Canh chày chẳng ngủ những thao thức hoàiThất tình trâm nọ biếng càiDựa mành bỏ xõa tóc dài ngồi loChiêu Quân xưa cũng cống HồBởi người Diên Thọ họa đồ gây nên Hanh Ngươn sau cũng chẳng yênVì người Lư Kỷ cựu hiềm còn ghiHai nàng chẳng đã phải điMột vì ngay chúa, một vì thảo chaChiêu Quân nhảy xuống giang hàThương vua nhà Hán, nàng đà quyên sinhHạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linhThương người Lương Ngọc duyên lành phôi phaÐến nay phận bạc là taNguyện cùng bức tượng trót đà chung thân1415.Tình phu phụ nghĩa quần thầnNghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nênNghĩa tình nặng cả hai bênNếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồngSao sao một thác thời xongLấy mình báo chúa, lấy lòng sự phuKiều công nương gối đang loNghe con than thở mấy câu thêm phiềnKêu vào ngồi dựa trướng tiềnLấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh Chẳng qua là việc triều đìnhNào cho có muốn ép tình con chiNàng rằng: Con kể chi conBơ vơ chút phận, mất còn quản baoThương cha tuổi tác đã caoE khi ấm lạnh buổi nào biết đâuTuổi già bóng xế nhành dâuSớm xem tối xét, ai hầu cho chaCông rằng: Chi xá việc nhàHãy an dạ trẻ mà qua nước ngườiHôm nay đã tới mồng mườiKhá toan sắm sửa hai mươi tống hànhNàng rằng: Việc ấy đã đànhCòn lo hai chữ ân tình chưa xongCon xin sang lạy Lục ôngLàm chay bảy bữa trọn cùng Vân TiênNgõ cho nhân nghĩa vẹn tuyềnPhòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhauKiều công biết nghĩ trước sauDạy đem tiền bạc cấp hầu đưa đi Lục ông ra rước một khiNguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàngNgày lành giờ ngọ đăng đànĂn chay nằm đất cho chàng Vân TiênMở ra bức tượng treo lênTrong nhà cho tới láng giềng đều thươngNguyệt Nga cất tiếng khóc thanVân Tiên anh hỡi suối vàng có hayBảy ngày rồi việc làm chayBàn đem tiền bạc tạ rày Lục ông1455.Trông chồng mà chẳng thấy chồngÐã đành một chữ má hồng vô duyênRày vua gả thiềp về PhiênQuyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhauChẳng chi cũng gọi là dâu1460.Muốn lo việc nước, phải âu việc nhàMột ngày một bước một xaCủa này để lại cho cha dưỡng già.Lạy rồi nước mắt nhỏ saNgùi ngùi từ giã bước ra trở về Các quan xe giá bộn bềNăm mươi thể nữ hầu kề chân tayHai mươi nay đã đến ngàyCác quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyềnNguyệt Nga vội khiến Kim LiênLên mời thân phụ xuống thuyền xem quaCông rằng: Dạ đã xót xaCon đừng dùn thẳng cho cha thảm sầuNàng rằng: Nước non cao sâuTừ đây xa cách khôn hầu thấy chaThân con về đất Ô-quaÐã đành một nỗi làm ma đất ngườiHai phương Nam Bắc cách vờiCon xin gửi lại một lời làm khuâyHiu hiu gió thổi ngọn câyẤy là hồn trẻ về rày thăm chaKiều công lụy ngọc nhỏ saCác quan ai nấy đều thươngChẳng qua việc ở quân vươngCho nên phụ tử hai đường xa xuôi Buồm trương thuyền vội tách vờiCác quan đưa đón ngùi ngùi đứng trôngMười ngày đã tới ải ÐồngMênh mông biển rộng đùng đùng sóng xaoÐêm nay chẳng biết đêm nàoBóng trăng vặc vặc, bóng sao mờ mờTrời trên lặng lẽ như tờNguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng trònThan rằng: Nọ nước kìa nonCảnh thời thấy đó, người còn về đâuQuân hầu đều ngủ đã lâuLui ra một bức rèm châu một mìnhVắng người có bóng trăng thanhTrăm năm xin gửi chút tình lại đâyVân Tiên anh hỡi có hayThiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàngThan rồi lấy tượng vai mangNhằm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngayKim Liên thức dậy hoảng thayCùng quân thạ nữ một bầy đều lo Cùng nhau đều chẳng dám hôThầm toan mưu kế chẳng lo lậu tìnhViệc này là việc triều đìnhÐốc quan hay đặng ắt mình thác oanMuốn cho cẩn nhiệm trăm đàngKim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt NgaTrá hôn về nước Ô quaAi mà vạch lá, ai mà tìm sâuTính rồi xong xả chước mầuPhút đâu thuyền đã đến đầu ải quanÐốc quan xe giá sửa sangKiệu trương long phụng, rước nàng về PhiênAi hay tì tất Kim LiênÐặng làm hoàng hậu nước Phiên trọn đờiNguyệt Nga nhảy xuống giữa vời1Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi ràyBóng trăng vừa khuất ngọn câyNguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cungXiết bao sương tuyết đêm đôngMình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay Quan âm thương gái thảo ngayBèn đem làng lại để rày vườn hoaDăn rằng: Nàng hỡi Nguyệt NgaTìm nơi nương náu cho qua tháng ngàyÐôi ba năm nữa gần đâyVợ chồng sau sẽ xum vầy một nơiNguyệt Nga giây phút tỉnh hơiÐịnh hồn mới nghĩ mấy lời chiêm baoThiệt hư chưa biết làm saoBây giờ biết kiếm nơi nào gửi thânMột mình luống những bâng khuângPhút đâu trời đã rạng hừng vừng đôngMột mình mang bức tượng chồngXẩy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườnÔng rằng: Nàng ở hà phươngViệc chi mà tới trong vườn hoa taNàng rằng: Trận gió hôm quaChìm thuyền nên nỗi mình ra thế nàyTối tăm sẩy bước tới đâyXin soi xét tới thơ ngây lạc đường Bùi ông đứng ngắm tướng nàngChẳng tranh đài các cũng hàng trâm anhÐầu đuôi han hỏi sự tìnhNàng bàn lời thiệt việc mình bày quaBùi ông mừng rước về nhàThay đổi xiêm áo nuôi mà làm conRằng: Ta sinh đặng chồi non Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinhTrong nhà không gái hậu sinhNgày nay lại gặp minh linh phước trờiNguyệt Nga ở đã an nơiÐêm đêm nghĩ lượng sự đời gần xaMột lo về nước Ô-quaE vua bắt tội cha già rất oanHai lo phận gái hồng nhanSợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gìNguyệt Nga luống những sầu biXẩy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhàTừ ngày thấy mặt Nguyệt Nga.Ðêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần Thấy nàng thờ bức tượng nhânNghiệm trong tình ý dần lân hỏi liềnTượng này sao giống Vân TiênBấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?Nàng rằng: Làm phận nữ nhiMột câu chánh tiết phải ghi vào lòngTrăm năm cho trọn đạo tòngSống sao thác vậy, một chồng mà thôiKiệm rằng: Nàng nói sai rồiAi từng bán đắt mà ngồi chợ trưaLàm người trong cõi gió mưaBảy mươi mấy mặt người xưa thấy nàoChúa xuân còn ở vườn đàoOng qua bướm lại biết bao nhiêu lầnChúa xuân ra khỏi vườn xuânHoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoangỞ đời ai cậy sang giàuBa xuân dẫu hết ngàn vàng khôn muaHay chi như vãi ở chùaMột căn cửa khép, bốn mùa lạnh tanh Lênh đênh một chiếc thuyền tìnhMười hai bến nước gửi mình vào đâuAi từng mặc áo không bâuĂn cơm không đũa, ăn trầu không cauNàng sao chẳng nghĩ trước sauGiữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình,Nàng rằng: Tằng đọc sử kinhLàm thân con gái chữ trinh làm đầuChẳng phen thói nước Trịnh đâuHẹn người tới giữa vườn dâu tự tìnhKiệm rằng: Ðã biết sử kinhSao không suy xét để nằm khôngHồ Dương xưa mới góa chồngCòn mơ nhan sắc Tống công cũng vừaHạ cơ lớn nhỏ đều ưaChú thích:1.Chiêu Quân: Vương Tường tự là Chiêu Quân, một cung nhân của Nguyễn đế nhà Hán, sau bị gã cho vua Hung-Nô. Ði thuyền vào quá nội địa Hung-Nô, Chiêu Quân nhảy xuống sông Hắc-Hà tự tử. "Chiêu Quân cống Hồ" một đề tài thường được các nhà thơ văn xưa nay ca ngợi thương tiắc.2.Hạnh Ngươn (Nguyên): một nhân vật trong truyện Nhị Ðộ Mai. Cũng như Chiêu Quân, Hạnh Nguyên bị bắt đi cống Hồ và cũng tự tử nhưng có người cứu vớt.3.Cựu hiềm: thù cũ4.Ngay chúa: trung với vua. Thảo cha: hiếu với cha. Nói một đằng Chiêu Quân, một đằng Hạnh Nguyên theo mệnh cha, hai người phải trọng đạo trung với đạo hiắu mà đành đi hiến thân cho nước Hồ.5.Quyên sinh: vứt bỏ cái mạng sống, tự tử6.Chung thân: trọn đời, đến khi chết7.Nghĩa xa cũng trọn, ơn gần cũng nên: nói nghĩa vua tôi cũng như ơn (tình) vợ chồng cùng phải giử cho trọn vẹn.8.Sự phu: thờ chồng. nói: chết đi thì mới có thể được cả hai bề: báo chúa, thờ chồng.9.Trướng tiền: trước màn10.Thân danh: thân mình và danh dự11.ấm lạnh buổi nào biết đâu: nói không biết lúc nào khoẻ lúc nào ốm.47.Bóng xế nhành dâu: như nói bóng xế về Tây. Sách Hoài Nam Tử nói: mặt trời xế về Tây, gác bóng trên ngọn cây, gọi là "tang du" (tang: cây dâu, du: một loài cây cao, gỗ bền chắc, thường dùng chế khí cụ). Người sau mượn dùng hai chữ "tang du" này để chỉ phương Tây hay ví với tuổi già.12.Tống hành: tiễn người lên đường.13. Ðăng đàn: lên đàn tế lễ.14. Bức tượng: đây là bức tranh truyền thần.15.Cửu tuyền: chín suối, chỉ dưới đất sâu, tức cõi chết, cũng như nói "hoàng tuyền" (suối vàng).16.Xe giá: xe dùng cho vua, gia đình vua, hoặc các bậc vương hầu. Ðây Nguyệt Nga được coi là vợ vua Phiên, nên các quan đưa xe giá đến đón một cách rộn rịp.17.Thể nữ (con gái):con gái hầu trong cung vua, tức cung nữ. Ðây Nguyệt Nga đã coi là hoàng hậu phi, nên con gái đưa đến hầu nàng, cũng gọi là thể nữ.18.Bảo hộ: giữ gìn hộ vệ.19.ải Ðồng: cửa ải Ðồng-Quan, xem chú thích câu 137520.Tóc tơ: kết tóc xe tơ, tức tình nghĩa vợ chồng.21.Rèm châu: chính nghĩa là một thứ rèm bện bằng ngọc châu, sau thường dùng để chỉ chung những thứ rèm quí.22.Lậu tình: tiết lộ tình hình để cho người ngoài biết chuyện.23.Ðốc quan: chức quan đôn đốc việc Nguyệt Nga đi cống Phiên.24.Cẩn nhiệm: cẩn thận bí mật.25.Trá hôn: giả mạo trong công việc cưới gả, nghĩa là không đúng người đã đính ước.26.Long phụng: lọng che vẽ hình chim phượng.27.Âm cung: âm phủ, cõi chết. nói Nguyệt Nga còn mê mệt chưa tĩnh.28.Quân âm: tức Quan Thế Âm, tên một vị Phật, quan là nghe xem, thế âm là âm thanh của người đời, vị Phật này thường nghe xem những tiếng kêu khổ nạn của người đời mà tìm đến chỗ giải cứu cho, nên gọi như thế.29.Ðịnh hồn: tỉnh lại, hồn được yên định lại30.Hà phương: phương nào, nơi nào?31.Ðài các: dinh thự và lầu gác, chỉ nơi quan chức quyền quí. Trâm anh: cái gài tóc và cái dải mũ, chỉ hạng người sang cả.32.Minh linh: một loại sâu (sau hóa bướm) thường cuộn tổ ở lá lúa, lá rau mà cắn hại. Kinh Thi có câu: "Minh linh hữu tử, quả lõa phụ chi", nghĩa là minh linh có con, tò vò cõng về nuôi, do đó, tục gọi "con nuôi" là: "minh linh". Việt nam cũng có câu: "Tò vò mà nuôi con nhện...". Nhưng người xưa đã không xét kỹ, tò vò bắt minh linh hay nhện đưa về, là để làm thức ăn nuôi con nó, chứ không phải để nuôi làm con.33Nghĩ lượng: nghĩ ngợi suy tính.34.Bảo dưỡng: giữ gìn và nuôi nấng. Nguyệt Nga sợ rằng: Bùi ông bảo dưỡng mình là có mưu toan gì chăng?35.Phòng hoa: căn phòng trang trí đẹp đẽ, văn vẻ.36Tượng nhân: hình người vẽ37.Dần lân: lân la dần dần38.Chánh tiết: điều trinh tiết chủ yếu.39.Bán đắt: tiếng miền Nam là đắt hàng. nói: bán đắt hàng sao không bán ngay mà lại ngồi chợ trưa nghĩa là có nhan sắc như Nguyệt Nga, ai chả say mê, việc chi mà ngồi đợi.40.Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào: do câu thơ của Ðỗ Phủ đời Ðường. Nhân sinh thất thập cổ lai hy, nghĩa là đời người ta, xưa nay ít ai sống được bảy mươi tuổi.41.Mười hai bến nước: có lẽ là một thành ngữ chỉ con số cửa sông hoặc cửa biển của nước ta thời xưa. Bài thơ của Lê Quát đời Trần có câu: "Hải môn thập nhi ngã hoàn sơn", nghĩa là: một vùng mười hai cửa biển, ta về núi ẩn". Ðây nói số phận đàn bà lênh đênh, không biết rõ đâu là bờ bến.42.Bâu: cổ áo. Câu này là một câu ca dao có sẵn43.Thói nước Trịnh: nước Trịnh đời Xuân thu, có tiếng là một nước nhiều thói phóng đãng, trai gái thường tụ trên sông Trăn sông Vị, cùng nhau tặng hoa thược dược mà đùa bỡn, còn những chuyện trèo tường, đón ngõ, hẹn nhau ngoài nội cỏ, thì rất phổ biến ở trong nước.44.Vườn dâu: đời Xuân Thu còn có nước Vệ cũng dâm tục như nước Trịnh, trai gái thường hẹn hò nhau ở trên sông Bộc hoặc trong vườn dâu.45.Hồ Dương: theo Hậu Hán thư: Hồ Dương công chúa, chị gái vua Hán Quang Vũ, góa chồng được ít lâu muốn lấy Tống Hoằng (Tống công) một đại thần của Quang Vũ. Hoằng không chịu lấy, quyết giữ trọn tình nghĩa với người vợ "tào khang" của mình (Xem chú thích ở câu 410).46.Hạ Cơ: một người đàn bà đẹp nhưng đa dâm, là con gái Trịnh Mục Công (đời Xuân thu), lấy Ngự Thúc, quan nước Trần, Ngự Thúc chết, thông tình với Trần Linh Công và các quan triều là Khổng Ninh, Nghi Hành Phủ. Sau Sở diệt Trần, lại lấy Liên Doãn Tương Lão (Liên Doãn là họ). Tương Lão chết, lại lấy Thân Công Vu Thần nước Sở