân lên đó. Nhưng rất ít may mắn.
Thế đấy! Chỉ cần một tấm khăn trải giường cũ với mùa đông băng giá, đầy tuyết phủ là có thể tạo ra một bí mật khó bề giải thích. Một phụ nữ bay xa bốn trăm mét với phương tiện thật là kỳ diệu. Một lão già ốm đau lại gây ra được một tội ác hoàn hảo.

*

- Cái lão mất dạy! - Baynes quát to - Trước mặt ta, lão đã nói rõ tội ác của lão như kể một câu chuyện nhảm nhí ấy! Người phụ nữ trong chiếc khăn trải giường ấy có thể bị treo trên cành cây cho đến hết mùa xuân. Đến khi tuyết tan, xác người rơi xuống thác nước rồi lăn xuống ao mà không để lại một dấu vết nào. Chỉ còn lại tấm khăn trải giường cũ mắc trên cành cây! Chúng ta không thể dùng nó làm chứng cứ để buộc tội lão ta được.
- Có thể là như vậy! - Ông Baynes nói - Nhưng chúng ta có thể cho hắn biết: bí mật của lão chỉ có giá trị đến năm 2000 thôi, nó trở thành đề tài cho việc nghiên cứu về tội phạm học. Tôi sẽ gửi cho hắn ta một bức thư.
Ông tới phòng làm việc của tôi và trong nửa tiếng đồng hồ người ta nghe thấy tiếng gõ máy chữ trong đó. Ông gửi thư ngay chiều hôm đó. Ngày mai Mark Hillyer sẽ nhận được thư. Tôi không biết ai là người lấy thư trong thùng ra, nhưng Oliver Baynes đã thuật lại câu chuyện theo lời kể của bà hầu phòng thuật lại.
Bà Hoff đang lau chùi đồ đạc trong phòng làm việc của Mark Hillyer thì người đưa thư tới nhà. Bà mang thư từ xuống nhà cho người chủ đang làm việc ở tầng trệt vì trời quá nóng bức. Khi nhìn thấy lá thư mặt lão ta tái đi. Đọc thư mặt lão nổi lên những vết đỏ. Khi đọc đến trang thứ hai thì lão xé thư thành trăm mảnh và ném chúng vào cái khay hứng tro. Lão bật que diêm với những ngón tay run rẩy và đốt thư đi.
Không thể chế ngự được cơn giận dữ, lão bê và ném chiếc khay xuống nền nhà. Lão nắm hai tay vào nhau, mắt đăm đăm nhìn về phía thác nước.
Lão thấy khó thở. Lão quay lại tìm tay vịn nhưng rồi lão ngã khuỵu xuống trước khi với được chiếc ghế. Hai tay ôm lấy ngực, lão hổn hển: “Thuốc của ta... Thuốc của ta!”
Thuốc chữa bệnh đau tim của lão không để trong tủ thuốc mà để ở đầu giường lão.
Phải mất đến hai ba phút đồng hồ thì bà Hoff mới tìm được thuốc và mang đến cho lão. Khi bà tới nơi thì lão đã chết.
Xin thú nhận là tâm trí tôi rất nặng nề khi nhận được tin này. Nhưng ông De Hirsch can đảm hơn tôi.
- Utovegre! - Ông nói.
Cầu đó có nghĩa là: chết tức là đã thú nhận.