Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương.Kể từ định chước hại chàngThể Loan hớn hở lòng càng thêm vuiNgày ngày trang điểm phấn giồiPhòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê Xẩy đâu Tử Trực vừa vềVào nhà họ Võ thăm bề Vân TiênCông rằng: Chớ hỏi thêm phiềnTrước đà lâm bệnh huỳnh tuyền xa chơi Thương chàng phận bạc ở đờiCũng vì Nguyệt Lão xe lơi mối hồngNghe qua Tử Trực chạnh lòngHai hàng nước mắt ròng ròng như mưaThan rằng: Chạnh nhớ linh xưaNghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tìnhTrời sao nỡ phụ tài lànhBảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mònCùng nhau chưa đặng vuông trònNgười đà sớm thác ta còn làm chiTrong đời mấy bậc cố triMấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâmCông rằng: Lão cũng thương thầmTủi duyên con trẻ sắt cầm dở dangThôi thôi khuyên chớ thở thanLão đà tính đặng một đàng rất hay Tới đây thì ở lại đâyCùng con gái lão sum vầy thất giaPhòng khi hôm sớm vào raThấy Vương Tử Trực cũng là thấy TiênTrực rằng: Ngòi viết đĩa nghiên1230.Anh em xưa có thề nguyền cùng nhauVợ Tiên là Trực chị dâuChị dâu em bạn dám đâu lỗi nghìChẳng hay người học sách chiNói sao những tiếng dị kỳ khó ngheHay là học thói nước TềVợ người Tử Củ đưa về Hoàn CôngHay là học thói Ðường cungVợ người Tiểu Lạc sánh cùng Thế DânNgười nay nào phải người TầnBất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầmNói sao chẳng biết hổ thầmNgười ta há phải là cầm thú saoVõ công hổ thẹn biết baoNgồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua Thể Loan trong trướng bước raMiệng cháo: Thày Cử tân khoa mới vềThiếp đà chẳng trọn lời thềLỡ bề sửa tráp lỗi bề nâng khănTiếc thay dạ thỏ nằng nằngÐêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầyChẳng ưng thì cũng làm khuâyNỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêngTrực rằng: Ai Lữ Phụng TiênHòng toan đem thói Ðiêu Thuyền trêu ngươiMồ chồng ngọn cỏ còn tươiLòng nào mà lỡ buông lời nguyệt hoaHổ hang vậy cũng người taSo loài cầm thú vậy mà khác chiVân Tiên anh hỡi cố triSuối vàng có biết sự ni chăng làTay lau nước mắt trở raVề nhà sắm sửa tìm qua Ðông thànhVõ công hổ thẹn trong mìnhNăm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan Thể Loan cùng mụ Quỳnh TrangMẹ con đóng cửa cư tang trong nhàÐoạn này đến thứ Nguyệt NgaHà khê phủ ấy theo cha học hànhKiều công lên chức Thái khanhChỉ sai ra quận Ðông thành chăn dânRa tờ khắp hết xa gầnHỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơiKhiến quân đem bức thư mờiLục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiềnKiều công hỏi truyện Vân TiênLục ông nhớ đến bỗng liền khóc thanThưa rằng: Nghe tiếng đồn vangCon tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thâyBiệt tin từ ấy nhẫn nayPhút nghe người hỏi dạ này xốn xangKiều công trong dạ bàng hoàngTrở vào thuật lại cùng nàng Nguyệt NgaLục ông người nói cùng chaDuyên con rày đã trôi hoa dạt bào Riêng than chút phận tơ điềuHán giang chưa gặp, Ô kiều lại rơiNàng rằng quả thiệt như lờiXin cha sai kẻ mời người vào trongNguyệt Nga đứng dựa bên phòngTay ôm bức tượng khóc ròng như mưaCông rằng: Nào bức tượng xưaNguyệt Nga con khá đem đưa người nhìnLục ông một buổi ngồi nhìnTay chân mặt mũi giống y con mìnhNguyệt Nga lạy gửi phân minhLục ông khi ấy sự tình mới hayThương con phận bạc lắm thayNguyền xưa còn đó, con rày đi đâuNguyệt Nga chi xiết nỗi sầuLục ông thấy vậy càng đau gan vàngKiếm lời khuyên giải với nàngGiải cơn phiền não kẻo mang lấy sầuNgười đời như bóng phù duSớm còn tối mất công phu lỡ làng Cũng như đống tịch đồng sàngCũng chưa nên nghĩa tào khang đâu màCũng như cửa sổ ngựa quaNghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiềnNàng rằng: Trước đã trọn nguyềnDẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơCông rằng: Ơn trước ngãi xưaLiền đem vàng bạc tạ đưa cho ngườiLục ông cáo tạ xin luiTôi đâu dám chịu của người làm chiNgỡ là con trẻ mất điHay đâu cốt cách còn ghi tượng nàyBây giờ con lại thấy đâyTấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?Ngửa than: Ðất rộng trời caoTre còn măng mất, lẽ nào cho cânLục ông tạ từ lui chânKiều công sai kẻ gia thần đưa sangNguyệt Nga nhuốm bệnh thở thanNăm canh lụy ngọc, xốn xang lòng vàng Nhớ khi thề thốt giữa đàngChưa nguôi nỗi thảm, lại vương lấy sầuCông đà chờ đợi bấy lâuThà không cho gặp buổi đầu thì thôiBiết nhau chưa đặng mấy hồiKẻ còn người mất trời ơi là trờiThề xưa tạc dạ ghi lờiThương người quân tử biết đời nào phaiTiếc thay một bậc anh tàiNghề văn, nghệp võ nào ai dám bìThương vì đèn sách lòng ghiUổng công nào thấy tiếng là gì đâuThương vì hai tám trên đầuNgười đời như bóng phù du lỡ làngThương vì chưa đặng hiển vangNước trôi sự nghiệp, hoa tàn công danhThương vì đôi lứa chẳng thànhVùa hương, bát nước ai dành ngày sauNăm canh chẳng ngớt giọt châuMặt nhìn bức tượng ruột đau như dần Dương gian nay chẳng đặng gầnÂm cung biết có thành thân chăng làKiều công thức dậy bước raNghe con than khóc, xót xa lòng vàngKhuyên rằng: Con chớ cưu mangGẫm trong còn mất là đường xưa nayÐàn cầm ai nỡ dứt dâyChẳng qua con tạo đổi xây không thườngNàng rằng: Khôn xiết nỗi thươngKhi không gẫy gánh giữa đường chẳng hay1Nay đà loan phụng rẽ bầyNêm nghiêng, gối chính phận này đã camTrăm năm thề chẳng lòng phàmSông Ngân đưa bạn, cầu Lam rước ngườiThân con còn đứng giữa trờiXin thờ bức tượng trọn đời thời thôiKiều công trong dạ chẳng vui:"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"Có người sang cả, ngôi caoThái sư chức trọng trong trào sắc phong Nghe đồn con gái Kiều côngTuổi vừa hai tám, tơ hồng chưa xăngThái sư dùng lễ vật sangMượn người mai chước kết đàng sui giaKiều công khôn ép Nguyệt NgaLễ nghi đưa lại về nhà Thái sưThái sư chẳng biết rộng suyÐem điều oán giận sớm ghi vào lòngXẩy đâu giặc mọi làm hungÔ-qua quốc hiệu, binh nhung dấy loànÐánh vào tới cửa Ðồng-QuanSở vương phán hỏi lưỡng ban quần thầnSao cho vững nước an dânCác quan ai biết mưu thần bày raThái sư sẵn có cừu nhàVội vàng quỳ gối tâu qua ngai vàngThuở xưa giặc mọi dấy loànCũng vì tham sắc phá tàn Trung HoaMuốn cho an giặc Ô-quaÐưa con gái tốt giao hòa thì xong .Nguyệt Nga là gái Kiều côngTuổi vừa hai tám má hồng đương xinhNàng đã sắc khuynh thànhLại thêm rất bậc tài tình hào hoaÐưa nàng về nước Ô-quaPhiên vương ưng dạ ắt là bãi binhSở vương nghe tấu thuận tìnhChâu phê khiến sứ ra dinh Ðông-thànhSắc phong Kiều Lão Thái KhanhViệc trong nhà nước, trẫm đành cậy ngươiNguyệt Nga nàng ấy nên ngườiLựa ngày tháng chín, hai mươi cống HồKiều công vâng lệnh nhà vuaLẽ nào mà dám nói phô điều nàoNguyệt Nga trong dạ như bàoChú thích:1.Huỳnh tuyền (hoàng tuyền): suối vàng, cõi chết. Nói Vân Tiên đã bị bệnh chết rồi2.Xe lơi: xe lỡ, xe dở dang.3.Linh: tiếng dùng để chỉ người đã chết rồi.4.Ðồng đạo: cùng theo một đạo lý. Ðồng tâm: cùng chung một lòng.5.Thất gia: nhà cửa (như nói gia đình), tức vợ chồng6.Ngòi viết, đĩa nghiên: bút nghiên, hình tượng này được dùng để chỉ tình bằng hữu thân thiết trong việc học hành.7.Vợ Tiên là Trực chị dâu: Trực chị dâu tức là chị dâu Trực, tác giả theo cú pháp chữ Hán. Người Trung-quốc thường coi người bạn thân hơn tuổi như anh ruột, và coi vợ bạn như chị dâu.8.Tử Củ: con Hi Công nước Tề. Hi Công chết anh Tử Củ là Tương Công lên kế ngôi, chính sự rối nát, bị bầy tôi là Vô Tri giết chết. Khi ấy Tử Củ chạy sang nước Lỗ, em là Tiểu Bạch chạy sang nước Cử. Sau Tiểu Bạch về nước trước, lên làm vua (tức là Hoàn công) sai người nói với vua Lỗ giắt Tử Củ và lại lấy vợ Tử Củ.9.Ðường cung: cung nha Ðường (618-907)10.Thế Dân: Lý Thắ Dân, tức Ðường Thái Tông. Thế Dân giết em là Tiểu Lạc và lấy vợ em. Tích này trong Ðường sử chép lại là Nguyên Cát, đây nói là Tiểu Lạc, có lẽ sai.11.Bất Vi: Lã Bất Vi, người nước Tần, một lái buôn giàu có và xảo quyệt. Khi Bất Vi đến nước Triệu, thấy cháu vua Tần là Dị Nhân đang làm con tin ở đó, y nói: "Người này là món hàng quí có thể tích trữ đầu cơ được" (Kỳ hóa khả cư), rồi y mưu mô cho Dị Nhân được về nước lên kế ngôi làm vua, và y làm Tể Tướng. Bất Vi còn lấy một người thiếp rất đẹp, khi có thai, đem gán cho Dị Nhân, ít lâu sau sinh được người con trai, Dị Nhân vẫn tưởng là con mình, nên được kế ngôi, tức Tần Thủy Hoàng. Sau Bất Vi vì thông tinh với thái hậu (mẹ Thủy Hoàng, tức người thiếp của y trước), việc tiết lộ, bị đày vào Tứ-Xuyên, rồi y uống thuốc độc tự tử.12. Dạ thỏ: lòng con thỏ, Thể Loan ví với lòng mình. Người xưa bảo cung trăng có con thỏ, -lại bảo con thỏ trông bóng trăng mà chửa. Hai câu này: giải theo thuyết trên thì nghĩa là: ôm nặng tấm lòng, như con thỏ ngồi trong bóng trăng mà chờ đợi, hay theo thuyết dưới, thì... con thỏ trông lên bóng trăng mà chờ đợi, nhưng theo thuyết dưới thuận nghĩa hơn. Thể Loan nói có lòng chờ đợi Tử Trực.13.Lữ Phụng Tiên: Lã Phụng Tiên. Lữ Bố, một võ tướng đời Tam quốc, con nuôi và chân tay của Ðổng Trác. Trác mưu cướp ngôi nhà Hán. Vương Doãn, một trung thần nhà Hán, có người con gái hát trong nhà (ca cơ) tên là Ðiêu Thuyền, sắc đẹp, bàn dùng kế ly gián: trước hứa gả cho Lữ Bố, sau lại đem hiến cho Ðổng Trác.14.Thất tình: bị việc gì trái mình mà uất ức phiền não trong lòng.15.Cư tang: đạ tang, chịu tang16.Thái khanh: một chức quan to17.Chăn dân: do chữ Hán "mục dân": trị dân.18.Dinh tiền: trước dinh.19.Xốn xang: xôn xao, thổn thức, (tiắng miền Nam)20.Hán giang: có bản chép là Hàn giang, xét ra không đúng nghĩa. Hàn giang tức là sông Hán (sông Ngân) trên trời; theo chữ Hán, sông này có nhiều tên: Thiên hà, Thiên hán, Ngân hà, Ngân hán, Vân hán, Hà hán.21.Ô kiều: cầu Ô. Theo các sách Hoài Nam và Phong tục ký: Ðêm thất tịnh (đêm mồng bảy tháng bảy âm lịch) chim ô thước (quạ và vẹt) sắp hàng làm cầu bắc qua sông Ngân cho vợ chồng Ngâu gặp nhau. Câu này nói: Nguyệt Nga chưa được gặp Vân Tiên mà nhân duyên lỡ dở, cũng như vợ chồng Ngâu chưa được gặp nhau trên sông Ngân, mà nhịp cầu Ô đã long mất, rơi mất rồi. 22.Phù du: con vờ, một thứ trùng có cánh, hay bay trên mặt nước, sống một thời gian rất ngắn. nói đời ngước, sống một đời người ngắn ngủi.23.Ðồng tịch đồng sàng: cùng giường cùng chiếu, chỉ vợ chồng.24.Cửa sổ ngựa qua: nói đời người chóng qua như bóng ngựa chạy qua cửa sổ25.Dẫu thay mái tóc phải nhìn qua mối tơ: dẫu tóc bạc tuổi già cũng phải giữ lấy mối tơ.26.Cáo tạ: cũng như cáo từ, từ tạ với chủ nhân đạ xin về.27.Dám chịu: dám nhận28.Tre còn măng mất: nói cha già thì còn, con trẻ thì đã chết.29.Gia thần: người hầu hạ trong nhà quan.30.Ðèn sách ghi lòng: ký chú việc đèn sách.31.Vùa hương: bình hương32.Dương gian: khoảng có mặt trời chiếu tức cõi sống.33.Âm cung: âm phủ, chỗ toàn bóng tối, tức cõi chết.34 Thành thân: nên vợ nên chồng, nói: sống không lấy được nhau, không biết chết xuống cõi âm có được thành vợ thành chồng không?35.Cưu mang: ôm ấp, bận bịu, lo ngại.36.Loan phụng: hai chữ chim thường dùng để tượng trưng cho vợ chồng đôi lứa tốt đẹp37.Gối chích: gối chếch (lệch). Nệm nghiêng gối chích: nói loan phụng phải rẽ nhau, tình cảm đổi xây đột ngột nệm gối như bị xô lộn mà nghiêng lệch đi. Chữ Hán cũng dùng: khi trầm (gối nghiêng).38.Sông Ngân: xem chú thích ở câu 245, 246.39.Cầu Lam: chữ Hán Lam kiều, tức cầu trên ngòi Lam (Lam Khê) ở huyện Lam-Ðiền tỉnh Thiểm-Tây (Trung-quốc). Theo sách Thái-Bình quảng ký. Bùi Hàng đời Ðường gặp bà tiên Vân Kiều cho bài thơ, trong có chữ Lam Kiều, sau Hàng đến trạm Lam-kiều, khát nước, vào xin một bà lão gần đấy, được Vân Anh, con gái bà đưa nước ngọc dịch (thứ nước tiên) cho uống. Hàng thấy Vân Tiên tuyệt đẹp, muốn lấy, bà lão bảo: bà cần dùng cối ngọc và chầy ngọc để gia (luyện) thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên) nếu có những thứ ấy làm sính lễ thì gả cho. Hàng về tìm được cối chầy ngọc đưa đến lại ở đấy giã thuốc tiên cho bà một trăm ngày, rồi Hàng lấy Vân Anh và hai vợ chồng cùng thành tiên (Truyện Kiều: "Chầy sương chưa nệm cầu Lam", sương tức thuốc huyền sương.40.Tiết: xem chú thích ở câu 6 và câu 16441.Thái sư: chức quan to nhất triều đình42.Xăng: xe chặt, gắn bó43.Mai chước (mối chước): người làm mối trong việc lấy vợ, lấy chồng44.Lễ nghi: các cuộc lễ có nghi thức chương trình, cũng có nghĩa là các lễ vật. Ðây là các lễ vật mà Thái sư đưa đến để hỏi vợ cho con.45.Ô-qua: Theo Gia định Thông chí thì ở miền Châu-Ðốc Hà-Tiên trước kia thường có giặc Qua Oa ở ngoài bể vào cướp phá. Quân Miến-Ðiện xưa, còn gọi là Ô-đỗ cũng hay đe dọa miền Hà-Tây, Châu-Ðốc. Có thể là Nguyễn Ðình Chiểu đã nhớ lại những giặc xâm lược này mà đặt tên nước Ô-qua chăng.46.Binh nhung: binh sĩ, cũng có nghĩa là khí giới. Ðây chỉ binh sĩ. Dấy loàn: làm loạn. Nói nước Ô-qua đem quân quẫy nhiễu cõi biên.47.Ðồng-Quan: một cửa ải hiểm yếu ở biên giới Hán Hồ.48.Lưỡng ban: hai ban văn võ. Quân thần: bầy tôi trong một triều đình49.Cừu: thù hằn50.Khuynh thành: nghiêng thành. Lý Diên Niên đời Hán có câu ca: "Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (có bản chép là "Nhất tiếu"... "tái tiếu"...), nghĩa là một cái nhìn làm nghiêng thành, hai cái nhìn làm nghiêng nước (hay một cái cười... hai cái cười...), nói: cái nhìn (hay cái cười) của người con gái đẹp khiến vua chúa phải say mê đến nỗi mất thành mất nước. Do đó, người ta thường dùng danh từ "khuynh thành" "khuynh quốc" để chỉ những người con gái có sắc đẹp.51.Hào hoa: hào là khí phách khác người, hoa là văn vẻ tỏ dạng.52.Châu phê: vua hạ bút son phê vào tờ chiếu chỉ (châu: son)53.Cống Hồ: đem dâng cho nước Hồ (tức nước Hung-nô ở phía Bắc Trung-quốc, người Trung-quốc thường gọi là nước Hồ)