Hồi 6
Vạn dặm cầu hiền

Vẫn tại trại hè Về-nguồn 1996.
Sáng ngày 1 tháng 9.
Tiếng chim rừng hót véo von, đã đánh thức tôi. Nhìn đồng hồ, mới bẩy giờ. Sáu người cùng qua đêm với tôi tại căn nhà gỗ nhỏ, còn đang chìm trong giấc ngủ. Tôi bước ra sân. Ánh nắng ban mai phủ lên khắp rừng núi. Tôi thực hành một thức Khí-công, vận khí đi theo vòng Đại Chu-thiên đúng 36 lần, rồi thu công. Phóng mắt nhìn một vòng quanh trại, không khí sinh hoạt nhộn nhịp hẳn lên.
Trong lúc ăn sáng, tôi chợt để ý rằng đa số những vị lớn tuổi, đều ngồi gần nhau, để truyện trò. Hầu hết là truyện văn văn hóa, rất ít người nói truyện làm ăn. Không thấy ai nói truyện chính trị. Quanh tôi là mấy người trẻ, Lâm Diễm-Hồng, Nguyễn Tâm-Huy, Nguyễn Lộc-Quy, Trần Quỳnh Kim-Ngân, Mai-thị Huyền-Trang, Hoàng-Lan. Hầu hết những người trẻ này đều ngang tuổi với các con tôi, nên trong câu truyện họ trao đổi với nhau, tôi nắm được ý tưởng của họ, và hiểu họ.
Sau khi ăn sáng, một cháu gái trong đám nghe tôi kể truyện đêm qua đến bên tôi, nói sẽ vào tai:
- Có người tìm bác, khẩn lắm.
Tôi vội cáo lỗi đứng dậy, theo cô bé đó. Thì ra cũng vẫn nhóm trẻ hôm qua. Họ kéo tôi vào căn nhà gỗ, rồi xin tôi kể tiếp.
Một cháu trai, tuổi còn rất trẻ, có lẽ chưa tới 18, cháu hỏi tôi:
- Hôm qua, bác đã lướt qua truyện năm thiếu nữ khốn cùng, đến độ cha mẹ phải bán con ; hai thiếu niên mà mẹ phải đi ở vú là Tăng Khoa, Từ Thụy-Hương. Tiếp theo bác thuật hành trạng của ba thiếu niên quyền quý là Thái-tử Long-Xưởng, công chúa Đoan-Nghi, tiểu thư Bùi Trang-Hòa. Rồi bác cho họ sống hòa hợp với nhau bằng tình thương yêu của tộc Việt. Bác hứa hôm nay, bác sẽ thuật cho bọn cháu nghe về ba thiếu niên thảo dã. Ba thiếu niên này, sẽ cùng mười thiếu niên trên hợp nhau, làm lên những đấng anh hùng. Vậy xin bác kể tiếp.
Tôi khoan thai kể:
- Trong mười ba thiếu niên này, thì Long-Xưởng, Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Tăng Khoa, Thụy-Hương là những người thuộc cuối thời đại Tiêu-sơn. Họ là anh hùng Tiêu-sơn. Còn năm thiếu nữ khốn cùng, với ba thiếu niên mà bác sắp kể đây là những thiếu niên mở đầu cho thời đại Đông-A. Chính họ là những anh hùng Đông-A, dựng cờ bình Mông.
..............

*

Trời bắt đầu vào Thu, cái lạnh đã bắt đầu len lỏi trong không gian, những chiếc lá bàng vàng úa đầu tiên bay lượn theo gió rơi lả tả xuống đất.
Trên con đường thiên lý, từ Thăng-long hướng về Thiên-trường, một chiếc xe song mã đang sải bước, tiếng nhạc ngựa rung nhịp nhàng. Người đánh xe là một đứa trẻ, tuổi khoảng mười một, mười hai. Cạnh nó, một đứa con trai, một đứa con gái nữa, tuổi suýt soát với nó. Thoáng nhìn, người ta cũng biết ba trẻ là anh em ruột, vì chúng có nhiều nét giống nhau. Ghế phía sau của ba đứa trẻ, là một đôi thiếu niên nam nữ ngồi ngắm trời. Đôi nam nữ đó, nam thì hùng vĩ, tuấn tú; nữ thì yểu điệu, ôn nhu, văn nhã.
Bỗng đứa con trai quay lại sau hỏi:
- Mẹ ơi! Con tỳ, con vị của con nó quấy rầy con quá, con đói đứt ruột ra rồi!
Thiếu phụ an ủi:
- Con chịu khó nhịn một lát nữa thôi, là ta tới khu ngã ba đường Thăng-long đi Trường-yên, Thiên-trường, ở đó có nhiều quán ăn, tha hồ cho con ăn.
Đứa bé gái bẹo tai đứa con trai:
- Cái anh Thủ-Huy này, mới ăn ban nãy, mà đã đói rồi, bộ trong bụng anh có con hổ hay sao, mà cứ ăn một lúc lại đòi ăn?
Đứa con trai ngồi cạnh thằng Thủ-Huy xen vào:
- Thì nam thực như hổ, nữ thực như miêu mà. Nó với anh đều là con trai, thì phải ăn như hổ cũng là sự thường thôi! Còn em là gái mà cũng ăn khỏe thì mới là điều lạ lùng. Có lẽ phải đổi câu nam thực như hổ, nữ thực như miêu thành nam thực như hổ, nữ thực như voi cho hợp.
- Hứ! Hai ông dạ dầy lủng, cùng đói như nhau nên bênh nhau. Không chừng anh Thủ-Lý còn đói hơn anh Thủ-Huy nữa.
Bỗng có tiếng vó ngựa khua móng dồn dập, Thủ-Lý đứng lên nhìn về phia sau xe, rồi la lớn:
- Có hai con ngựa đuổi theo ba con ngựa. Ồ, ba người chạy trước thì hai người mặc y phục võ, một người là trẻ con. Còn hai người đuổi theo, thì một già một trẻ.
Trung niên nam tử lên tiếng:
- Bọn võ lâm à? Như vậy là có liên quan tới bọn giang hồ hắc đạo rồi. Ta đứng tọa thủ bàng quan, không nên dây với hủi chi cho bực mình.
Ba kị mã phi ngựa chạy, tới gần chiếc xe thì phải ghì cương cho ngựa chậm lại, vì đường hẹp, không đủ chỗ cho họ vượt qua. Hai kị mã phía sau đã đuổi kịp. Hai võ sĩ nói với đứa trẻ:
- Tình hình nguy lắm rồi, xin chủ nhân bỏ chạy trước đi để thuộc hạ cản đường, tử chiến với chúng.
Đứa trẻ vọt ngựa lên trước, rồi ra roi cho ngựa phi nước đại. Còn hai võ sĩ thì cầm ngang đoản đao, gò cương cho ngựa dàn ra đường. Một người nói:
- Nghi-tàm song-ma! Hôm nay dù có thịt nát xương tan, ta cũng nhất quyết tử chiến với bọn mi.
Thiếu phụ trên xe ngựa phía trước nói nhỏ với chồng:
- Bọn Nghi-tàm song-ma dường như có tên là Vũ An, Vũ Minh thì phải. Chúng nó là hai cha con. Vậy tên già kia là Vũ An rồi. Còn tên trẻ là Vũ Minh. Không biết chúng đuổi theo đứa trẻ công tử kia với mục đích gì? Cướp của chăng?
Người chồng thở dài:
- Thời với thế! Ai đời giữa ngay thủ đô Thăng-long, mà bọn trộm cướp kết đảng, xưng là ma, là quỷ mà vẫn để yên được. Bây giờ ngay trên đường cái quan, mà chúng hoành hành như rừng núi vậy. Vua, quan..-lương Hợp-thai đã nhận ra người anh kết nghĩa Trần Thủ-Độ. Y reo lên:
- Nhị ca!
Cả hai nắm lấy tay nhau, lặng đi một lúc, rồi Ngột-lương Hợp-thai lên tiếng:
- Người ta...Người ta nói láo rằng nhị ca chết rồi. Không ngờ nhị ca vẫn còn tại thế. Bây giờ nhị ca làm quan với An-Nam à?
- Đúng vậy. Không những huynh làm quan mà còn là Thái-sư của Đại-Việt nữa.
Thủ-Độ giới thiệu những người cùng đi gồm Đại-Việt thất tuyệt: Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng, Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn, Tiêu-Dao, Lung-Á, Y-Sơn. Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm, nhưng hiện diện chỉ có hai vị Vô-Sắc, Vô-Ảnh. Cuối cùng là Trần Tử-An.
Phân ngôi chủ khách xong, Hoài Đô nói với Thủ-Độ:
- Thưa Trần tiên sinh! Tôi nghe phụ hoàng nói rằng, xưa người cùng tiên sinh, Thái-sư đây, Đại-vương Bạt-Đô, Đại-vương A-lý Hải-nha kết thành Thảo-nguyên ngũ thiết điêu, nức danh Thảo-nguyên. Đức Thái-tổ phong tiên sinh làm tướng chỉ huy đạo binh Phương-Đông. Không biết hôm nay tiên sinh tới đây với tư cách là đại tướng của Mông-cổ hay là Thái-sư của An-Nam?
Thủ-Độ biết tên nhãi con này muốn kiếm chuyện đây, ông cười nhạt:
- Khi chúng ta lừng danh Thảo-nguyên thì dường như Phò-mã chưa ra đời thì phải? Cho nên Phò-mã mới đặt câu hỏi đó với ta. Để trả lời câu hỏi của Phò-mã, ta khẳng định, ta đến đây không nhân danh đại tướng Mông-cổ, mà cũng không nhân danh Thái-sư Đại-Việt. Ta đến đây với hai chủ đích. Một là nhân danh một con dân Đại-Việt, muốn nói chuyện với một Thái-sư thống lĩnh hành quân chinh thảo Nam-thiên. Hai là để thăm người em kết nghĩa Ngột-lương Hợp-thai.
Ông chỉ 9 vị đại tôn sư võ học Đại-Việt:
- Còn chín vị này, các người nghe tin có hai vị đạo cao đức trọng nhất trong võ lâm Trung-quốc là Tiêu-Hư đạo sư phái Võ-đang ; Trấn-thiên kiếm Phùng tiên sinh phái Côn-luân giá lâm Đại-Việt, nên tới để tiếp rước, để tỏ lòng ngưỡng mộ bấy lâu.
Coi như không biết tới Hoài-Đô, ông hỏi Ngột-lương Hợp-thai:
- Dường như tam đệ đang ăn tiệc mừng chiến thắng phải không?
- Đúng vậy! Xin nhị ca, cùng chư vị cùng nâng chung với đệ.
Nói rồi y ra lệnh cho ca nhi dâng rượu, tấu nhạc. Đó là nhạc chiến thắng Mông-cổ. Bọn nhạc công xử dụng toàn nhạc cụ Đại-Việt. Bọn vũ công vừa ca, vừa múa nhịp nhàng. Bản nhạc dứt, Hoài Đô hỏi:
- Khúc nhạc này thế nào? Xin các vị cho lời bình phẩm.
Lê Ngân Sơn mỉm cười:
- Xin Phò mã cho nghe một lần nữa, lão phu sẽ tấu Độc-huyền cầm (đàn bầu), để phụ họa cho vui.
Hoài Đô phất tay, bọn ca nhi lại vừa hát vừa múa. Lê Ngân Sơn cầm cây đàn bầu treo trên tường. Lê Kim Sơn rút trong bọc ra môt ống tiêu. Kim Sơn đưa tiêu lên miệng, tiếng tiêu cất lên véo von. Ngân Sơn bật lên mấy tiếng, âm ba rung động, truyền đi rất xa. Lập tức các ca nhi bị choáng váng, lời ca nhịp múa hỗn loạn. Từ Ngột-lương Hợp-thai cho chí tên nhạc trưởng đều kinh hoàng.
Tên nhạc trưởng nghiến răng phất tay ra lệnh, tiếng đàn, tiếng phách, tiếng sênh...lại tiếp tục. Bọn vũ nữ, ca nhi ca múa lại từ đầu. Sau khi dạo mấy tiếng, lần này Ngân Sơn, Kim Sơn tấu một bản nhạc, đó là bản Động-đình ca. Đám vũ nữ không làm chủ được, chúng múa theo nhịp đàn của Ngân Sơn, tiếng sáo của Kim Sơn. Bản nhạc dứt, Ngân Sơn hỏi Hoài Đô:
- Phải chăng bản nhạc vừa rồi là nhạc Thảo-nguyên?
Hoài Đô từng nghe nói: Phái Sài-sơn của Đại Việt ngoài võ công, kỵ mã, tiễn thủ...còn nổi tiếng về Lịch-số, Âm-nhạc. Bây giờ hai đại tôn sư dùng nội công thượng thừa truyền vào âm thanh, khiến các ca nhi, vũ nữ bị lạc nhịp, rồi không tử chủ được, phải múa theo nhịp do anh em họ Lê muốn. Y nói ngang:
- Đây là âm nhạc của rợ phương Nam. Vùng Thảo-nguyên anh hùng đời nào có loại nhạc này nhỉ.
Ngân-Sơn, Kim-Sơn lại tiếp tục tấu nhạc. Tiếng đàn, tiếng tiêu vừa phát ra thì tất cả nhạc công, vũ nữ đều bị âm ba khích động, chúng múa theo điệu nhạc. Lúc đầu các tướng Mông-cổ còn tự chủ được, nhưng chỉ lát sau, cao nhất là Ngột-lương Hợp-thai, cho tới bọn quân hầu, đều không tự chủ được, cũng múa may rối loạn cả lên. Hoài-Đô, A Truật lấy tay bịt tai lại, nhưng âm thanh vẫn cứ lọt vào trong, chân tay cứ mua may, quay cuồng. Bản nhạc dứt, thì đám ca nhi, nhạc công mệt quá, ngã ngồi xuống đất.
Thế là cuộc tấu nhạc chấm dứt.
Thái-sư Thủ Độ hỏi Ngột-lương Hợp-thai:
- Xưa tiên phụ cùng Thái-sư thúc Phạm Tử-Tuệ trị Huyền-âm độc chưởng cho phụ thân nhị đệ là Tốc Bất Đài. Sau khi phụ thân đệ khỏi bệnh, Thành-cát Tư-hãn có thề với tiên phụ rằng: Trọn đời, và di ngôn cho con cháu mãi mãi nhớ ơn Đại-Việt. Vậy không biết lời di chúc đó có còn giá trị không?
Ngột-lương Hợp-thai biết người anh kết nghĩa này trí tuệ vô song. Muôn ngàn lần y không thể dùng ngôn từ mà thắng nổi. Y trả lời cho qua:
- Dĩ nhiên lời thề đó đến nay vẫn có giá trị.
Thủ-Độ nắm lấy tay Ngột-lương Hợp-thai:
- Vậy tại sao tam đệ lại mang quân tàn phá Đại-Việt? Như vậy là nhớ ơn? Là ghi ơn ư?
Hoài Đô biết rằng đấu lý, đấu võ, đấu gì chăng nữa, Ngột-lương Hợp-thai đều không phải là đối thủ của Thủ-Độ. Y xen vào:
- Thưa tiên sinh. Khi Thành-cát Tư-hãn hứa những lời trên, thì người chỉ là một Khả-hãn bộ tộc Mông-cổ nhỏ xíu ở Lý-long hà. Còn người ban chỉ chinh tiễu An-Nam bây giờ là một đại hoàng đế Mông-cổ. Không thể mang lời hứa của một chúa bộ tộc, bắt một đại hoàng đế phải thi hành.
Y ngừng lại cười nhạt:
- Tiên sinh nên nhớ, khắp gầm trời này từ Đông sang Tây, từ Bắc uống Nam, hằng trăm nước, nhất nhất đều phải quy phục Mông-cổ. Tiên sinh từng là đại tướng của Mông-cổ, tại sao tiên sinh không bắt Trần Cảnh hạ cờ theo về Thiên-qu. chết hết cả rồi.
Nghi-tàm song-ma với hai võ sĩ đã bắt đầu giao chiến. Song-ma dùng côn nhị khúc múa như mây trôi, như sóng vỗ. Côn, đao chạm nhau kêu lên những tiếng loảng xoảng. Thiếu phụ hỏi chồng:
- Anh thấy thế nao?
- Kể về chiêu thức thì hai bên ngang nhau. Nhưng về nội lực thì Song-ma bỏ xa hai võ sĩ.
Ông quay lại bảo con:
- Thôi ta đi thôi!
Thủ-Huy ra roi cho ngựa vọt tới trước, tuy vậy nó vẫn còn tiếc rẻ, thỉnh thoảng lại quay đầu về sau quan sát chiến trường.
Xe chạy một lát, thì không còn nghe thấy tiếng vũ khí chạm nhau nữa. Hơn khắc sau, chợt đứa con gái chỉ về phía trước:
- Kìa, anh chàng công tử kìa? Chắc anh ta gò ngựa chờ hai tùy tùng đấy.
Khi xe vượt qua con ngựa của công tử, thằng Thủ-Lý tội nghiệp, nhắc:
- Chạy thì chạy cho mau, chậm tý nữa chúng đuổi tới e mất mạng đấy. Hai gia nhân của anh giờ này chắc bị giết rồi.
Gã tiểu công tử tỏ ra cương cường:
- Nếu hai gia nhân bị giết rồi, thì tôi có chạy cũng vô ích, chúng sẽ đuổi kịp, vì vậy tôi không chạy nữa.
Chiếc xe ngựa lại bon bon lên đường. Xe chạy được khoảng ba khắc sau, thì đứa con gái chỉ tay về trước:
- Kìa ngã ba kia kìa. Ừ, nhà cửa san sát, chắc có nhiều quán ăn, tha hồ cho anh Thủ-Lý, Thủ-Huy ăn nhé! Cười đi!
Hai đứa con trai ứng lời đứa con gái cùng nhau hì lên một tiếng. Đứa trẻ tên Thủ-Huy ghì cương cho xe chạy chậm chậm lại. Xe đi giữa hai dẫy nhà, toàn là quán ăn. Nó giật dây cương, hai con ngưạ đứng lại trước một nhà hàng có bảng hiệu Quán Bích-động. Một thiếu niên tuổi khoảng mười lăm, mười sáu chạy ra cầm lấy cương ngựa. trong khi đó chủ quán đon đả đón khách.
Thiếu phụ chỉ lên lầu:
- Cho tôi một bàn ở trên lầu.
Chủ nhà hàng vui vẻ dẫn khách lên lầu.
Thiếu phụ hỏi:
- Này ông chủ! Mùa này là mùa rươi, ông cho tôi hai đĩa chả rươi, một con gà mái tơ luộc, hai bát canh cá rô nấu với cải bẹ xanh, một đĩa cà pháo mắm tôm. Cơm thì ông cho chúng tôi cơm gạo dự.
Chợt trung niên nam tử lắng tai chú ý nghe rồi nói:
- Dường như có người phi ngựa từ Thăng-long về phía này thì phải. Một con phi trước, hai con phi sau. Có lẽ hai người đuổi một người. Anh nghĩõ bọn Nghi-tàm giết chết hai gia nhân, rồi đuổi theo gã tiểu công tử.
Câu nói vừa dứt thì ba con ngựa đã tới trước quán. Đúng như trung niên nam tử nói, kị mã chạy trước quả là gã tiểu công tử, còn hai người đuổi theo là Nghi-tàm song-ma.
Đường phố đông người, khiến ngựa không phi được, nên Song-ma đã bắt được gã thiếu niên công tử. Hai cha con kè hai bên ngựa của gã thiếu niên công tử. Vũ An túm láy cổ áo thiếu niên, rồi cười ha hả:
- Xem mi có chạy được nữa không?
Đứa trẻ lắc mình một cái, y đã vuột khỏi tay Vũ An. Nhưng Vũ An lại chụp tiếp. Vũ Minh nắm lấy cương ngựa của tiểu công tửù, rồi cùng Vũ An giật cương cho ngựa quay về hướng Thăng-long.
Thiếu phụ mỉm cười nhìn chồng, rồi lấy hai cái đũa trong ống, tay vung lên, hai cái đũa xé gió kêu lên hai tiếng vi vu. Một cái trúng huyệt Đại-trùy của Vũ Minh, một cái trúng huyệt Thiên-tông của Vũ An. Lập tức cả hai người cùng tê liệt, ngồi như hai pho tượng trên ngựa. Đứa trẻ bị bắt chỉ sẽ vùng vẫy là đã thoát khỏi tay Vũ An. Nó tỏ ra bình tĩnh cầm cương ngựa của mình, thong thả đi giữa phố đông đặc người, coi như không biết đến Song-ma đã bắt nó. Nó tiến tới tửu lầu Bích-động trao cương ngựa cho tửu bảo rồi khoan thai lên lầu, ngồi vào cái bàn cạnh cặp vợ chồng trẻ với ba đứa con. Nó liếc mắt nhìn năm người, khẽ gật đầu chào, miệng mỉm cười làm quen.
Thủ-Lý, Thủ-Huy cùng mỉm cười đáp lại.
Dưới đường, Vũ Minh lên tiếng:
- Bố ơi! Tại sao chân tay chúng mình lại tê liệt như thế này?
- Còn tại sao nữa? Chúng mình bị người ta ném ám khí điểm huyệt chứ còn làm sao nữa. Không biết kẻ nào đã ra tay ám toán mình. Nghĩ tức thực là tức.
Trên lầu, trung niên nam tử bảo vợ:
- Thôi, em dạy dỗ chúng như vậy đủ rồi, tha cho chúng đi.
Thiếu phụ mỉm cười, bà bốc hai hạt đậu lạc (phộng) rồi vung tay lên. Cả hai hạt đậu đều trúng huyệt Chí-dương của Song-ma. Lập tức cả hai lại cử động được như thường. Vừa cử động đươc, Song-ma cột ngựa vào gốc cây bên đường, rồi tung mình lên tửu lầu. Hai người tiến đến ngồi hai bên đứa trẻ. Đứa trẻ tỏ vẻ không sợ, nó hỏi:
- Này hai gã tướng cướp kia! Giữa ta với hai đứa bay vốn không quen biết, lại không thù, không oán. Hà cớ chúng bay cứ theo làm khó dễ ta hoài? Nếu như sư phụ ta biết, ắt người sẽ xé xác bọn mi ra, bấy giờ bọn mi có van xin cũng vô ích.
Vũ An cười khành khạch:
- Sư phụ mi là ai? Nói nghe thử? Nếu sư phụ mi đến đây, e ta sẽ bóp chết y như bóp một con dán mà thôi.
Vũ Minh cũng cười, y nói bằng giọng cực kỳ đểu giả:
- Ví thử như sư phụ mi có là Ngọc-hoàng đại đế, nhưng hôm nay hai ông nội mi cho mi chầu Diêm-vương rồi, thì sư phụ mi cũng không biết tại sao mi chết. Chết do ai giết mà trả thù.
Đứa trẻ chỉ vào bàn của cặp vợ chồng và ba đứa con đang ăn:
- Ta có chết đi, thì còn năm người này sống. Họ sẽ nói cho sư phụ ta biết rằng ngày hôm nay hai tên Vũ An, Vũ Minh có biệt hiệu là Nghi-tàm song ma, đã hại ta.
Nói rồi nó nói với đứa trẻ tên Thủ-Huy:
- Có phải thế không huynh?
Thủ-Huy gật đầu:
- Đúng thế. Nhưng anh phải nói tên anh, cùng danh tính sư phụ anh ra cho các vị đây biết đi chứ!
- Ừ nhỉ! Hai tên cướp kia, bọn mi hãy nghe cho rõ nhé. Sư phụ ta đau đớn đến phải kêu cha gọi mẹ, rồi sau đấy công lực của mi mất hết, người mi sẽ mềm xèo như sợi bún. Ha! Ha! Mi có mau rập đầu lạy lão gia một trăm lạy, lão gia sẽ tha cho mi cái tội vô lễ hôm nay.
Nhưng tiếng cười của nó bị tắt ngấm ngay, vì nó cảm thấy chân khí bế tắc, hai bàn tay xám ngắt, sưng vù. Toàn thân nó đau đớn cùng cực. Rõ ràng nó bị trúng Huyền-âm nội lực. Nó cười ha hả:
- À thì ra mi cũng biết Huyền-âm nội lực. Mi dùng Huyền-âm nội lực xử dụng Huyền-âm chỉ! Nhưng đối với ta thì vô ích.
Nói dứt, nó móc trong túi ra một hộp thuốc, lấy ba viên bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến rồi nuốt. Sau khi nuốt thuốc, nó thấy tay lại sưng lớn hơn, cảm giác đau đớn càng tăng. Nó nghiến răng, cúi gập người xuống để khỏi bật thành tiếng kêu, nhưng cuối cùng không tự chủ được, nó thét lên:
- Ái! Đau quá! Ái.
Bấy giờ người ăn mày mới mở cái nón ra. Đó là một người đàn ông, gương mặt khó có thể đoán đươc rằng ông ta còn trẻ hay già. Mặt ông đẹp như Phật Di-Lặc, tóc bạc như cước. Ông ta cung tay hành lễ với Long-Xưởng, Đoan-Nghi Trang-Hòa:
- Tiểu công tử. Tiểu thư! Của bố thí không bằng cung cách bố thí. Chỉ cần một cử chỉ của công tử ban lộc cho lão ban nãy, lão cũng biết công tử, tiểu thư có tâm Bồ-tát. Còn tiểu thư, không tiếc của, ban vàng, lại không sợ trách phạt, thì hỡi ơi lòng dạ tiểu thư còn rộng hơn biển Đông nữa.
Nói rồi lão đeo đôi xuyến vào tay Đoan-Nghi. Trong khi lão ăn mày nói, thì thằng Ba vẫn đau đớn lăn lộn trên nền điện. Lão ăn mày hướng thiếu niên giữ đền ra lệnh:
- Quang-Anh, hỏi cung nó.
Thiếu niên dạ một tiếng rồi nói với thằng Ba:
- Mi có biết tại sao mi đau đớn như vậy không?
- Ái! Tôi không biết. Đau quá, giết tôi đi!
Quang-Anh chỉ vào lão ăn mày:
- Mi có biết sư phụ ta là ai không?
- Tôi cũng không biết. Ái! Giết...tôi đi.
- Ta cần biết một số tin tức. Nếu mi khai đầy đủ, ta sẽ giải khai cái đau đớn cho mi.
- Ái! Tôi xin nói.
- Họ, tên thực của mi là gì?
- Tôi họ Đỗ, tên thực là Đỗ Anh-Hào.
- Năm nay mi bao nhiêu tuổi?
- Hai mươi ba tuổi.
- Cha mi là ai?
- Là...ái...là Đỗ Anh-Vũ.
- Mẹ mi là ai?
- Tôi không biết!
- Mi không biết ư? Như vậy là mi nói láo. Được, ta để cho mi đau đớn đến chết, xem mi có chịu nói hay không!
Thằng Ba tức Đỗ Anh-Hào run rẩy, lăn lộn một lúc, rồi không chịu được, nó rên:
- Ái! Đau chết mất. Tôi xin nói... mẹ tôi là...Cảm-Thánh hoàng thái hậu.
Quang-Anh điểm vào huyệt đại trùy của Anh-Hào, lập tức cảm giác đau đớn biến mất. Nhưng chân tay nó vẫn còn run.
Nghe Anh-Hào cung khai, Long-Xưởng kinh hoàng đến nỗi tưởng rằng mình nằm mơ. Vương nghĩ thầm: Từ trước đến nay, mình được mẫu hậu cho biết việc Đỗ Anh-Vũ tư thông với Thái-hậu, chuyên quyền, giết hại trung thần, tàn sát tông thất... Chứ tuyệt không ngờ hai người lại có con với nhau. Phụ hoàng ta sinh năm Thiên-chương bảo-tự thứ tư (Bính-Thìn, DL. 1136) tính đến nay là 25 tuổi. Hai năm sau đức Thần-tông băng, như vậy thì đức Thần-tông vừa băng thì Anh-Vũ đã tư thông với Thái-hậu. Thái-hậu mang thai tên này ngay. Ỷ là con của Thái-hậu với Anh-Vũ, nên tên Anh-Hào mới coi thường cả phụ hoàng lẫn mẫu hậu ta.
- Mi có bao nhiêu anh em?
- Mười hai người. Tám chị em gái, bốn anh em trai. Nhưng chỉ mình tôi là con của Thái-hậu mà thôi.
- Trong cung Cảm-Thánh có ba người được Thái-hậu ban cho mỹ danh là Nùng-sơn tam anh. Mi đứng thứ ba, vậy còn hai người nữa là ai?
- Người đứng thứ nhất là sư thúc Vương Nhất. Người đứng thứ nhì là sư thúc Cao Phi. Cả hai đều là sư thúc của tôi, do thái sư phụ đưa vào cung giúp Thái-hậu.
- Còn hai cung nữ tên Cảm-Linh, Cảm-Chi?
- Họ là cháu gọi Thái-hậu bằng cô ruột tức con cô con cậu với tôi. Cảm-Linh là vợ Vương sư thúc. Cảm-Chi là vợ Cao sư thúc.
- Hai người này thuộc môn phái nào?
- Tôi không biết.
- Mi học võ với ai?
- Với phụ thân.
- Cha mi là đệ tử của Khánh-Hỷ đại sư thuộc phái Tiêu-sơn, thì làm sao biết Huyền-âm nội lực mà dạy mi?
- Bố tôi học Huyền-âm nội lực với thái sư phụ.
- Thái sư phụ tên là gì? Hiện ở đâu?
- Tôi không biết tên người. Người ẩn hiện bất thường. Tôi đã gặp người nhiều lần trong cung Cảm-Thánh.
Cách đây mười tám năm. Khánh-Hỷ đại sư thủ tọa Vạn-Hạnh đường của phái Tiêu-sơn, trong khi vân du Thăng-long, ngài hành hương chùa Chiêu-thiền (chùa Láng) thì bị kẻ lạ mặt đánh lén một Huyền-âm chưởng. Ngài quằn quại, lăn lộn bốn mươi chín ngày rồi viên tịch. Trong khi ngài đau đớn cùng cực, các sư huynh, sư đệ hỏi ngài danh tính thủ phạm, ngài nghiến răng chịu đau, trả lời « Khi nghiệp quả đã đến, thì phải an phận mà nhận », rồi viên tịch. Vụ án một đệ nhất cao thủ của phái võ lớn nhất Đại-Việt bị ám toán, đã gây trấn động võ lâm Hoa-Việt. Hơn nữa, ngài bị ám toán ngay giữa Thăng-long, vào lúc đệ tử của ngài là Đỗ Anh-Vũ đang làm Thái-sư, quyền nghiêng thiên hạ, càng khiến cho võ lâm quan tâm. Phái Tiêu-sơn, cũng như triều đình cử không biết bao nhiêu cao thủ, quan lại điều tra, mà cho đến nay vẫn chưa tìm được tông tích thủ phạm. Hơn năm sau đến lượt chưởng môn phái Tản-viên là Đặng Phi-Sơn, cũng bị mất tích. Giang hồ đồn rằng ông bị gian nhân dùng Huyền-âm chưởng đả thương rồi bỏ mạng. Gần đây nhất, Nghi-Hòa sư thái, chưởng môn phái Mê-linh lại mất tích,có tin đồn bà bị trúng Huyền-âm chưởng qua đời, và gần nhất Văn Đức-Ý đi dự Đông-cung triều về, bị giết với mã phu, ngựa. Bây gi Giờ Tý đêm qua, căn cứ Bình-lệ nguyên bị đánh úp! Toàn bộ quân ta bị giết, bị bắt. Hiện quân Việt đóng chặn mất đường rút lui, cũng như đường tiếp tế lương thảo của chúng ta.
Hoài Đô kinh hãi hỏi:
- Tướng Việt nào chỉ huy trận đánh đó?
- Nghe đâu là Lê Phụ-Trần.
- Làm sao chúng đánh dễ dàng như vậy?
- Thưa chúng đánh đâu có dễ? Giữa đêm, quân ta đang ngủ, thì quân Việt từ những cánh đồng, thình lình xuất hiện. Chúng liều mạng lăn xả vào chém giết. Chúng được ba nhà sư dẫn đầu một đội võ sĩ 5 trăm người. Bọn này lợi hại không thể tưởng tượng nổi. Chúng dùng đoản đao. Cứ mỗi đao vung lên là một người bên ta bị giết. Sau hơn hai giờ chiến đấu ác liệt, quân ta bị Ngưu-binh, Bộ-binh của chúng giết sạch.
Ngột-lương Hợp-thai hỏi:
- Ba thằng trọc ăn thịt chó đó là ai vậy?
- Nghe nói là Tiêu-Dao, Lung-Á và Y-Sơn.
Hoài Đô chửi:
- Mẹ cha nó, đêm qua ba thằng trọc đó dự trận Bình-lệ nguyên, mà sao sáng nay chúng lại có mặt ở đây?
- Phò mã gia ơi! Có gì lạ đâu? Sau khi chiếm Bình-lệ nguyên, chúng dùng thuyền xuôi giòng về đây, chỉ mất có vài giờ!
Chợt nghĩ ra một chuyện, Ngột-lương Hợp-thai gọi A Truật:
- Con mau đem một Vạn-phu Lôi-kỵ hỏa tốc tiến lên phòng thủ Cụ-bản. Bằng không chúng chiếm kho lương này thì chúng ta chết đói hết.
A Truật lệnh cho quân sĩ chuẩn bị lên đường, thì quân báo:
- Căn cứ Phù-lỗ bị quân Việt chiếm đêm qua. Thiên-phu Lôi-kỵ, hai Thiên-phu Đại-lý bị giết sạch!
A Truật kinh hãi:
- Làm thế nào mà chúng thắng ta dễ dàng như vậy?
- Thưa Bộ- binh của ta đóng ở cánh đồng. Giữa đêm bị Ngưu-binh, Bộ-binh Việt đột nhập. Chúng được dẫn đầu bởi 3 trăm võ sĩ, do hai lão đầu bạc chỉ huy. Thực là kinh khủng, bọn này tiến tới đâu, thì quân ta bị giết tới đó. Trong khi hai bên đang xung sát, thì Lôi-kỵ được báo. Thiên-phu Lôi-kỵ vượt sông tiếp viện. Khi vừa sang sông thì Kỵ-binh Việt xuất hiện. Hai bên giao chiến trong nửa giờ, Kỵ-binh Việt bị thua bỏ chạy. Lôi-kỵ đuổi theo, bị trúng trận địa Vạn-thằng, bị Bộ-binh từ hai bên hông xông ra chém giết. Phía trước, Kỵ-binh Việt quay trở lại tấn công. Hơn giờ sau, cả Lôi-kỵ lẫn Bộ-binh của ta bị tràn ngập.
Hoài Đô phát hoảng:
- Tướng Việt nào chỉ huy trận này?
- Thưa là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lý Tùng-Bách và Phá-lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài-hóa thượng tướng quân Trương Đình. Còn hai lão võ sĩ là là Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng của phái Tản-viên.
Hoài Đô nhìn Phùng Tập, Tiêu-Hư tử:
- Lạ lùng! Kế hoạch của ta là ém không cho võ sĩ xuất hiện. Đợi trận đánh cuối cùng mới tung ra, để bắt vua An-Nam. Dường như bọn chúng biết trước. Chúng biết các đội quân của ta không võ sĩ, chúng ra tay trước, thành ra ta thất bại.
Ngột-lương Hợp-thai hỏi Hoài Đô:
- Làm sao bây giờ? Tôi lo cho kho lương Cụ-bản quá.
Giữa lúc đó tên Trịnh Ngọc chạy vào trình:
- Thưa Thái-sư, Cụ-bản bị tấn công dữ dội!
- Sao người biết?
- Khi Cụ-bản bị đánh, người của chúng tôi phi ngựa về Thăng-long cáo cấp. Ngặt vì đường Cụ-bản về đây bị nghẽn ở Phù-lỗ, nên chúng phải dùng thuyền.
- Gọi tên Tế-tác đó vào đây cho ta hỏi.
Tên Tế-tác người Hoa được trình diện. Y nói tiếng Trung-quốc với Ngột-lương Hợp-thai.
- Người báo danh đi.
- Tiểu nhân tên Lâm Định.
- Tình hình Cụ-bản ra sao?
- Không biết bằng cách nào một đội võ sĩ cảm tử An-Nam, do tên Đô-thống Trần Minh đột nhập vào kho lương. Chúng phóng hỏa khắp nơi. Trong khi đó bọn Đại-đởm thập tam kiệt đột nhập giết quân canh, mở cổng cho Ngưu-binh tràn vào. Chúng được năm người đàn bà đẹp dẫn 3 trăm võ sĩ trợ chiến. Bọn này đi đến đâu, đầu các tướng soái rơi đến đó. Bấy giờ quân ta mới báo động, choàng dậy, trong khi quân của chúng đã vào trong căn cứ. Hai bên lẫn vào nhau, lửa cháy khắp nơi. Khi tiểu nhân phi ngựa cấp báo về đây, thì hai bên vẫn còn đang chém giết nhau.
Đến đây, Hoài Đô tỉnh ngộ:
- Thái-sư! Chúng ta bị mắc mưu giặc rồi!
- Mắc mưu!
- Đúng thế! Khi nghe Thái-sư mang đại quân sang chinh tiễu, Thủ-Độ sai người phao rằng y chết rồi, để Thái-sư không đề phòng. Vì vậy...
- Mình đáng chết thực!
Ngột-lương Hợp-thai than: Đúng rồi! Từ lúc nhập Việt, Triệt Triệt Đô cũng như A Tan đều nghi rằng trong quân An-Nam ắt có một nhân vật lỗi lạc biết rất rõ binh pháp Thái-tổ, rồi nhân đó đưa ra binh pháp mới chống lại. Tôi không tin. Thì ra nhị sư huynh của tôi! Hỡi ơi! Tôi làm sao mà chống lại người.
- Cách đây một ngày, An-Nam hội quân tại Đông-bộ đầu, ra lệnh đánh vào các căn cứ quân ta. Họ ước tính rằng sáng nay, tin tức các nơi sẽ gửi về, nên mới cho Trần Thủ-Độ sống dậy. Thủ-Độ dẫn bọn tôn sư võ học An-Nam theo, giả thăm Thái-sư, nhưng thực ra...
- Đúng! Chúng cầm chân ta, không cho tiếp xúc với tướng sĩ, để kịp phản ứng. Bây giờ thì tình trạng quá tồi tệ.
- Thưa Thái-sư, bây giờ đã muộn rồi. Ngày mai mình phải đem đại quân đi mở đường. Mở đường rồi, mới hy vọng có lương thực.
Tính cương quyết nổi dậy, Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh:
- Trần Cảnh với Hưng-Đạo vương hiện tập trung quân ở Đông-bộ đầu. Ngày mai, chúng ta dồn hết lực lượng đánh một trận, bắt bằng được hai người này, thì các phủ, các trấn, các xã phải quy hàng. Chúng quy hàng thì thiếu gì lương thực.
A Truật than:
- Thưa phụ thân. Đợi bắt được Trần Cảnh, viết ra nội công Âm-nhu, gồm 99 câu quyết. Ngài lại thu góp tất cả yếu quyết kiếm thuật Trung-quốc, rồi tìm ra các chiêu khắc chế, đặt trên căn bản dĩ nhu chế cương, dĩ tốc chế mãnh, sau thành pho Long-biên kiếm pháp. Đại đệ tử của ngài là Vũ Bảo-Trung thu thập nghiên cứu tất cả tinh yếu quyền, chưởng của Trung-quốc, rồi nghĩ ra các chiêu khắc chế. Đó là pho Thiết-kình phi chưởng, Âu-lạc chưởng pháp, còn có tên khác là Cổ-loa chưởng pháp. Sau khi bình Hung-nô, Thủy-Hoàng phong cho ngài tước Vạn-tín hầu, các đệ tử của ngài đều được phong tước bá, rồi cho hồi hương. Y xin ngài để lại một đệ tử làm Tổng-lĩnh thị vệ. Ngài để đệ nhị đệ tử là Trần Mạnh Chi ở lại. Mạnh-Chi lấy vợ Hán, thu dụng đệ tử rồi lập ra phái Trường-bạch. Ngài về nước được mấy năm, thì Hung-nô lại vượt Vạn-lý trường thành quấy rối Trung-quốc. Thủy-Hoàng sai sứ sang tìm ngài. Ngài không muốn vì bạo chúa mà lăn mình vào chỗ chết, bèn trốn vào rừng. Vua An-Dương cáo với sứ rằng ngài qua đơì rồi. Sứ về tâu lại, Thủy-Hoàng tin là là thực. Nhưng quan Tư-thiên giám coi Thiên-văn thấy tướng tinh của ngài vẫn còn, y tâu lại. Thủy-Hoàng sai sứ yêu sách: Chết rồi thì phải đem xác qua. Ngài biết rằng nếu mình xuất hiện, thì chẳng hóa ra vua An-Dương nói dối ư? Thủy-Hoàng có thể kiếm cớ gây chiến. Ngài họp chư đệ tử lại, dăn dò việc sau, rồi tự tử chết. Vua An-Dương sai ướp xác ngài, trao cho sứ của Tần. Thủy-Hoàng thấy ngài chết thực rồi, y sai làm một tượng bằng đồng đen giống ngài, trong bụng có máy, khiến chân tay cử động được, rồi để lên ngựa cho ruổi trên Vạn-lý trường thành. Quân Hung-nô nhìn thấy, tưởng là ngài, bèn bỏ chạy. Về phía Âu-lạc, vua An-Dương sai lập đền thờ ngài. Nhưng khi Triệu Đà chiếm Âu-lạc, y phá đi. Đến đời Đường, Triệu Xương sang cai trị nước ta (803), đêm thường nằm mơ thấy cùng ngài bàn sách Xuân-Thu, Tả truyện. Y bèn hỏi tìm đến quê cũ của ngài, rồi cho lập đền thờ. Sau đó Cao Biền sang cai trị nước ta, y được ngài hiển linh giúp đánh quân Nam-chiếu, y lại sai tu bổ đền ngài.
Ghi chú của thuật giả
Trải qua gần 1194 năm, với biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, với biết bao nhiêu cuộc trùng tu, nay (1997) đền của Vạn-tín hầu vẫn còn tại xã Thụy-hương, huyện Từ-liêm Hà-nội.
Tài liệu Trung-quốc.
Tư-mã Thiên, Sử-ký:
Quyển 6, Tần Thủy-Hoàng bản kỷ.
Quyển 112 Bình-tân hầu Chủ-phụ liệt truyện.
Quyển 113 Nam-Việt liệt truyện.
Quyển 114 Đông-Việt liệt truyện.
Tài liệu Việt-Nam, chữ Hán.
ĐVSKTT,
KĐVSTGCM,
Đại-Việt địa dư chí,
Nam-Việt địa dư chí,
Địa-dư chí,
Hoàng-Việt địa dư,
Nam sử lược biên,
Thăng-long cổ tích khảo,
Nhị Hoàng di ái lục,
Long-biên bách nhị vịnh,
Chư dư chí tạp biên,
Thoái thực kỳ văn.
Tài liệu Việt Nam, chữ Quốc-ngữ.
Anh-hùng Lĩnh-Nam.
Động-đình hồ ngoại sử.
Cẩm-khê di hận.
của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris xuất bản
Thuật đến đây, Long-Xưởng cung tay:
- Bộ Âu-lạc giản sử chỉ chép đến đoạn vua An-Dương lập đền thờ. Còn những việc sau tiểu sinh biết là do thầy dạy giảng thêm. Tiểu sinh xin kính cẩn lắng nghe cao nhân bổ khuyết cho những thiếu sót.
Bà từ nói với Long-Xưởng như mẹ nói với con:
- Công tử mới bằng này tuổi, mà kiến thức thực rộng bao la. Những điều công tử kể thuộc về quốc sử. Còn những bí ẩn của võ sử còn nhiều lắm. Tôi xin vì công tử mà kể.
Bà nhìn lên tượng công chúa Gia-Hưng, rồi tiếp:
- Sau khi Âu-lạc bị Triệu Đà chiếm. Các tướng của vua An-Dương không chịu phục. Họ đem bộ thuộc, gia đình quy dân lập ấp, mưu đồ phục quốc. Đệ tử của Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung lập ra phái Cửu-chân. Đệ tử của Cao-cảnh hầu Cao Nỗ lập ra phái Hoa-lư. Đệ tử của Phương-chính hầu Trần Tự-Minh lập ra phái Khúc-giang. Con cháu của tổ lập ra phái Long-biên. Khi con cháu Triệu Đà bị vong quốc, lập ra phái Quế-lâm. Đến hời Lĩnh-Nam, nước ta có các phái Tản-viên, Tây-vu, Khúc-giang, Quế-lâm, Hoa-lư, Cửu-chân, Long-biên. Các phái hợp nhau, cùng vua Trưng phất cờ khởi nghĩa, lập ra triều đình Lĩnh-Nam. Lĩnh-Nam bị Hán diệt, các đệ tử của ba phái Long-biên, Cửu-chân, Hoa-lư lập ra phái Mê-linh....cho tới nay.
Bà chỉ vào Anh-Hào:
- Trở lại với phái Trường-bạch bên Trung-quốc, đời đời cha truyền con nối. Tới thời Tây-Hán, vị chưởng môn sai đệ tử là Mao Đông-Các đi diệt trừ một ác bá. Không may, y bị tên ác bá bầy mưu gian bắt giam. Tên ác bá muốn có nội công Âm-nhu của phái Trường-bạch, y dùng năm loại côn trùng độc là rắn, rết, tằm, nhện, bò cạp cho cắn Đông-Các để y phải khai ra bí quyết luyện công. Không ngờ trong khi bị đau đớn cùng cực, y vận công chống độc, nội công Âm-nhu với ngũ độc hòa hợp với nhau thành một thứ độc công kinh thế hãi tục. Đông-Các phá vỡ gông cùm, rồi tiêu diệt trọn vẹn kẻ thù, trở về phục mệnh sư phụ. Sau khi tìm hiểu độc công của đệ tử, vị chưởng môn phái Trường-bạch thấy rằng nếu người nào luyện nội công này, nó sẽ làm mất nhân tính đi, mà trở thành ác nhân, điên điên, khùng khùng. Ông bắt Mao Đông-Các phải chấm dứt luyện độc công. Y không tuân. Trong một lần theo sư phụ đi hành hiệp, y đánh trộm sư phụ một độc chưởng. Ông bị thương nặng, đau đớn khốn khổ, chết đi sống lại trong 49 ngày rồi chết. Sư phụ chết rồi, y dối sư huynh, sư đệ đồng môn rằng sư phụ gác kiếm quy ẩn, trao cho y làm chưởng môn. Từ đấy y dạy độc công cho đệ tử phái Trường-bạch, cũng chính y tìm ra được thuốc giải. Đại đệ tử của y là Phan Sùng dùng độc chưởng đi khống chế võ lâm Trung-quốc giúp Cảnh-Thủy hoàng đế trung hưng Hán nghiệp. Ai bị đánh trúng, phải bái y làm sư phụ, thì y cho thuốc giải. Thuốc giải thực xấu hổ. Trọn đời bần đạo, chưa từng thấy ai luyện nội lực tới trình độ như Tuyên-Minh thái hoàng thái hậu. Hôm đó, Thái-hậu chỉ vận có 5 thành công lực. Bằng không thì bần đạo đã mất mạng rồi.
Hoài Đô tỏ vẻ kinh hãi:
- Ngũ-long ư! Phải gọi năm mụ này là An-Nam ngũ quái hay Giao-chỉ ngũ hồ ly. Bởi hồi niên thiếu, năm mụ đều là những thiếu nữ sắc nước hương trời. Cho đến nay, tuổi già mà võ công còn kinh thế hãi tục như vậy.
Giữa lúc đó thân binh báo:
- Có sứ giả An-Nam tới.
Sứ giả là một thương binh Mông-cổ được thả về. Y trình thư cho Ngột-lương Hợp-thai. Thư rất văn vẻ:
"Thái-phó thượng trụ quốc,
Lĩnh Trung-vũ quân tiết độ sứ.
Khai-phủ nghị đồng tam tư,
Khu-mật viện sứ, xử trí xứ,
Phụ-quốc thượng tướng quân của Đại-Việt là Hưng-Ninh vương.
Kính đệ thư tới:
Kiểm-hiệu Thái-sư,
Thống lĩnh hành quân chinh thảo Nam-thiên, Tứ-xuyên vương của Mông-cổ quốc là Ngột-lương Hợp-thai.
Từ hôm đem quân nhập Việt, ngài thường than thở rằng quân Đại-Việt không dám dàn trận đối địch với Lôi-kỵ. Hôm nay, chúng tôi đã dàn quân ở Đông-bộ đầu, chờ đợi Lôi-kỵ tới, để Kỵ-binh Đại-Việt được so tài
."
Dưới thư vẽ một hòa thượng bụng to, cười toe toét.
Tế-tác của gã Trịnh Ngọc báo:
"Vua An-Nam là Trần Cảnh, cùng Hưng-Ninh vương đã dàn Kỵ-binh, Ngưu-binh, Tượng-binh, Bộ-binh ở Đông-bộ đầu. Quân số ước khoảng ba vạn. Chúng dọa rằng, nếu Thái-sư với phò mã tới, chúng sẽ bắt đem xuống sông Hồng trấn nước."
Ngột-lương Hợp-thai thúc A Truật tiến quân gấp. Quân tới Đông-bộ đầu, Tế-tác báo:
- Giặc dàn quân như sau: Ở giữa là đội Thị-vệ, có cờ xí, tàn lọng của vua An-Nam. Hai bên, hàng đầu cứ một Vệ Ngưu-binh, một Vệ Kỵ-binh, Tượng-binh. Phía sau là bộ binh. Không thấy chiến xa, Lôi-kỵ, Thần-nỏ.
Tế-tác trình cho A Truật địa thế: Phía sau trận quân Việt có 5 con đường lớn, dẫn vào những xóm làng xa xa, không biết rõ có quân hay không. Bên trái là sông. Dưới sông không thấy thuyền bè. Bên phải một khu đồng trồng lúa rộng khoảng trăm trượng. Sau thửa ruộng là những lũy tre cao vút của mấy ngôi làng. Không thấy dấu hiệu trong làng có quân.
Chẳng cần đối thoại với bên địch, A Truật phất cờ, 5 Bách-phu Lôi-kỵ hú lên rùng rợn, rồi lao vào trận Việt. Khi còn cách khoảng năm chục trượng, chúng đồng bắn tên, rồi quay ngựa chạy trở về. Trận Việt biến rất nhanh, Kỵ-binh, Ngưu-binh, Tượng-binh lùi lại. Bộ- binh tiến lên, dùng khiên mây hứng tên.
Đợt hai, 5 Bách-phu Lôi-kỵ lại tấn công nữa. Đến đợt ba, sau khi Lôi-kỵ bắn tên, vừa quay ngựa chạy, thì Bộ-binh nằm rạp xuống, trận mở ra, Nỏ-thần tác xạ ba loạt. Lôi-kỵ bị trúng tên, ngã lổng chổng. Bộ-binh Việt lăn mình dưới đất dùng đao quất chặt chân ngựa. Thoáng một cái, 5 Bách-phu bị giết sạch.
Đứng xa xa chỉ huy, A Truật kinh hãi. Y dậm chân:
- Trời ơi! Tại sao bọn An-Nam biết trước kế hoạch của ta, mà phản công vào đợt ba? Thế là kế hoạch bị loạn. Lôi-tiễn Thạch-xa vô dụng rồi.
Y đành phất cờ cho cả 5 Thiên-phu Lôi-kỵ dàn làm mười hàng tấn công. Thế trận Việt biến đổi thực nhanh, các cánh quân tỏa vào 5 con đường phía sau. Chông, chà kéo đầy đường, Lôi-kỵ không tiến được. A Truật sai kéo chông, chà, để đuổi theo quân Việt.
Vừa lúc đó thì đại quân Ngột-lương Hợp-thai tới. Lôi-kỵ ùn lại trên một bãi đất rộng. Y quyết định: Mỗi con đường, cho 2 Thiên-phu Lôi-kỵ đuổi theo. Còn đại quân thì dừng lại chờ đợi.
Lát sau quân báo:
- Hai đạo quân đánh bọc hông quân Việt của phò mã Hoài Đô đang giao chiến với Ngưu-binh giặc. Bọn Ngưu-binh này do tên Dã Tượng với bốn tên Cu chỉ huy.
- Năm đạo quân đuổi theo bắt vua An-Nam đang giao chiến với Kỵ-binh, Ngưu-binh giặc. Bọn Ngưu-binh này do 5 tên Trâu chỉ huy.
Đến đó, trống thúc vang lừng. Thủy-quân Việt từ hạ lưu dàn hàng hai, đang tiến lên. Trên các chiến hạm, Lôi-tiễn nã vào đội hình Lôi-kỵ. Lôi-tiễn của Mông-cổ cũng phản pháo. Nhưng chiến hạm thì lưu động, khó trúng mục tiêu. Trong khi Lôi-tiễn Thủy-quân đã tính từ trước, nã vào khu trú quân Mông-cổ.
Trời dần dần về chiều. Tin tức báo về liên tiếp:
- Hai cánh quân của phò mã Hoài-Đô giao chiến với quân của Trần Khánh-Dư bị thất bại. Xin tiếp viện.
Ngột-lương Hợp-thai viện cho Hoài Đô 5 Thiên-phu Lôi-kỵ. Tế-tác lại báo:
- 5 đoàn quân đuổi theo vua An-Nam, thì ba đoàn bị đánh bại. Bọn võ lâm An-Nam xuất hiện giết hết Thiên-phu, Bách-phu trưởng. Quân không tướng chỉ huy, bị hỗn loạn.
Ngột-lương Hợp-thai truyền tiếp viện cho mỗi đoàn một Thiên-phu. Quân lên đường khoảng hơn giờ sau, thì tin báo: Cả năm đoàn quân bị bại. Chúng vừa đánh vừa lui. Bao nhiêu Thiên-phu trưởng, Bách-phu trưởng dĩ chí Thập-phu trưởng đều không còn. Ngưu-binh, bộ binh Đại-Việt đuổi theo rất gấp.
Trong 5 con đường mà 5 đoàn quân Việt đuổi theo Lôi-kỵ, thì mỗi đoàn do một tướng dẫn đầu, với đội võ sĩ. Năm tướng đó là Nguyên-Phong hoàng đế, Thái-sư Trần Thủ-Độ, Hưng-Ninh vương Trần Quốc-Tung, Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn.
Ngột-lương Hợp-thai tung quân lên quyết bắt cho được Nguyên-Phong hoàng đế. Nhưng đội võ sĩ do Vũ-vệ thượng tướng quân Đỗ Thanh dàn trận như thành đồng vách sắt. Mỗi võ sĩ tay cầm khiên mây, tay cầm đao quất. Mỗi lần đao vung lên là y như không một kỵ mã thì một ngựa bị đánh ngã. Lôi-kỵ không còn dùng cung tên được nữa, đành phải dùng đao, dùng lao thì đấu sao lại những võ sĩ?
Cuộc chiến mỗi lúc một thêm rùng rợn. Bỗng từ khu làng bên hông phải của trận Mông-cổ, trống thúc vang dội, Ngưu-binh từ trong các làng ào ào tiến ra, đếm không siết
Long-Xưởng đáp lễ:
- Nhị đệ.
Thủ-Huy hỏi:
- Thì ra đại ca họ Lý, tên Long-Xưởng chứ không phải tên là Xương-Long à?
- Đúng vậy. Ngu huynh phải đảo ngược tên đi, để bọn trộm cướp không truy lùng lý lịch mà hại ngu huynh. Nhưng... nhưng khi thề, thì phải thề cho đúng, đức Phật mới chứng cho chứ. Tuy vậy điều bí mật này nhị đệ chỉ nên để trong tâm mà thôi, còn bề ngoài thì nhị đệ cứ gọi ta là Xương-Long.
- Được chứ.
Thấy Long-Xưởng cứ nhìn vào mặt mình hoài, Thủ-Huy hỏi:
- Đại ca! Mặt đệ có gì lạ không mà đại ca nhìn hoài?
- Ta nhìn hai lòng đen trong con mắt đệ. Người thường thì mỗi con ngươi có một lòng đen tròn hay bầu dục. Còn ở đệ, mỗi con ngươi có hai lòng đen chồng lên nhau một nửa. Sách tướng nói rằng, mắt có hai lòng đen là đại quý tướng.
Sau lần đi hành hương đền thờ công-chúa Gia-Hưng ở Kiêu-kị trở về, thì thằng Ba tức Đỗ Anh-Hào sợ Long-Xưởng như sợ cọp. Tất cả những biến cố trong cung Cảm-Thánh, nó phải báo cho Long-Xưởng biết. Vợ chồng Đào Duy được Lê Thúc-Cẩn đem vào ở trong Đông-cung, cùng Quang-Anh để giúp đỡ, bảo vệ cho Long-Xưởng. Hằng ngày, Thủ-Huy công khai tự luyện nội công Aâm-nhu, võ công Mê-linh, rồi dạy lại cho Đoan-Nghi, Trang-Hòa, Thụy-Hương, Tăng Khoa. Thái-phó Hoàng Nghĩa-Hiền nghe tin này, ông khuyên Long-Xưởng:
- Việc thái-tử luyện võ, thần biết rằng thái-tử dự bị sau này đối phó với Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên. Bọn chúng là những cao thủ bậc nhất thiên hạ, muốn có bản lĩnh thắng chúng thì phải luyện tập rất lâu mới thành. Biết rằng lâu mới thành thì thái tử phải dấu kín. Bất cứ trường hợp nào dù nguy nan đến đâu, thái-tử cũng phải làm như mình chưa luyện võ. Một mai khi thành rồi, thì mình ra tay thình lình, mới thành công. Còn như bây giờ việc chuẩn bị tới tai thái-hậu thì thái-hậu sẽ không ngần ngại gì mà ngầm giết thái-tử.
Cho nên, hiện giờ nội công Âm-nhu, Mê-linh kiếm pháp của Long-Xưởng tương đối đã có thể xử dụng được nhưng Long-Xưởng vẫn giả ngây giả dại.
Nhắc lại, nhờ có Anh-Hào cung cấp tin tức. Sau khi nắm vững tất cả tình hình trong cung Cảm-Thánh, Lê Thúc-Cẩn bắt Đỗ Anh-Hào tuyển thêm một số Phụng-quốc vệ cho Đông-cung, để ông có dịp đem vào ba mươi đệ tử thay thế. Số Phụng-quốc vệ cũ trả về cho Đàm Dĩ-Mông. Từ đấy Đông-cung không sợ bị thái-hậu khống chế nữa.
Ngô Lan-Chi bàn:
- Như chương trình của Thái-sư đưa ra. Chúng ta có ba việc phải làm. Thứ nhát là tổ chức đại hội Lộc-hà, giỗ Bắêc-Bình vương Đào-Kỳ với vương phi Phương-Dung vào ngày rằm tháng tám. Thứ nhì, tổ chức kỳ thi võ, tuyển nhân tài, bổ dụng làm võ tướng. Thứ ba là tìm cho ra tung tích bọn sứ đoàn Tống, tiêu diệt bọn Mao Khiêm. Mặc dù thái-tử đã gửi thư đến các chưởng môn nhân. Các Tuyên-vũ sứ, An-vũ sứ đã sức thư đến từng làng, từng xã về việc này. Tuy nhiên, các đại tôn sư vốn cao ngạo. Ta phải theo gương Khai-Quốc vương xưa, thân đi mời các gia, các phái. Vậy thái-tử nên đi Thiên-trường mời phái Đông-A, với các gia, các bang ở Nam Thăng-long; còn trượng phu tôi thì lên Tản-lĩnh mời phái Tản-viên, rồi về Kinh-Bắc mời phái Tiêu-sơn. Tôi sẽ mời sư phụ với phái Mê-linh. Còn phái Sài-sơn nhà mình thì chúng tôi đã thông tri cho chư đệ tử rồi.
Vì vậy Long-Xưởng cải trang làm một công tử nhà giầu, đem hai Phụng-quốc vệ thân tín hộ vệ. Nào ngờ cuộc chuẩn bị bí mật như vậy, mà sao đến nỗi bọn giặc cướp vặt ở Nghi-tàm cũng biết, chúng đón đường định bắt Long-Xưởng, chưa rõ với mục đích gì? Giữa lúc Song-ma đánh bại hai Phụng-quốc vệ, định bắt Long-Xưởng, thì gặp vợ chồng Trần Kế-Vy với hai con là Thủ-Lý, Thủ-Huy ra tay giải cứu. Thủ-Huy còn kết nghĩa với Long-Xưởng.
Hai trẻ đem mấy chỉ bạc cúng dàng rồi lại lên ngựa ra đi. Khoảng hơn khắc sau, chúng đã tới bờ sông. Xương-Long hỏi:
- Sông này là sông gì vậy?
- Nó là sông Hồng-hà. Qua bên kia sông khoảng hơn khắc sẽ tới nhà đệ.
Thủ-Huy chỉ sang bên kia sông nói với Xương-Long:
- Bên kia sông là trang Thiên-trường, nhà đệ ở trong đó. Tổng đàn phái Đông-A cũng ở đấy.
Có một con đò lớn đậu ở bên sông, bên sườn ghi chữ Thập-bát Nhất-liễu. Chủ nhà đò là một lão già. Lão cung cung kính kính cúi rạp người xuống:
- Kính mời hai vị xuống đò, chúng tôi xin đưa sang sông.
Thủ-Huy thấy con đò lớn quá, khác hẳn với những con đò mà trước đây nó đã cùng cha mẹ qua sông. Nó hỏi:
- Này ông chủ đò, sao đò lớn quá vậy? Dường như ông mới tới đây làm ăn thì phải?
- Thưa công tử vâng. Mời hai công tử xuống cho.
Không nghi ngờ, Thủ-Huy, Xương-Long bước xuống. Đò chỉ có hai người khách duy nhất là Xương-Long với Thủ-Huy. Trong lòng con đò có cái án thư, hai chiếc ghế chạm trổ rất tinh vi, một cái lư hương bốc khói thơm ngát. Hai tỳ nữ bưng hoa quả, pha trà mời khách.
Xương-Long chưa kinh lịch giang hồ, nó ăn trái cây, uống nước trà rất tự nhiên. Còn Thủ-Huy, nó từng theo cha mẹ qua lại giang hồ nhiều, thấy con đò sang trọng quá đáng, nó đã kinh ngạc rồi. Bây giờ lại thấy trong đò có chén sứ bịt vàng, đĩa với dao bạc, tỳ nữ xinh đẹp hầu hạ, nó sinh nghi, không ăn trái cây, mà hỏi chủ đò:
- Này ông chủ đò, ông đến đây từ bao giờ vậy? Ủa sao đò không sang ngang, mà lai xuôi giòng thế kia?
Chủ đò trả lời lơ mơ:
- Trước hết đò phải xuôi giòng, rồi mới sang ngang được chứ!
Thủ-Huy quát lên:
- Quay lái cho đò sang ngang ngay!
Mặc Thủ-Huy quát, con đò dương buồm lên, rồi vọt mình cỡi sóng xuôi về hướng Đông. Thủ-Huy tung mình về phía lái, nó phóng chỉ điểm huyệt người lái đò, người lái đò trúng chỉ ngã lăn ra. Thủ-Huy cướp lấy tay lái kéo mạnh, con đò quay mũi hướng sang bên kia sông. Lão chủ đò thấy Thủ-Huy ce='height:10px;'>
đời vua Thái-tôn nhà Trần (28 tháng 1 năm 1258).
Dọc sông Hồng-hà quanh Thăng-long, hạm đội Âu-Cơ, Động-đình dàn ra san sát, cờ xí bay phất phới.
Đoàn quân Mông-cổ hùng tráng, nối đuôi nhau xuốngï những chiến thuyền, để được chở qua sông. Cuộc vượt sông phải mất gần hai giờ mới xong. Ngột-lương Hợp-thai, A Truật, Hoài Đô cùng các tướng soái đi chuyến cuối cùng. Trên thuyền còn có nhiều đại thần Việt theo tiễn đưa gồm Thái-sư Trần Thủ-Độ, bốn vị bồi sứ từng ở Mông-cổ một thời gian: Khai-sơn hầu Chu Mạnh Nhu, Tây-sơn hầu Vũ Khắc-Kim, Quân-sơn hầu Phạm Thành Quy, Vũ-sơn hầu Tạ Quốc-Ninh; Vạn-phu trưởng Trần Tử-An.
Thuyền cập bến.
Trên bến, một Vệ Ngưu-binh, một Vệ Kỵ-binh, một Vệ Tượng-binh, đội nhạc trên 200 nhạc công tấu nhạc chiến thắng. Cuối cùng một Vệ giáp sĩ...cùng dàn ra hai bên đường. Tướng tổng chỉ huy đội quân dàn chào cùng 12 võ quan nữa, trang phục cấp Đạo-úy. Tất cả cùng đứng dưới cờ có hàng chữ:
" Đại-Việt đại đởm thập tam kiệt".
Một lá khác có hàng chữ:
" Đại-đởm thượng tướng quân,
An-xuyên bá, Nguyễn
".
Từ Ngột-lương Hợp-thai cho đến những Lôi-kỵ thấp nhất cùng dán mắt nhìn Đại đởm thập tam kiệt, là những người từng gây cho đội quân Lôi-kỵ vô địch thế giới nhiều phen kinh tâm động phách. Trước mắt họ, đó là 13 người da đen bóng, thân hình nhỏ bé so với người Mông-cổ, mắt chiếu ra tia hàn quang.
Trong phủ đường Gia-lâm, một tiệc rượu bầy sẵn. Thái-sư Trần Thủ-Độ nắm tay Thái-sư Mông-cổ Ngột-lương Hợp-thai:
- Tam đệ! Cuộc chia tay hôm nay không biết bao giờ mới gặp lại. Vì vậy huynh bầy tiệc rượu này, để anh em chúng ta cùng uống một bữa thỏa thích.
- Cảm ơn nhị ca.
Ngột-lương Hợp-thai nói như người mất hồn: Có bao giờ nhị ca nghĩ đến ngày Thảo-nguyên ngũ thiết điêu trùng phùng trên vùng cỏ hoang, đi săn với nhau không?
- Huynh vẫn ước ao cái ngày đó.
Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh cho A Truật:
- Người dẫn quân lên đường trước đi. Phò mã ở lại cùng ta dự tiệc với nhị sư bá, rồi sẽ đi sau. Nhớ cho thương binh đi đầu, rồi tới bộ binh. Lôi-kỵ đi cuối cùng.
Được ba tuần rượu, thì môt khoái mã Phi-tiễn báo với Hoài Đô:
- Thưa phò mã, tiền quân tới Phù-lỗ, thì gặp Kỵ-binh Việt dàn sẵn. Họ bao vây đoàn tiền quân, không cho đi.
Vũ-sơn hầu Tạ Quốc Ninh đứng bật dậy:
- Chết thực! Hồi nãy tiểu tướng quân lên đường mà tôi quên cho người đi theo. Xin phép Thái-sư, đích thân tôi phải dẫn đường cho tiểu tướng quân mới được.
Hầu lấy ngựa phi như bay, khoảnh khắc sau, đã tới Phù-lỗ. Tiền quân Mông-cổ toàn là thương binh, bị Kỵ-binh bao vây cứng như thành đồng vách sắt. Ba tướng Việt chỉ huy là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lý Tùng-Bách, Phá-lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài-hóa thượng tướng quân Trương Đình đang đứng đối diện với A Truật.
Lý Tùng Bách hỏi:
- Thưa Tạ hầu! Tướng A Truật nói rằng Đại-Việt với Mông-cổ giảng hòa, hai bên bãi binh, nên y dẫn quân hồi hương. Tôi hỏi có lệnh bài không, thì y không có.
Tạ Quốc-Ninh xuất trong bọc ra một lệnh bài của Thái-sư Trần Thủ-Độ trao cho Lý Tùng-Bách:
- Điều tiểu tướng quân A Truật nói đó là sự thực. Đây là lệnh bài của Thái-sư.
Lý Tùng-Bách, Trần Trữ, Trương Đình cùng xuống ngựa xá A Truật:
- Xin huynh đừng buồn. Chúng tôi là võ tướng, phải giữ quân luật, thành ra có chỗ hiểu lầm.
Trần Trữ cầm cờ phất một cái, trận Việt tách làm đôi. Đoàn quân Mông-cổ thủng thỉnh lên đường. Lý Tùng Bách trao cho A Truật một cái túi vải. Trong túi có một con gà quay, một bình rượu, một tảng xôi nén:
- Huynh cầm tạm cái này, gọi là chút thổ sản Đại-Việt. Gà rừng Đại-Việt quay hy vọng cũng ngon như gà rừng Thảo-nguyên.
Tạ Quốc Ninh cùng A Truật dẫn đầu đoàn quân qua Cụ-bản. A Truật kinh ngạc vô cùng, vì dân chúng đã trở về, họ được quân lính giúp đỡ, đang xây dựng lại nhà cửa. Họ thản nhiên đứng nhìn đoàn quân Mông-cổ đi qua.
Thình lình một tiếng Lôi-tiễn nổ rung động không gian, rồi giữa chiến lũy, một Vệ Thiết-kỵ, một Vệ Ngưu-binh, một Vệ Bộ-binh xuất hiện. A Truật kinh hoảng đưa mắt nhìn Tạ Quốc Ninh như muốn hỏi: Cái gì nữa đây? Thì ba tướng Lê Phẩm, Nguyễn Bích, Phạm Long sai quân khiêng xôi, gà quay, lợn quay, bánh chưng, bánh dầy, rượu ra.
Phạm Long cung tay:
- Tuân chỉ Đại-Việt hoàng đế, anh em chúng tôi mang chút thổ sản ra khoản đãi quân Thiên-triều. Chúng tôi xin kính chúc Thiên-tướng, Thiên-binh thượng lộ bình an.
Nghe Phạm Long nói, A Truật muốn nổi lôi đình. Vì rõ ràng đại binh Mông-cổ bị đánh bại, nhờ Thái-sư Trần Thủ-Độ nghĩ tình nghĩa giữa Thảo-nguyên ngũ thiết điêu, mà ân xá cho về. Đoàn hùng binh Mông-cổ thui thủi như chó cụt đuôi, mà Phạm Long lại gọi những gì là Thiên-triều, Thiên-tướng, Thiên-binh, thì rõ ràng y chế diễu rồi!
Ăn uống xong, đoàn bại binh Mông-cổ tiếp tục lên đường. Khi tới Bình-lệ nguyên, thì mặt trời đã nghiêng bóng. Xa xa, bụi bốc lên mịt mù. Dưới lớp bụi, quân Việt dàn trận, khí thế cực kỳ hùng tráng. Dưới sông, các chiến thuyền thuộc hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng nối nhau thành hàng dài. Tạ Quốc Ninh lẫn A Tan cùng cảm thấy, dường như có sự bất tường. Một tiếng pháo lệnh nổ, rồi Kỵ-binh Đại-Việt tỏa ra thành ba cánh, bao vây lấy binh đoàn Mông-cổ. Tướng chỉ huy chính là Nguyễn Thời, đi dưới lá cờ súy có hàng chữ:
" Trung-lược thượng tướng quân,
Vị-thanh bá Nguyễn
".
Theo quan chế Trần triều thì chức Khu-mật viện sứ cao hơn Trung-lược thượng tướng quân nhiều. Tước của Tạ Quốc Ninh là Vũ-sơn hầu cao hơn tước Vị-thanh bá ba bậc. Nhưng Nguyễn Thời là biên cương trọng thần, là tướng cầm quân, nên Quốc Ninh phải hạ thể, lễ phép hỏi:
- Thượng tướng quân! Chiến tranh đã hết. Đại-Việt, Mông-cổ hòa với nhau. Tuân lệnh của Thái-sư Trung-vũ đại vương, tôi tiễn quân Mông-cổ về nước, xin tướng quân mở đường.
Nguyễn Thời xá Quốc Ninh:
- Xin quân hầu thứ lỗi. Tướng ngoài trận, không nhất thiết phải nghe lệnh vua. Hồi sáng, có sứ giả đi thuyền tới báo cho Thái-bảo Lê biết vụ này rồi. Thế nhưng, đúng lúc đó, quân Mông-cổ từ biên giới tràn sang. Hiện quân của Vũ-Uy vương đang giao chiến với chúng. Lê Thái-bảo chuẩn bị đem quân vượt sông tiếp viện. Như vậy là Mông-cổ vi ước. Cho nên Thái-bảo Lê sai tiểu tướng ngăn binh đoàn này lại.
Thái-sư Trần Thủ-Độ với Ngột-lương Hợp-thai tới. Tạ Quốc Ninh trình bầy tình hình. Ngột-lương Hợp-thai hiểu ngay:
- Nhị ca! Có lẽ đây là Thiên-phu đóng ở bờ sông Kiến-thủy tiếp tế lương thảo cho đệ. Nên có sự hiểu lầm.
Thủ-Độ, Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh cho quân hai bên đóng trại qua đêm tại chỗ.
Ngày 24 tháng Chạp năm Đinh Tỵ
nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ bẩy
đời vua Thái-tôn nhà Trần (29 tháng 1 năm 1958).
Sáng sớm, Trung-vũ đại vương Trần Thủ-Độ, dẫn Thái-sư Mông-cổ Ngột-lương Hợp-thai từ Bình-lệ nguyên vượt sông sang vùng Thảo-lâm.
Thái-bảo Lê Phụ Trần cùng Văn-mẫn thượng tướng quân Hoàng Vui đứng đón trên bờ.
Lễ nghi tất.
Ngột-lương Hợp-thai nóng ruột:
- Lê Thái-bảo! Tình hình ra sao?
Tạ Quốc Ninh dịch lại.
- Trễ quá rồi.
Lê Phụ Trần trình bầy: Thiên-phu Lôi-kỵ do một tướng người Hán tên Ôn Đức chỉ huy, cùng ba nghìn lao binh khuân vác. Khi họ sắp nhập biên thì Vũ-Uy vương biết, người sai Trấn-biên tướng quân Trần Quới, Phì-đức tướng quân Bùi Hoán phục binh dọc Thảo-lâm chờ đợi. Quân Mông-cổ trúng phục binh. Cuộc giao chiến trong một giờ, thì quân Mông-cổ bại, phải bỏ chạy. Khi họ chạy tới Quy-hóa thì bị Thủ-lĩnh trại Quy-hóa Hà Bổng chặn đánh. Ôn Đức tử trận, còn lại toàn quân bị bắt, bị giết hết.
Ghi chú của thuật giả.
Theo ĐVSKTT thì Ngột-lương Hợp-thai dẫn quân chạy về đến biên giới, thì bị chúa trại Quy-hóa là Hà Bổng đổ quân ra đánh. Trong khi sưu tầm tài liệu, khi đến Vân-Nam (1979) tôi đã tìm được một tập sách mỏng mang tên Đại-lý cổ sự lục, tại thư viện đại học Văn-khoa Côn-minh, Vân-Nam. Tác giả là Uông Kinh đời Minh. Trong đó ghi "Tại xã Kiến-thủy, có đền thờ Ôn đại vương. Đại vương là tướng triều Nguyên, chinh tiễu Giao-chỉ tuẫn quốc". Tôi tìm đến xã Kiến-thủy huyện Khai-nguyên tỉnh Vân-Nam, thì thấy đền tuy quá cổ, nhưng chưa đến nỗi đổ nát. Tấm bia trước đền ghi lại một vài sự kiện về cuộc chiến tranh Mông-Việt 1258. Trong đó nói rằng Ôn Đức đem quân tiếp tế cho Ngột-lương Hợp-thai, bị chủ trại Man-dân họ Hà phục binh giết chết. Vì vậy tôi bỏ không theo ĐVSKTT mà theo bia đá.
Thái-sư Trần Thủ-Độ ra lệnh:
- Các vị hãy thu quân, mở đường cho quân Mông-cổ về nước.
Vũ-Uy vương đã đến.
Lễ nghi tất.
Vương sai bầy tiệc đãi Ngột-lương Hợp-thai cùng chư tướng Mông-cổ. Tạ Quốc Ninh làm thông dịch.
Được hai tuần rượu, Ngột-lương Hợp-thai ngần ngừ một lát rồi y nói với Thái-sư Thủ-Độ:
- Nhị ca! Hiện Đại-Việt bắt của đệ mấy nghìn tù binh. Không biết nhị ca có thể thả cho chúng về chăng?
Thủ-Độ xua tay:
- Thả chứ! Thả chứ! Huynh giữ làm gì?
- Thế bao giờ thì thả?
- Hai tôn sư võ học Trung-quốc là Phùng Tập, Tiêu Hư tử vì muốn cứu mấy chục vạn Hoa-kiều mà phải cùng nghìn võ sĩ bỏ Mông-cổ theo Đại-Việt...
Hoài Đô vốn cực kỳ thông minh, y lên tiếng:
- Chúng tôi bắt vợ con các võ sĩ Tống, để ép họ theo chúng tôi đánh Đại-Việt. Bây giờ họ hàng Đại-Việt, họ sợ chúng tôi giết vợ con họ phải không? Ý Thái-sư muốn tôi tha cho vợ con họ, thì Thái-sư mới thả tù nhân. Có phải thế không?
Vũ-Uy vương cười:
- Không phải như vậy!
- Thế thì?!?!?!
- Xin Phò-mã sai người đưa tất cả vợ con họ sang Đại-Việt, trong khi đó tôi cũng đưa tất cả tù binh lên đây, rồi trao đổi. Người Việt chúng tôi gọi là tiền trao, cháo múc. Phò-mã bằng lòng chứ?
- Vâng!
Trong tiệc, Hoài Đô hỏi Vũ-Uy vương:
- Nói thực với vương gia. Trong trận chiến vừa qua, chúng tôi bị bại vì ba nguyên do. Một là, Đại-Việt khích động toàn dân cùng cầm vũ khí. Người Việt gọi là...toàn gì gì đó.
Hoàng Vui cười:
- Cả nước là thành, toàn dân thủ thành.
- Thứ nhì là khiên mây, đao quất khiến cung tên trở thành vô dụng.
- Còn nguyên do thứ ba?
Hoàng Vui hỏi: Vì dân không cung ứng lương thảo?
- Không! Vì Ngưu-binh. Quả thực Ngưu-binh là khắc tinh của Lôi-kỵ. Hầu như tất cả thất bại của Lôi-kỵ đều do Ngưu-binh gây ra. Không biết vương gia có thể cho tôi gặp một vài tướng trâu không? Lại còn bọn Ngạc-ngư nữa. Bọn này mặt mũi, hình thù ra sao, cho đến giờ này chúng tôi đều chưa thấy.
Vũ-Uy vương xoa tay vào nhau:
- Khi được tin Ôn Đức nhập biên, tôi tưởng Mông-cổ đem đại quân sang nữa, nên sai ngựa Lưu-tinh báo về triều. Phụ hoàng truyền lệnh cho cả 20 tướng trâu phi ngựa bất kể ngày đêm lên chi viện cho tôi. Hiện bọn chúng đều có mặt ở đây. Để tôi gọi chúng vào.
Vương để tay lên miệng, rồi hú một tiếng dài liên miên bất tận. Không đầy một khắc sau, 20 tướng trâu, đội Ngạc-ngư cùng chạy tới hành lễ. Bọn tướng trâu đứng thành 4ết chị.
Để gây thêm vây cánh, Mao Khiêm thu thêm hai đệ tử nữa là Vương Nhất và Cao Nhị. Y lại xin Anh-Vũ hỏi hai người cháu gọi Thiên-Cảm thái hậu bằng cô là Lê Cảm-Linh, Lê Cảm-Chi cho hai đệ tử mình. Thiên-Cảm thái hậu cho cả bốn người vào ở trong cung của bà. Để tỏ ra việc làm của mình, cũng đi theo chính đạo như Linh-Nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) thời trước, đã ban mỹ danh cho Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt; bà ban cho Vương Nhất, Cao Nhị, Đỗ Anh-Hào mỹ danh Nùng-sơn tam anh, và Cảm-Linh, Cảm-Chi mỹ danh Tô-lịch nhị tiên.
Không may cho Anh-Vũ, giữa lúc y say quyền hành, định cướp ngôi, y bí mật nhờ Mao Khiêm lên đường về Tống tâu xin Thiệu-Hưng đế, phong vương cho y; thì Côi-sơn song ưng giết cả nhà Anh-Vũ. Trong đêm đó, Mao Khiêm thì đang ở bên Tống, còn các đệ tử của Mao đều ở trong cung Cảm-Thánh, bằng không sẽ có cuộc long tranh, hổ đấu.
Khi lâm triều nghe trần tấu về việc Anh-Vũ bị giết, Cảm-Thánh thái hậu tuyệt không ngờ nhà vua với Hoàng-hậu lại ra tay kiềm chế hết các quan thuộc phe đảng Anh-Vũ. Bị bất ngờ, bà thất bại trong chốc lát. Trở về cung, lập tức bà điều động Nùng-sơn tam anh, Tô-lịch nhị tiên phản công. Các quan thuộc đảng Anh-Vũ được thả ra, mười tám võ sĩ của hoàng-hậu bị kiềm chế rồi bị giết. Nhà vua, hoàng-hậu bị giam lỏng. Hoàng-hậu bị trúng Huyền-âm chưởng, hoàn toàn khuất phục thái-hậu.
Giữa lúc đó thì Cao Khiêm trở về với một sứ đoàn. Chánh sứ cũng như phó sứ là hai đại thần, văn võ kiêm toàn, mưu trí trùm hoàn vũ. Cả hai người đều là cao thủ võ lâm danh trấn Hoa-hạ. Trong hai người này, thì phó sứ là một người nổi danh đệ nhất mỹ nam tử của Trung-nguyên. Thái-hậu thấy y là quên ngay Anh-Vũ. Bà say mê y đến điên đảo thần hồn. Bất cứ y nói gì bà cũng nhất nhất nghe theo. Y cùng chánh sứ thấy lực lượng nhà vua qúa yếu. Nếu như thái-hậu phế nhà vua, e rằng phe trung thành với nhà vua bị đè bẹp dễ dàng. Họ thiết kế phải làm sao cho phe nhà vua mạnh lên đôi chút, rồi mới xui thái-hậu truất phế. Thái-hậu truất phế nhà vua, thì quần thần chống đối. Dĩ nhiên bấy giờ sẽ có nội chiến. Đợi cho hai cọp cắn nhau, tinh lực quốc gia yếu đi. Tống chỉ việc đem một đạo quân nhỏ sang, là chiếm được Đại-Việt. Chính vì vậy mà hai năm qua, viên phó sứ kiềm chế Thái-hậu, khi thì bằng tình cảm, khi thì bằng thuyết phục, xui bà để cho nhà vua làm một số việc như chỉnh đốn học phong, khuyến khích nông tang, tái tổ chức mười hai hiệu Thiên-tử binh. Một mặt yï xui thái-hậu tổ chức trhị-vệ, triều đình riêng, khiến công khố khánh kiệt, mà hình thành được hai lực lượng đối kháng nhau, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra chiến tranh.
Bây giờ, thái-hậu cùng họ Lê của bàø, họ Đỗ với dư đảng của Anh-Vũ; càng lộng quyền hơn trước. Mật sứ khuyên bà:
« Bà cũng như tông tộc họ Lê, họ Đỗ đều lâm thế cỡi cọp, không thể xuống được nữa. Cái gương thời tiền Hán, Lã hậu và họ Lã chuyên quyền, sau khi Lã hậu băng, tông thất nhà Hán, cùng quần thần tru diệt ba họ nhà hậu cũng như phe đảng. Một liều, ba bẩy cũng liều, bà nên vu cho nhà vua bị bệnh, bắt đi tu. Sau đó bắt chước thái-hậu Dương Vân-Nga phế con trai là Đinh Toàn, nhường ngôi cho tình quân là Lê Hoàn ; bà lập viên phó sứ lên làm vua. Bấy giờ Tống không cần bắn một mũi tên, đánh một chiêu võ, mà chiếm được Đại-Việt».
Hiện thái-hậu và phe đảng đang chuẩn bị làm việc đó vào cuối năm.
Nghe Quang-Anh thuật, Long-Xưởng cũng như vợ chồng Lê Thúc-Cẩn đều kinh hồn động phách. Lan-Chi than:
- Từ trước đến giờ, võ lâm Đại-Việt đã nghe biết những điều ô uế trong hoàng tộc, người người đều tưởng rằng đây chẳng qua là chuyện tồi bại của một người đàn bà ngu độn, tham dâm mà thôi. Cho nên các tôn sư đều khuyên đệ tử đứng ngoài, không can thiệp vào. Bây giờ có ba điều không ai có thể bỏ qua. Một là, Mao Khiêm với đệ tử dùng Huyền-âm công sát hại Khánh-Hỷ đại sư, Nghi-Hòa sư thái, đại hiệp Đặng Phi-Sơn. Dường như Tống muốn có tất cả bí lục võ lâm Đại-Việt, rồi nghiên cứu ra phá cách, như vậy, thì vĩnh viễn Đại-Việt không giữ nổi nước nữa. Thâm thực, mà cũng độc thực. Hai là, chúng dùng mỹ nam tử lung lạc Cảm-Thánh thái hậu, dùng Huyền-âm độc chưởng kiềm chế hoàng-hậu...để mưu đồ đem quân Tống vào Đại-Việt. Ba là, sứ đoàn mật của Tống đã vào Đại-Việt từ lâu, mưu đồ chiếm nước. Nếu võ lâm không mau ra tay, thì cái họa mất nước khó tránh.
Bà hỏi chồng:
- Ông nghĩ sao?
- Ta không thể giúp nhà vua diệt phe thái-hậu, vì làm như thế, sẽ có nội chiến, vô tình trúng kế bọn Tống. Ta phải hành động thực khéo, giết chết hết bọn thầy trò Mao Khiêm, tàn sát bọn sứ đoàn Tống với chân tay của thái-hậu. Như vậy bọn ngoại thích họ Lê, họ Đỗ như rắn mất đầu, chỉ cần một tờ chiếu chỉ, bắt đem chặt đầu là xong.
Bà than:
- Có một điều rất khó xử. Vì bản lĩnh Mao Khiêm cao thâm không biết đau mà lường. Đến Khánh-Hỷ, Nghi-Hòa, Đặng Phi-Sơn còn bị mất mạng về tay y thì ta không phải là địch thủ của y mất rồi. Hơn nữa, y là đệ tử của thế tử Vị-Hoàng, tức sư đệ của chưởng môn phái Đông-a Trần Tự-Kinh. Ví dù bản lãnh ta có cao hơn y, thì luật lệ võ lâm không cho ta giết y. Ta chỉ có thể cáo với phái Đông-a để họ tự thanh lý môn hộ mà thôi.
Ông tỏ vẻ cương quyết:
- Cái khó khăn nhất do ta không biết chánh, phó sứ Tống là ai? Sứ đoàn có bao nhiêu người? Ngay bây giờ trở về, thái-tử phải xử dụng Khu-mật viện, để tìm cho ra bọn chúng.
Long-Xưởng tỏ vẻ tự tin:
- Nhị vị yên tâm. Tiểu bối đã nắm chắc Khu-mật viện rồi.
- Thái tử nắm như thế nào?
Thúc-Cẩn hỏi: Liệu những người đó có tin đươc không?
- Trước kia Khu-mật viện do Đỗ Anh-Vũ kiêm nhiệm. Từ khi y chết rồi, thì Thái-sư Lưu Khánh-Đàm tạm thay thế. Nay tiểu bối đã xin phụ hoàng thăng Bảo-Ninh hầu Lý Long-Can lên chức Phiêu-kị thượng tướng quân, quản Khu-mật viện.
- Được đấy. Ông này vừa có tài, lại trung thành.
- Trong Khu-mật viện có ba ty. Ty Phòng-ngự do Binh-bộ đảm trách. Trước đây trưởng ty là Trung-vũ thượng tướng quân Chu Công-Chính vốn thuộc dư đảng của Đỗ Anh-Vũ. Tiểu bối đã tâu phụ hoàng thăng cho y lên chức Tuyên-vũ trấn Thanh-hóa; lấy Long-nhương thượng tướng quân Lưu Khánh-Bình, con của Thái-sư Lưu Khánh-Đàm thay thế.
- Hay lắm. Từ nay bao nhiêu chính lệnh ban ra cho các đạo quân, lại là người thâm tình của thái-tử. Như vậy ta nắm chắc quân các trấn trong tay. Còn ty Nội-sát. Ty này là tai, là mắt của Đại-Việt đây.
- Ty Nội-sát, trước kia do con trai Đỗ Anh-Vũ là Đỗ Anh-Hùng đảm trách. Sau khi y bị Côi-sơn song ưng giết chết, ty này do Lại-bộ thượng thư Đỗ An-Di, em của Đỗ thần phi kiêm nhiệm. Còn ty quan trọng nhất là ty Mật-sự, trước kia do Tô Hiến-Thành kiêm nhiệm. Tiểu bối mới tâu phụ hoàng thăng cho ông ta lên làm Long-thành tiết độ sứ, và cử Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân Tăng Quốc lên thay. Tăng Quốc là chồng của nhũ mẫu. Như nhị vị tiền bối biết, những người ngồi ở Khu-mật viện bổng lộc không có, lại dễ bị mang họa. Nên nay Tô Hiến-Thành, Chu Công-Chính được thăng chức lớn, được cử vào những chức vụ béo bở, thì mừng lắm. Thái hậu không nhìn ra kế sách của tiểu bối, nên vui vẻ ra mặt.
- Tôi yên tâm.
Thúc-Cẩn tiếp: Cái việc quan trọng là giết tên Mao Khiêm, với diệt sứ đoàn. Sự đã như thế này, thì ta phải cáo với chưởng môn nhân năm đại môn phái, để hành động chung, hầu tránh hiềm khích với nhau.
Thế rồi ba người bàn định với nhau mãi đến chiều mới dứt. Thúc-Cần nói:
- Thái-tử cứ yên tâm về Đông-cung giữ kín mọi việc đã xẩy ra. Vì chỉ cần lộ ra rằng ta biết rõ mưu gian của bọn ngoại thích họ Lê, họ Đỗ, thì lập tức chúng phải hành sự ngay. Như vậy, thì nội chiến e khó tránh. Còn tên Đỗ Anh-Hào, chúng tôi có cách kiềm chế nó.
Ông ghé miệng vào tai Long-Xưởng thì thầm một lúc. Không biết ông nói những gì, mà chỉ thấy Long-Xưởng mỉm cười, gật đầu liên tiếp. Cuối cùng ông trao cho Long-Xưởng cái bình nhỏ, trong đựng tám viên thuốc, dặn rằng:
- Đây là thuốc giải Huyền-âm chưởng. Thái-tử về dâng lên hoàng-hậu. Tuy hậu được trị bệnh, nhưng vẫn giả ngây, giả dại, sợ sệt thái-hậu để bà không đề phòng, ta mới dễ hành động.