tưởng về việc những sinh vật thông minh đã đến thăm Trái đất từ một nơi nào đó khiến ta đặt câu hỏi về sự tồn tại của một thiên thể khác mà trên đó những sinh vật thông minh này đã tạo dựng nên một nền văn minh tiến bộ hơn nền văn minh của chúng ta. Trong quá khứ, giả định về khả năng đã có cuộc viếng thăm của những sinh vật thông minh bên ngoài xuống Trái đất tập trung coi các hành tinh như sao Hỏa hay sao Kim là nơi xuất phát của họ. Tuy nhiên, hiện nay khi chúng ta gần như có thể chắc chắn rằng 2 hành tinh gần Trái đất này không hề có sinh vật thông minh cũng không có nền văn minh tiến bộ nào, thì những người tin vào sự tồn tại những chuyến viếng thăm như vậy tới Trái đất lại cho rằng các thiên hà khác cùng các vì sao xa xôi là điểm xuất phát của những nhà du hành vũ trụ ngoài hành tinh đó. Ưu điểm của những ý kiến này là tuy chúng không thể chứng minh nhưng cũng không ai có thể bác bỏ được chúng. Nhược điểm là những “điểm xuất phát” này lại cực kỳ cách xa Trái đất, phải mất nhiều năm du hành với tốc độ ánh sáng mới tới được. Tác giả của những ý kiến này lại đưa ra giả thiết về những chuyến đi một chiều tới Trái đất: một nhóm các nhà du hành vũ trụ thực hiện nhiệm vụ một đi không trở lại, hoặc có lẽ là một con tàu vũ trụ bị lạc đường và mất kiểm soát rồi lao xuống Trái đất. Đây rõ ràng không phải là quan điểm của người Sumer về Thiên Cung của các vị Thần. Người Sumer thừa nhận sự tồn tại của một “Thiên Cung”, một “chốn thuần khiết”, một “cung điện nguyên sinh” như vậy. Trong khi Enlil, Enki và Ninhursag xuống Mặt đất và cư ngụ ở đó thì người cha Anu của họ vẫn ở lại cai trị Thiên Cung. Không chỉ thỉnh thoảng được nhắc đến trong nhiều ghi chép, 21 cặp thần linh của vương triều trước Anu trên ngai vàng của “chốn thuần khiết” còn thực sự được liệt kê trong những “danh sách thần linh” chi tiết. Còn Anu ngự trên một cung điện huy hoàng và rộng lớn. Theo lời Gilgamesh (cũng như xác nhận trong Sách Tiên tri Ezekiel) thì đó là một cung điện với một khu vườn nhân tạo được chạm khắc toàn bộ bằng đá bán quý. Ở đó Anu ngự trị cùng với người vợ chính thức là Antu và 6 phi tần, 80 người con (trong đó có 14 người con với Antu), 1 Thừa Tướng, 3 Chỉ huy trưởng phụ trách các Mu (tàu tên lửa), 2 Chỉ huy trưởng về Vũ khí, 2 Tổ Sư về Kiến thức, 1 Thượng thư Bộ hộ, 2 Chánh án, 2 “người có dấu ấn mạnh mẽ”, 2 người phụ trách việc ghi chép cùng với 5 trợ lý ghi chép. Các ghi chép của người Mesopotamia thường nhắc đến vẻ tráng lệ của Cung điện Anu cùng các vị thần và vũ khí canh gác lối vào. Câu chuyện về Adapa kể rằng thần Enki sau khi cấp cho Adapa một chiếc shem, Chỉ đường cho ông tới Thiên đường, và ông bay lên Thiên đường. Khi ông tới được Thiên đường, ông đến Cánh cổng của Anu. Tammuz và Gizzida đang đứng gác bên Cánh cổng của An. Được bảo vệ bằng 2 loại vũ khí SHAR.UR (“thợ săn hoàng gia”) và SHAR.GAZ (“sát thủ hoàng gia”), Cung điện của Anu là nơi Hội đồng các vị Thần tụ họp. Vào những dịp tụ họp như vậy, một đạo luật nghiêm ngặt quy định thứ tự đi vào và chỗ ngồi được đưa ra: Enlil bước vào Cung điện của Anu, ngồi xuống chỗ của chiếc mũ thiêng tiara, phía bên phải của Anu. Ea bước vào cung điện của Anu, ngồi xuống chỗ của chiếc mũ thiêng tiara, phía bên trái của Anu. Các vị thần của Thiên đường và Mặt đất ở vùng Cận Đông cổ đại không những có nguồn gốc từ Thiên đường mà còn có thể trở về Thiên Cung. Anu thỉnh thoảng có những chuyến thăm chính thức xuống Mặt đất; Ishtar trở về với Anu ít nhất hai lần. Trung tâm thờ cúng của Enlil tại Nippur được xây dựng như một “sợi dây” “kết nối trời-đất”. Shamash là vị thần phụ trách Đại bàng và bãi phóng tàu tên lửa. Gilgamesh bay lên tới Cung điện Bất tử và quay trở về Uruk; Adapa cũng thực hiện chuyến hành trình đó và trở về kể cho mọi người nghe; vua Tyre trong Kinh thánh cũng vậy. Rất nhiều ghi chép của người Mesopotamia nhắc tới từ Apkallu, thuật ngữ tiếng Akkad có nguồn gốc từ AB.GAL trong tiếng Sumer có nghĩa là “Đấng Vĩ đại dẫn đầu” hay “người thầy chỉ lối”. Nghiên cứu do Gustav Guterbok (Die Historische Tradition und Ihre Literarische Gestaltung bei Babylonier und Hethiten - Truyền thống lịch sử văn học và thiết kế thời Babylon và Hittite) thực hiện đã xác định rằng họ là những “điểu nhân” được khắc họa như “Đại bàng” mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Những ghi chép nói về các chiến công của họ kể rằng một người trong số đó “đã đưa Inanna từ Thiên đường xuống đền E-Anna”. Điều này và nhiều chi tiết khác chứng tỏ rằng các Apkallu này chính là những phi công lái tàu vũ trụ của người Nefilim. Hành trình hai chiều không chỉ tạo điều kiện mà trong thực tế như chúng tôi được biết, đã thúc đẩy việc xem xét đưa ra quyết định thiết lập Cánh cổng các vị Thần (Babili) ở Sumer, vị thần đứng đầu thần giới đã giải thích: Khi đặt chân đến Cội nguồn Nguyên thủy mà các ngươi bay lên để hội họp, Sẽ có chỗ nghỉ ngơi qua đêm đón tiếp tất cả các ngươi. Khi từ Thiên đường các ngươi xuống để hội họp, Sẽ có chỗ nghỉ ngơi qua đêm đón tiếp tất cả các ngươi. Với ý niệm rằng hành trình hai chiều giữa Mặt đất và Thiên Cung vừa được dự tính vừa được thực hiện, người dân Sumer đã không đặt các vị thần của mình ở những thiên hà xa xôi. Di sản mà họ để lại cho ta biết rằng Cung điện của các vị thần nằm chính trong hệ Mặt trời của chúng ta. Chúng ta đã nhìn thấy Shamash trong bộ đồng phục Chỉ huy trưởng các “Đại bàng”. Trên mỗi cổ tay của vị thần này có đeo một đồ vật trông giống như chiếc đồng hồ được cố định bằng đai kim loại. Những hình vẽ khác về các Đại bàng cho thấy tất cả những nhân vật quan trọng đều đeo đồ vật đó. Chúng ta không biết có phải chúng chỉ là những vật trang trí đơn thuần hay có một mục đích hữu dụng nào đó. Nhưng tất cả các chuyên gia đều nhất trí rằng những đồ vật này đều có hình hoa hồng, đó là một cụm “cánh hoa” hình tròn hướng tâm. (Hình 86) Hình hoa hồng là biểu tượng trang trí đền thờ phổ biến nhất ở các vùng đất cổ đại này và thịnh hành ở Mesopotamia, Tây Á, Anatolia, Cyprus, đảo Crete và Hy Lạp. Quan điểm rằng hình hoa hồng, biểu tượng của đền thờ là sự phát triển hay biểu tượng hóa của một hiện tượng thiên văn – đó là mặt trời được bao quanh bởi các vệ tinh của nó – đã được chấp nhận rộng rãi. Việc các nhà du hành vũ trụ cổ đại đeo trên tay biểu tượng này càng củng cố vững chắc quan điểm này hơn. Một bức họa của người Assyria về Cánh cổng của Anu trên Thiên Cung (Hình 87) cho thấy người cổ đại cũng biết đến hệ thiên thể như Mặt trời và các hành tinh của nó. Cánh cổng được hai Đại bàng canh gác – điều này thể hiện rằng để tới được Thiên Cung thì cần phải có sự phục vụ của họ. Quả cầu có cánh – biểu tượng thần linh tối cao – đánh dấu ở lối vào. Nó được bảo vệ bởi 7 biểu tượng thiên văn và hình trăng lưỡi liềm, (mà chúng tôi tin là) biểu thị cho Anu được bảo vệ bởi Enlil và Enki. Những thiên thể mà các biểu tượng này đại diện nằm ở đâu? Thiên Cung nằm ở đâu? Người họa sỹ cổ đại đưa ra câu trả lời bằng một hình vẽ khác thể hiện một vị thần lớn đang tỏa những tia sáng tới 11 thiên thể nhỏ hơn bao quanh. Đó là biểu tượng cho Mặt trời cùng với 11 hành tinh trên quỹ đạo. Ta có thể chứng minh đây không phải là một biểu tượng cá biệt vì có nhiều hình vẽ khác trên các con dấu lăn, giống như con dấu này tại Bảo tàng Cận Đông cổ đại ở Berlin. (Hình 88) Hình 87 Khi phóng đại hình vị thần hay thiên thể trung tâm trên con dấu ở bảo tàng Berlin này (Hình 89) ta có thể thấy rằng nó khắc họa một ngôi sao lớn tỏa sáng 11 thiên thể hay hành tinh bao quanh. Những thiên thể này lại dựa trên một chuỗi 24 quả cầu nhỏ hơn. Liệu đây có đơn thuần là sự trùng hợp khi số lượng tất cả các “mặt trăng”, hay còn gọi là vệ tinh của các hành tinh trong hệ Mặt trời của chúng ta cũng chính xác là 24? Dĩ nhiên đến đây sẽ có người cho rằng những bức họa vẽ Mặt trời và 11 hành tinh này là dạng thức mô phỏng chính Hệ Mặt trời của chúng ta, bởi các chuyên gia nói rằng Trái đất nằm trong hệ thiên văn bao gồm Mặt trời, Trái đất và Mặt trăng, sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương, sao Hải Vương và sao Diêm Vương. Như vậy tổng cộng chỉ có Mặt trời và mười hành tinh (khi Mặt trăng được tính là một hành tinh). Nhưng đó không phải là những gì mà người Sumer nói. Họ cho rằng Hệ Mặt trời của chúng ta bao gồm Mặt trời và 11 hành tinh (tính cả Mặt trăng) và trung thành với quan điểm rằng ngoài những hành tinh mà chúng ta biết hiện nay, còn có một thành viên thứ mười hai của Hệ Mặt trời – hành tinh nơi có những người Nefilim. Chúng tôi sẽ gọi hành tinh đó là Hành tinh thứ Mười hai. *** Trước khi kiểm tra tính chính xác của thông tin do người Sumer đưa ra, chúng ta hãy cùng xem lại lịch sử tri thức của con người về Trái đất và vũ trụ xung quanh. Ngày nay chúng ta biết rằng trong Hệ Mặt trời ngoài 2 hành tinh khổng lồ sao Mộc và sao Thổ có 2 hành tinh lớn nữa là sao Thiên Vương và sao Hải Vương cùng một hành tinh thứ ba nhỏ hơn là sao Diêm Vương. Nhưng gần đây chúng ta mới phát hiện ra chúng. Sao Thiên Vương được phát hiện vào năm 1781 nhờ việc ra đời và sử dụng kính thiên văn cải tiến. Sau khi tiến hành quan sát trong 50 năm, một số nhà thiên văn học đi đến kết luận rằng quỹ đạo của hành tinh này chịu ảnh hưởng của một hành tinh khác nữa. Bằng các phép tính toán học như vậy vào năm 1846 các nhà thiên văn học đã xác định chính xác hành tinh còn thiếu đó – đó chính là sao Hải Vương. Rồi đến cuối thế kỷ XIX, có bằng chứng cho thấy chính sao Hải Vương cũng là đối tượng của lực hấp dẫn bí ẩn. Có phải đó là của một hành tinh khác trong Hệ Mặt trời của chúng ta? Câu hỏi này được giải đáp vào năm 1930 với việc quan sát và xác định được sao Diêm Vương. Nhưng đến tận năm 1780 và nhiều thế kỷ trước đó người ta vẫn tin rằng Hệ Mặt trời của chúng ta có 7 hành tinh: Mặt trời, Mặt trăng, sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ. Trái đất không được coi là một hành tinh vì người ta tin rằng các thiên thể khác quay quanh Trái đất – thiên thể quan trọng nhất do Chúa tạo ra, với sản phẩm sáng tạo quan trọng nhất của Chúa là Con người ở trên đó. Các sách giáo khoa của chúng ta thường coi Nicolaus Copernicus là người phát hiện ra Trái đất chỉ là một trong 7 hành tinh trong hệ nhật tâm (lấy Mặt trời làm trung tâm). Lo sợ sự phẫn nộ của nhà thờ Công giáo vì đã bác bỏ thuyết Trái đất là trung tâm, Copernicus chỉ dám xuất bản nghiên cứu của mình (De revolutionibus orbium coelestium – Các cuộc cách mạng trong không gian) vào những giờ phút cuối cùng của cuộc đời năm 1543. Với việc xem xét lại những khái niệm thiên văn học cũ kỹ từ nhiều thế kỷ trước được khích lệ bởi nhu cầu hàng hải trong Kỷ nguyên Khám phá, bởi những phát hiện của Columbus (1942), Magellan (1520) và một số cá nhân khác rằng Trái đất không hề bằng phẳng mà có dạng hình tròn, Copernicus đã dựa vào các phép tính toán học và tìm kiếm câu trả lời trong các ghi chép cổ. Năm 1536, một trong những giáo sỹ ủng hộ Copernicus là Cardinal Schonberg đã viết cho ông như sau: “Tôi nhận ra rằng ngài không những nắm vững nền tảng của các học thuyết toán học cổ đại mà ngài còn tạo ra một học thuyết mới… theo đó Trái đất chuyển động còn Mặt trời chiếm vị trí cơ bản và là vị trí chính yếu.” Những khái niệm thiên văn trước đây dựa trên các truyền thuyết Hy Lạp và La Mã rằng Trái đất phẳng và được bao phủ bằng một vòm trời phía trên, trong vòm trời đó vị trí các ngôi sao là cố định. Bên dưới vòm trời đầy sao đó các hành tinh (planet – có nguồn gốc là từ “kẻ lang thang – wanderer” trong tiếng Hy Lạp) chuyển động quanh Trái đất. Như vậy có tất thảy 7 thiên thể và chúng là nguồn gốc của 7 ngày trong tuần cũng như tên gọi của các ngày đó: Mặt trời (Sunday – Chủ nhật), Mặt trăng (Moon – Thứ hai), sao Hỏa (mardi), sao Thủy (mercredi), sao Mộc (jeudi), sao Kim (vendredi), sao Thổ (Saturday – thứ Bảy). (Hình 90) Các khái niệm thiên văn này bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu và luật lệ của Ptolemy, một nhà thiên văn ở thành Alexandria, Ai Cập vào thế kỷ thứ II SCN. Phát hiện của ông chính là Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh khác quay quanh Trái đất. Thuyết thiên văn của Ptolemy đã thống trị hơn 1.300 năm cho đến khi Copernicus đặt Mặt trời vào vị trí trung tâm. Hình 90 Trong khi một số người gọi Copernicus là “Cha đẻ của Thiên văn học hiện đại” thì những người khác lại coi ông như là người nghiên cứu và xây dựng lại những ý tưởng đã có từ trước. Thực tế là Copernicus đã nghiền ngẫm ghi chép của các nhà thiên văn Hy Lạp trước thời Ptolemy như Hipparchus và Aristarchus ở Samos. Vào thế kỷ thứ III TCN Aristarchus cho rằng có thể giải thích được chuyển động của các thiên thể hợp lý hơn với giả thiết Mặt trời nằm ở vị trí trung tâm chứ không phải Trái đất. Thực tế, 2.000 năm trước thời Copernicus, các nhà thiên văn Hy Lạp đã lên danh sách các hành tinh theo thứ tự chính xác tính từ Mặt trời, theo đó thừa nhận rằng Mặt trời mới là tâm điểm của Hệ Mặt trời chứ không phải Trái đất. Copernicus chỉ là người khai phá lại khái niệm nhật tâm; và một thực tế thú vị là các nhà thiên văn những năm 500 TCN lại hiểu biết nhiều hơn những người sống vào năm 500 và 1500 sau Công nguyên. Quả thực hiện nay các chuyên gia khó có thể lý giải được tại sao đầu tiên là người Hy Lạp rồi đến người La Mã đều cho rằng Trái đất bằng phẳng nằm trên một lớp nước tối đen phía dưới là Âm phủ hay “Địa ngục”, trong khi một số bằng chứng do các nhà thiên văn Hy Lạp đưa ra từ thời trước lại cho biết điều ngược lại. Hipparchus, người sống ở vùng Tiểu Á vào thế kỷ thứ II TCN đã bàn về “dấu hiệu điểm chí và điểm phân”, hiện tượng mà ngày nay chúng ta gọi là tuế sai của các phân điểm. Nhưng hiện tượng này chỉ có thể giải thích được theo quan điểm của “thiên văn học hình cầu”, theo đó Trái đất là một quả cầu được bao quanh bởi các thiên thể khác cùng nằm trong một vũ trụ hình cầu. Như vậy có phải Hipparchus đã biết rằng Trái đất là một quả cầu và liệu ông có thực hiện các tính toán của mình theo quan điểm thiên văn học hình cầu? Một câu hỏi khác cũng quan trọng không kém. Hiện tượng tuế sai có thể quan sát được bằng cách liên hệ thời điểm sang xuân với vị trí của Mặt trời (được nhìn từ Trái đất) trong một chòm sao hoàng đạo nhất định. Nhưng quá trình chuyển từ chòm sao hoàng đạo này sang chòm sao hoàng đạo khác mất đến 2.160 năm. Dĩ nhiên là Hipparchus không thể sống lâu đến vậy để thực hiện quan sát thiên văn đó. Vậy ông đã lấy những thông tin này từ đâu? Eudoxus, xứ Cnidus, một nhà toán học và thiên văn học cũng sống ở vùng Tiểu Á trước Hipparchus 2 thế kỷ đã chế tác một thiên cầu, bản sao của nó được dựng ở La Mã chính là bức tượng Atlas chống đỡ thế giới. Các hình vẽ trên quả cầu thể hiện các chòm sao hoàng đạo. Nhưng nếu Eudoxus coi bầu trời là một quả cầu thì vị trí của Trái đất trong mối tương quan với bầu trời là ở đâu? Có phải ông cho rằng thiên cầu nằm trên Trái đất bằng phẳng – cách bố trí kệch cỡm nhất – hay ông đã biết rằng Trái đất là một quả cầu được bao bọc bởi thiên cầu? (Hình 91) Hình 91 Tuy bản gốc các công trình nghiên cứu của Eudoxus đã bị thất lạc nhưng chúng ta vẫn biết tới chúng nhờ vào những bài thơ của Aratus, một người sống ở thế kỷ thứ III TCN, người đã “diễn dịch” các phát hiện của nhà thiên văn này bằng ngôn ngữ thi ca. Trong bài thơ này (mà St. Paul rất quen thuộc vì đã trích dẫn nó), các chòm sao được mô tả rất chi tiết “như được vẽ ra một cách tài tình”; và việc quy nhóm, đặt tên cho các chòm sao đó đã có từ thời rất xa xưa. “Người xưa đã suy nghĩ và lên kế hoạch đặt tên và tìm ra những hình thức phù hợp.” Vậy những “người xưa” mà Audoxus cho là đã đặt tên cho các chòm sao này là ai? Dựa vào một số chi tiết trong bài thơ, các nhà thiên văn đương đại tin rằng các câu thơ của người Hy Lạp này mô tả bầu trời theo vị trí quan sát ở Mesopotamia vào khoảng năm 2200 TCN. Thực tế, việc cả Hipparchus và Eudoxus đều sống ở vùng Tiểu Á khiến ta càng có cơ sở tin rằng họ đã nắm được những tri thức này từ người Hittite. Thậm chí có lẽ họ đã tới thăm kinh đô của người Hittite và xem được hình vẽ đám rước thần linh được khắc trên đá ở đó, bởi trong đoàn diễu hành các vị thần có 2 vị mình người đầu bò đỡ một quả cầu – một cảnh tượng có thể đã gợi cảm hứng cho Eudoxus tạc nên bức tượng Atlas chống đỡ bầu trời. (Hình 92) Hình 92 Liệu có phải các nhà thiên văn Hy Lạp sinh sống ở vùng Tiểu Á nắm bắt được nhiều thông tin hơn các bậc tiền bối vì họ tận dụng được nguồn tri thức của người Mesopotamia? Trong thực tế, Hipparchus đã thừa nhận trong các ghi chép của mình rằng các nghiên cứu của ông đều dựa trên những kiến thức được tích lũy và chứng thực qua nhiều thiên niên kỷ. Ông đặt tên cho những người thầy của mình là “những nhà thiên văn người Babylon xứ Erech, Borsippa và Babylon”. Geminus ở đảo Rhodes coi “người Chaldea” (người Babylon cổ đại) là những người đã khám phá ra chuyển động chính xác của Mặt trăng. Sử gia Diodorus Siculus ở thế kỷ thứ I TCN đã xác nhận tính chính xác của thiên văn học Mesopotamia; ông khẳng định rằng “người Chaldea đã đặt tên cho các hành tinh ở trung tâm hệ thiên văn của họ là Mặt trời, ngôi sao sáng nhất, còn các hành tinh khác là “con cái” phản ánh vị trí và mức độ chiếu sáng của Mặt trời”. Như vậy, Chaldea được thừa nhận là nguồn gốc của tri thức thiên văn Hy Lạp; những người Chaldea cổ đại luôn có vốn hiểu biết phong phú và chính xác hơn các dân tộc sau họ. Qua nhiều thế hệ, cái tên “người Chaldea” đã gắn liền với biểu tượng của nhà chiêm tinh, nhà thiên văn trên khắp thế giới cổ đại. Abraham, người đến từ “thành Ur của người Chaldea” đã được Thiên Chúa yêu cầu quan sát các vì sao khi bàn về các thế hệ tương lai của người Hebrew. Thực tế, Kinh Cựu ước chứa đựng đầy rẫy những thông tin thiên văn. Joseph so sánh bản thân và anh trai mình với 12 thiên thể và tộc trưởng Jacob ban phước cho 12 đứa con của mình bằng cách gắn chúng với 12 chòm sao hoàng đạo. Phần Thánh ca trong cuốn Sách Job liên tục nhắc tới các hiện tượng thiên văn, các chòm sao hoàng đạo và các chòm sao khác (chẳng hạn như chòm sao Thất tinh). Những tri thức về hoàng đạo, sự phân chia bầu trời một cách khoa học và những thông tin thiên văn khác đã được phổ biến ở vùng Cận Đông cổ đại trước cả thời Hy Lạp cổ đại. Tri thức thiên văn của người Mesopotamia vốn là cội nguồn tri thức của các nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại và có quy mô vô cùng đồ sộ, bởi chỉ riêng những gì mà các nhà khảo cổ tìm thấy cũng đã trở thành một kho tàng những ghi chép, bản khắc, con dấu, phù điêu đắp nổi, hình vẽ, danh sách các thiên thể, các điềm báo, lịch, bảng thống kê thời gian mọc và lặn của Mặt trời cùng các hành tinh khác cũng như các dự báo thiên thực. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nhiều ghi chép trong số đó về bản chất mang tính chiêm tinh học nhiều hơn là thiên văn học. Bầu trời và chuyển động của các thiên thể dường như là mối bận tâm hàng đầu của các vị vua hùng mạnh, các giáo sỹ đền thờ và của người dân xứ sở này nói chung; dường như mục đích của việc chiêm tinh là tìm kiếm trên bầu trời câu trả lời cho nguyên nhân các sự việc diễn ra trên Trái đất như chiến tranh, hòa bình, sự sung túc hay nạn đói. Sau khi biên soạn và phân tích hàng trăm ghi chép có từ thiên niên kỷ thứ nhất TCN, R. C. Thompson (The Report of the Magicians and Astrologers of Nineveh and Babylon – tạm dịch: Báo cáo của các pháp sư và nhà chiêm tinh Nineveh và Babylon) đã có thể chỉ ra rằng các nhà chiêm tinh này rất quan tâm đến vận mệnh của xứ sở, của người dân và của nhà vua dưới góc độ quốc gia chứ không phải là vận mệnh của từng cá nhân (không giống như thuật chiêm tinh “đoán số tử vi” ngày nay): Nếu Mặt trăng không mọc trong thời gian đã định, sẽ có một cuộc xâm lăng do một thành lớn gây ra. Nếu một sao chổi đi qua đường đi của Mặt trời, cái đuôi sẽ bị thu nhỏ lại, cuộc nổi loạn sẽ diễn ra 2 lần. Nếu sao Mộc đi cùng với sao Kim, các giáo sỹ của xứ sở sẽ thấu tận trái tim các vị thần. Nếu Mặt trời đi vào vị trí của Mặt trăng, đức vua của xứ sở sẽ gìn giữ được ngai vàng. Ngay cả thuật chiêm tinh này cũng đòi hỏi những kiến thức toàn diện và chính xác về thiên văn, bởi nếu không có chúng thì chẳng ai có cơ sở để đưa ra bất kỳ điềm báo nào. Người Mesopotamia với vốn kiến thức đó đã phân biệt được những vì sao “cố định” với những hành tinh “lang thang” và biết rằng Mặt trời với Mặt trăng không phải là những ngôi sao cố định cũng không phải là những hành tinh bình thường. Họ cũng quen thuộc với sao chổi, sao băng và các hiện tượng thiên văn khác, họ cũng tính toán được các mối liên hệ giữa Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất và dự đoán được thiên thực. Họ theo dõi chuyển động của các thiên thể và liên hệ chúng với quỹ đạo và sự quay của Trái đất trong Hệ Mặt trời – hệ thiên văn, đặc biệt họ còn tính được thời điểm mọc và lặn của các ngôi sao và hành tinh trên bầu trời trong mối tương quan với Mặt trời và cách tính này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Để theo dõi được chuyển động của các thiên thể và vị trí của chúng trên bầu trời trong mối tương quan với Trái đất và với nhau, người Babylon và người Assyria có những loại lịch thiên văn chính xác. Chúng là những tấm đất sét liệt kê và dự đoán vị trí tương lai của các thiên thể. Giáo sư George Sarton (Chaldean Astronomy of the Last Three Centuries B.C – tạm dịch: Thiên văn học của người Chaldea trong 3 thế kỷ cuối TCN) phát hiện ra rằng những tấm lịch này được tính toán theo 2 phương pháp: phương pháp mới hơn được sử dụng ở Babylon và phương pháp cũ hơn được sử dụng ở Uruk. Điều khác thường trong khám phá của ông là phương pháp cũ hơn của người Uruk lại phức tạp và chính xác hơn phương pháp sau này. Ông giải thích cho hiện tượng đáng ngạc nhiên này bằng cách kết luận rằng những khái niệm thiên văn sai lầm của người Hy Lạp và La Mã bắt nguồn từ việc chuyển sang một trường phái triết học giải thích thế giới bằng các thuật ngữ hình học, trong khi các giáo sỹ – nhà thiên văn người Chaldea lại tuân theo những công thức và truyền thống sẵn có của người Sumer. Quá trình khai quật nền văn minh Mesopotamia trong vòng 100 năm qua đã khẳng định rằng những tri thức của chúng ta trong lĩnh vực thiên văn và nhiều lĩnh vực khác có cội rễ sâu xa từ Mesopotamia. Trong lĩnh vực thiên văn này chúng ta cũng kế thừa và tiếp nối di sản của người Sumer. Các kết luận của Sarton càng được củng cố bằng những nghiên cứu toàn diện của Giáo sư O. Neugebauer (Astronomical Cuneiform Texts – Các ghi chép thiên văn bằng chữ hình nêm), người đã vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng chính những tấm lịch thiên văn đó lại không dựa trên quan sát của các nhà thiên văn Babylon, những người đã soạn ra chúng. Thực tế, chúng được tính toán “từ một vài hệ thống số học cố định… được trao lại” và các nhà thiên văn sử dụng chúng mà “không chỉnh sửa”. Sự tôn trọng triệt để mang tính tự giác đối với “các hệ thống số học” được hình thành với sự trợ giúp của “các ghi chép số học” đi kèm với các lịch thiên văn, “đưa ra các quy tắc tính toán lịch thiên văn theo từng bước”, tuân thủ một số “lý thuyết toán học nghiêm ngặt” nào đó. Neugebauer kết luận rằng các nhà thiên văn Babylon không hề biết đến các lý thuyết làm cơ sở cho lịch thiên văn và các phép tính toán học của mình. Ông cũng thừa nhận rằng “cơ sở thực nghiệm và lý thuyết” ở tầm vĩ mô của các tấm lịch chính xác đó cũng nằm ngoài khả năng của các học giả đương đại. Tuy vậy ông vẫn tin chắc rằng các lý thuyết thiên văn học cổ xưa “chắc hẳn phải tồn tại, bởi người ta không thể nghĩ ra các hệ thống tính toán có độ phức tạp cao mà không có một kế hoạch công phu”. Giáo sư Alfred Jeremias (Handbuch der Altorientalischen Geistkultur – tạm dịch: Hướng dẫn về các cổ vật phương Đông) kết luận rằng các nhà thiên văn Mesopotamia đã biết đến hiện tượng nghịch hành, đó là hiện tượng thất thường biểu thị hướng di chuyển không ổn định của các hành tinh khi được quan sát từ Trái đất và gây nên bởi thực tế Trái đất quay quanh Mặt trời hoặc nhanh hơn hoặc chậm hơn so với các hành tinh khác. Tầm quan trọng của những kiến thức này không chỉ nằm ở thực tế rằng nghịch hành là một hiện tượng liên quan đến các quỹ đạo của các hành tinh di chuyển quanh Mặt trời mà còn ở thực tế rằng để nắm bắt và lần theo hiện tượng này đòi hỏi những quá trình quan sát rất lâu dài. Những lý thuyết phức tạp này đã được xây dựng từ đâu và ai là người tiến hành những quan sát không thể thiếu để xây dựng nên các lý thuyết đó? Neugebauer chỉ ra rằng “trong các ghi chép về thủ tục, chúng ta bắt gặp rất nhiều thuật ngữ kỹ thuật không thể đọc được, nếu không muốn nói là không thể hiểu được”. Có ai đó trước thời của người Babylon rất lâu đã nắm trong tay những tri thức thiên văn và toán học vượt trội hơn nhiều so với các nền văn hóa Babylon, Assyria, Ai Cập, Hy Lạp và La Mã sau này. Người Babylon và người Assyria đã đóng góp một phần quan trọng những nỗ lực thiên văn của mình trong việc gìn giữ một loại lịch chính xác. Giống như lịch Do Thái vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay, đó là loại lịch âm - dương có sự kết hợp (“xen lẫn”) giữa năm dương lịch khoảng hơn 365 ngày với một tháng âm lịch dưới 30 ngày. Tuy lịch rất quan trọng đối với công việc kinh doanh và các nhu cầu trần tục khác nhưng người ta cần đến sự chính xác của nó chủ yếu là để quyết định ngày và khoảnh khắc chính xác của Năm Mới, cũng như các lễ hội và nghi lễ thờ cúng các vị thần khác. Để tính toán và liên kết các chuyển động phức tạp của Mặt trời, Trái đất, Mặt trăng và các hành tinh, các giáo sỹ − nhà thiên văn Mesopotamia dựa vào một lý thuyết thiên văn học hình cầu phức tạp. Trái đất được coi là một quả cầu với một đường xích đạo và các cực; bầu trời cũng được chia phân chia bằng các đường xích đạo và đường nối cực tưởng tượng. Đường đi của các thiên thể có liên quan đến hiện tượng thiên thực là ảnh chiếu của Trái đất quay quanh Mặt trời lên thiên cầu; các điểm phân (các điểm và thời điểm mà Mặt trời trong hành trình di chuyển về phía bắc và phía nam thường niên giao cắt với đường xích đạo thiên cầu); và các điểm chí (thời điểm mà Mặt trời trong hành trình theo quỹ đạo thường niên của mình đạt đến độ lệch dương và độ lệch âm lớn nhất). Tất cả những khái niệm thiên văn đó vẫn còn được sử dụng cho đến tận ngày nay. Nhưng người Babylon và người Assyria không phải là người phát minh ra loại lịch này hay những phương pháp tài tình để tính toán ra loại lịch đó. Những cuốn lịch chính xác như lịch của chúng ta ngày nay có nguồn gốc từ Sumer. Các chuyên gia đã tìm thấy ở đó một cuốn lịch đã được sử dụng từ thời rất xa xưa đóng vai trò là cơ sở cho tất cả các loại lịch sau này. Loại lịch chủ yếu và chuẩn xác chính là lịch của Nippur, nơi ngự trị của Enlil. Lịch ngày nay của chúng ta cũng bắt chước theo loại lịch Nippur đó. Người Sumer cho rằng Năm Mới bắt đầu vào thời điểm chính xác khi Mặt trời đi qua điểm xuân phân. Giáo sư Stephen Langdon (Tablets from the Archives of Drehem – Những tấm đất sét trong kho lưu trữ của Drehem) phát hiện ra rằng những hồ sơ mà Dungi, một vị vua của Ur vào khoảng năm 2400 TCN để lại cho thấy lịch Nippur lựa chọn một thiên thể nhất định đối xứng với mặt trời lặn để quyết định thời điểm chính xác bước sang Năm Mới. Ông cho rằng việc này đã được thực hiện “có lẽ 2.000 năm trước thời của Dungi”, nghĩa là vào khoảng năm 4400 TCN! Có thật là người Sumer tuy không có những dụng cụ thực sự trong tay nhưng vẫn có được những tri thức toán học và thiên văn phức tạp cần thiết cho thiên văn học và hình học hình cầu? Trong thực tế điều đó là sự thật, như đã được chỉ ra trong ngôn ngữ của họ. Họ có một thuật ngữ DUB có nghĩa là (trong lĩnh vực thiên văn học) “đường tròn thế giới” 360 độ được sử dụng để nói về độ cong hay hình cung của bầu trời. Với những tính toán thiên văn và toán học của mình, họ đã vẽ ra AN.UR – một “đường chân trời bầu trời” tưởng tượng để dựa vào đó tính toán thời gian mọc và lặn của các thiên thể. Từ đường chân trời này họ vẽ một đường thẳng vuông góc được gọi là NU.BU.SAR.DA; với đường này họ biết được thiên điểm và gọi nó là AN.PA. Họ vạch ra những đường mà chúng ta gọi là kinh tuyến và đặt tên cho chúng là “đường nối chia độ”; đường vĩ tuyến thì được gọi là “trung tuyến bầu trời”. Chẳng hạn như đường vĩ tuyến đánh dấu điểm hạ chí được gọi là AN.BIL (“điểm nóng của bầu trời”). Các kiệt tác văn học của người Akkad, Hurrian, Hittite và các dân tộc khác của vùng Cận Đông cổ đại dù là bản dịch hay bản gốc bằng tiếng Sumer đều chứa đựng rất nhiều những từ vay mượn tiếng Sumer chỉ các thiên thể và hiện tượng thiên văn. Các học giả Babylon và Assyria lập nên danh sách các vì sao và viết ra các công thức tính toán chuyển động của hành tinh thường ghi chú nguồn tư liệu Sumer trên những tấm đất sét mà họ đang sao chép hoặc dịch. 25.000 bản ghi chép về lĩnh vực thiên văn học và chiêm tinh học được cho là nằm trong thư viện Nineveh của Ashurbanipal thường có những đoạn thừa nhận nguồn gốc tư liệu Sumer. Một loạt tác phẩm thiên văn lớn mà người Babylon gọi là “Ngày của Chúa tể” đã được những người ghi chép công bố bằng cách chép lại từ một tấm đất sét bằng chữ Sumer có từ thời vua Sargon xứ Akkad vào thiên niên kỷ 3 TCN. Một tấm đất sét có từ triều đại thứ ba của Ur, cũng vào thiên niên kỷ 3 TCN, mô tả và liệt kê một loạt các thiên thể rành mạch đến mức các chuyên gia đương đại không mấy khó khăn trong việc nhận ra rằng ghi chép này là một bảng phân loại các chòm sao, trong đó có Ursa Major (Đại Hùng), Draco (Thiên Long), Lyra (Thiên Cầm), Cygnus (Thiên Nga) và Triangulum (Tam Giác) ở bầu trời phía bắc; Orion (Lạp Hộ), Canis Major (Đại Khuyển), Hydra (Trường Xà), Corvus (Ô Nha) và Centaurus (Bán Nhân Mã) ở bầu trời phía nam; và các chòm sao hoàng đạo quen thuộc ở bầu trời trung tâm. Ở Mesopotamia cổ đại, những bí mật về tri thức thiên văn được các giáo sỹ − nhà thiên văn bảo vệ, nghiên cứu và truyền thụ. Bởi vậy cũng là lẽ thường khi ba học giả có công lao mang lại cho chúng ta nền khoa học thất truyền “Chaldea” là những giáo sỹ dòng Tên: Joseph Epping, Johann Strasman và Franz X. Kugler. Trong kiệt tác Sternkunde und Sterndienst in Babel (tạm dịch: Thiên văn học và các chòm sao ở Babylon) của mình, Kugler đã phân tích, giải mã, sắp xếp và giải thích rất nhiều bản ghi chép và danh sách. Trong một trường hợp, bằng cách “đảo ngược bầu trời” dưới phương diện toán học, ông đã có thể chỉ ra rằng một danh sách 33 thiên thể trên bầu trời của người Babylon được sắp xếp một cách chặt chẽ vào năm 1800 TCN như cách sắp xếp ngày nay của chúng ta! Sau nhiều nỗ lực quyết định xem đâu là chòm sao thực sự và đâu chỉ là phân nhóm, thì vào năm 1925 cộng đồng thiên văn thế giới đã nhất trí phân chia bầu trời nhìn từ Trái đất thành 3 phần – phía bắc, trung tâm và phía nam – và từ đó nhóm các ngôi sao lại thành 88 chòm sao. Hóa ra việc phân nhóm này chẳng có gì mới mẻ, vì người Sumer là những người đầu tiên phân chia bầu trời thành 3 dải hay “đạo” – “đạo” phía bắc được đặt theo tên của Enlil, đạo phía nam theo tên của Ea và đạo trung tâm là “Đạo Anu” – và mỗi đạo có các chòm sao khác nhau. Dải bầu trời trung tâm ngày nay có chứa 12 chòm sao hoàng đạo chính xác như Dải Anu, trong dải này người Sumer đã nhóm các ngôi sao thành 12 nhà. Giống như ngày nay, người cổ đại cũng liên tưởng hiện tượng này với khái niệm về hoàng đạo. Vòng quay lớn của Trái đất xung quanh Mặt trời được chia thành 12 phần đều nhau, mỗi phần là 30 độ. Những ngôi sao xuất hiện trong mỗi phần hay mỗi “nhà” này được nhóm lại với nhau thành một chòm sao, các chòm sao đó đều được đặt tên theo hình dạng tưởng tượng mà các ngôi sao trong nhóm tạo thành. Vì tên gọi và mô tả của các chòm sao cùng các phân nhóm và thậm chí là từng ngôi sao trong các chòm sao đều xuất hiện trong nền văn minh phương Tây với việc bị ảnh hưởng sâu sắc từ thần thoại Hy Lạp nên trong gần hai thiên niên kỷ phương Tây có xu hướng coi Hy Lạp là cái nôi của thành tựu này. Nhưng giờ đây chúng ta đã biết rõ rằng các nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại chỉ đơn thuần đưa nền thiên văn học sẵn có từ người Sumer vào ngôn ngữ và thần thoại của mình. Chúng tôi cũng đã nói về cách Hipparchus, Eudoxus và những người khác đạt được tri thức của mình. Ngay cả Thale, nhà thiên văn nổi tiếng đầu tiên của Hy Lạp, người được cho là đã đoán trước được hiện tượng nhật thực toàn phần diễn ra vào ngày 28 tháng Năm năm 585 TCN, góp phần chấm dứt được cuộc chiến giữa người Lydia và Media, cũng thừa nhận rằng nguồn tri thức của mình có cội rễ từ Mesopotamia thời kỳ tiền Semite, hay còn gọi là Sumer. Từ “zodiac” (hoàng đạo) của chúng ta có nguồn gốc từ từ zodiakos kyklos (“hình động vật”) trong tiếng Hy Lạp bởi vì tạo hình của các nhóm sao này giống như hình dạng của sư tử, cá… Nhưng hình dạng tưởng tượng và tên gọi đó thực sự là sản phẩm của người Sumer, những người đã gọi 12 chòm sao hoàng đạo là UL.HE (“đàn động vật sáng ngời”):
- GU.AN.NA (“bò trời”), Taurus (Kim Ngưu).
- MASH.TAB.BA (“song sinh”), Gemini (Song Tử).
- DUB (“càng cua”, “cái kẹp”), Crab hay Cancer (Cự Giải).
- UR.GULA (“sư tử”), chúng ta gọi là Leo (Sư tử).
- AB.SIN (“cha nàng là Sin”), Maiden, Virgo (Xử Nữ).
- ZI.BA.AN.NA (“thiên mệnh”), Libra (Thiên Bình).
- GIR.TAB (“cái cắt và xé”), Scorpio (Bọ Cạp).
- PA.BIL (“người bảo vệ”), Archer, Sagittarius (Nhân Mã).
- SUHUR.MASH (“dê-cá”), Capricorn (Ma Kết).
- GU (“chúa tể các vùng nước”), Water Bearer (Bảo Bình), Aquarius (Tức Đồng)
- SIM.MAH (“cá”), Pisces (Song Ngư).
- KU.MAL (“ở trên đồng ruộng”), Ram, Aries (Bạch Dương).