Chương Chín
Phương Triều, Người Lữ Hành Đi Vào Bí Nhiệm

Cuộc Sống Qua Tập Thơ “Xương Rồng Đen”

    
a Đéc là một tỉnh nhỏ xinh xinh nằm bên bờ Sa Giang êm đềm, một phụ lưu của dòng Tiền Giang. Tôi không nghĩ rằng đây là một chốn địa linh nhân kiệt. Nhưng về nghệ thuật sân khấu, nữ nghệ sĩ Năm Sa Đéc được vang danh khắp Nam Kỳ Lục Tỉnh. Bà nổi danh từ bộ môn hát bội, rồi hát cải lương, sau hết là ở lãnh vực thoại kịch và điện ảnh. Bà là kiện tướng của nghệ thuật trình diễn không nhờ thanh sắc mà ở nghệ thuật diễn xuất. Nhắc tới bà, chúng ta nghĩ tới nữ nghệ sĩ Françoise Rosay của Pháp, hay nữ nghệ sĩ Marguerith Rutherford của Anh, Judith Anderson của Mỹ. Và ngoài ra, vào đầu thế kỷ 20 có 2 tay kiện tướng khoa bản như Luật sư Trần Ngươn Hanh, Kỷ sư Lưu văn Lang (xuất thân từ trường Đại Học Bách Khoa Trung Ương tại Pháp). Về văn chương trước năm 1975 có Sa Giang Trần Tuấn Kiệt nổi tiếng về thơ. Bên văn xuôi có chị Linh Trang (tác giả tập truyện Mưa Chiều) và Phương Triều. Nhưng lúc đó công việc sáng tác của họ chỉ như hoa chớm nụ, trăng vừa tròn gương. Cả hai chỉ tung hoành bên báo chí nhiều hơn.

Vận nước đổi thay, cơ trời xoay chuyển. Khi ra hải ngoại, bên văn xuôi, hai nhà văn gốc tỉnh Sa Đéc là Nguyễn văn Ba, nữ sĩ Tiểu Thu tung ra những tập truyện viết về phong tục trên đất nước quê hương với bút pháp dí dỏm nồng mặn. Còn Phương Triều bắt đầu khởi sắc ở nghệ thật sáng tác thi ca. Bởi anh không cộng tác với các báo văn học nổi tiếng như Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Khởi Hành v.v... nên không đuợc giới sành điệu biết đến nhiều.
Văn nghiệp của Phương Triều gồm có: Còn Nhớ Còn Thương (tập truyện, 1966), Tiếng Hát Hoàng Hôn’(tập truyện, 1966), Sầu Hương Phấn’(tập truyện, 1972), Thơ Phương Triều’(thi tập, 1995), Trăm Bài Thơ Xuân’(thi tập, 2000), Xóm Mộ’(thi tập, 2001), Giọt Sữa Đất’(thi tập, 2002). Và sau hết là Xương Rồng Đen (thi tập, 2004).
Xếp lại tập thơ Xương Rồng Đen, tôi bất đầu ngáp dã dượi. Không phải tôi không thích thú khi đọc nó. Không phải tôi chán ngấy với cái ý tình huyền bí mông lung của anh. Không phải thơ anh không mở cho tôi một cánh cửa, một lối đi, một dòng sông để tôi viễn du vào trong đó. Tôi chỉ sợ khi bình thơ anh, tôi không đủ khả năng diễn tả cái cảm nhận của tôi đối với thơ anh.

Những bạn văn của tôi như 2 nhà thơ nữ Thụy Khanh, Nguyễn Thị Thanh Bình và anh Vũ Tiến Lập có cho tôi biết Phương Triều là một trong các nhà thơ trội nhất trong các nhà thơ gốc Nam Kỳ hiện định cư khắp bốn phuơng trời hải ngoại. Anh dù không thể song hành với Trần Tuấn Kiệt, Tô Thùy Yên khi còn ở trong nước, nhưng anh vẫn bước vào loại thơ có lác đác một vài tư tưởng mà vẫn giữ nguyên vẹn vóc dáng và cốt tủy của thơ. Anh không có sở tri thâm hậu về Phật pháp như Võ Chân Cửu qua các tập thơ Đại Mộng’và Thảng Lai Thi, không thuần túy sáng tác loại thơ bề ngoài là Trử Tình Ca, nhưng bên trong chói rạng tinh thần Bát-nhã chẳng hạn như Như Chi Lê Thị Hiền (qua thi tập Thơ Hiền). Tuy nhiên, thơ anh vẫn phảng phất bóng dáng tư tưởng về cái ảo ảnh của cuộc phù thế, về cái khao khát niềm hạnh phúc vĩnh cửu của con người qua thơ của Ngô Nguyên Dũng, của Đặng Thị Quế Phương.
Có một điều đáng nói là các thơ gốc Nam Kỳ là Phan Ni Tấn và Lâm Hảo Dũng dù không phải là thơ tư tưởng mà là thơ cảm hoài, nhưng thơ của cã hai phản ảnh được tâm trạng thế hệ của một lớp người khổ đau, chịu nhiều hệ lụy, chứng kiến biết bao cảnh tang thương và chịu nhiều mất mát về phương diện tinh thần. Cũng vậy, cái đề tài của thơ Phưong Triều cũng không thoát ra ngoài cái quỹ đao của hai anh Phan, Lâm để tạo cho mình một cương vị sáng sủa trong thi giới. Một lẽ dễ hiểu: anh đã từng sống đọa đày dưới chế độ mới, đã nghiệm chứng được cái đau khổ của con người mình bị tướt đoạt, đã chứng kiến mọi giá trị tinh thần bị cơn bão thời đại làm sụp đỏ. Anh cũng đã đau khổ vì mọi cái quý báu của lý tưởng, của những giấc mưa vừa chớm hình thành mà vẫn chưa có cơ hội nào thực hiện nổi nên đành bị dập tắt một cách tức tưởi. Riêng thi tập Việt Nam Thương Khúc’của Kiệt Tấn là một tác phẩm của dân tháp ngà học đòi làm giang hồ kiếm khách, làm chiến sĩ x&oc!!!13750_7.htm!!! Đã xem 17427 lần.

Sưu tầm: Thanh Vân
Nguồn: http://namkyluctinh.org
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 5 năm 2012

Truyện Quê Nam Một Cõi Chương Một Chương Hai Chương Ba Chương Bốn Chương Năm Chương Sáu Chương Bảy Chương Tám irc;ng bị giảm sút tinh thần văn chương đúng nghĩa.
Những người có đầu óc tôn thờ lý tưởng thường là những kẻ nhiệt tâm nhiệt huyết; nhưng bầu  nhiệt huyết nhiều khi che mờ óc phán đoán của họ. Cho nên họ thường bị kẻ gian tà lợi dụng hoặc bị đưa  vào cạm bẫy của chúng.
Nhìn Nam cắm cúi làm việc, Hiền thấy Nam là một con người nhiều nghị lực. Duờng như trong mỗi con nguời có những thao thức riêng tư được ấp ủ và giấu kín dưới gương mặt bình thản như lòng ham muốn giàu sang, danh vọng, địa vi, khát vọng tình yêu hoặc đeo đuổi theo một lý tưởng nào đó. Trong tình yêu, Hiền biết rõ Nam là kẻ đam mê. Trong những lần làm tình với nàng, Nam như một ngọn lửa đốt cháy nàng, như muốn lột da nàng để nhìn rõ tường tận trong cõi sâu thẳm của nàng. Ngoài ra Nam còn  ấp ủ một hoài bão là được góp công và nhìn thấy quê hương an bình, trong đó đồng bào anh được sống hạnh phúc. Với Nam, dưòng như tiền tài không quyến rũ được anh. Nam say sưa viết lách, dàn trải tâm tình, ước vọng của anh lên trang giấy. Anh kết tội chủ nghĩa cộng sản đã làm kiệt quệ đất nước, đã vắt cạn sinh lực và tinh hoa của người dân, làm thui chột mấy thế hệ tuổi thơ. Nam viết say sưa, viết bằng tất cả sự rung cảm chân thành và tấm lòng yêu nước của anh. Đọc Nam, Hiền cảm nhận được hết những điều đó.
(các trang 702, 703)
Trạc nhận định Nam cũng qua một khía cạnh  bao dung khoan hồng,  không gán cho Nam cái tật cuồng tín:
Nhìn khuôn mặt trầm ngâm của Nam, Trạc thở dài. Anh hiểu Nam lắm. Nam, bạn anh, con sư tử lãng mạn đâu chịu nằm yên trong cũi. Anh đâu còn lạ gì về đức tính hy sinh của Nam, khó ai bì kịp. Bỏ nước, bỏ mẹ già ra đi trong nhục nhã, cái chết của Vinh, của Sử, những ngày tháng đen tối trong tù, cảnh nô lệ của người dân vẫn còn là một vết thương rướm máu trong lòng Nam. Mối hận này chưa rửa được, Nam sẽ sống những ngày khắc khoải không yên; nhưng về chiến khu trong lúc nầy, theo Trạc nghĩ là một hành động vội vã, thiếu cân nhắc. Một tổ chức đấu tranh mà hầu hết anh em gia đình ho Hoàng đều giữ chức vụ quan trọng, trong đó tiền bạc giao trọn cho Hoàng Cơ Định, một tay tham nhũng khi còn giữ chức Giám Đốc trường Cao Đẳng Hóa Học ở Việt Nam. Sau đó bị đưa ra Giám Sát Viện xét xử và bị cách chức. Hoàng Cơ Định đi đến đâu cũng thúc giục các trưởng cơ sở phải tận dung khả năng quyên tiền đồng bào bằng mọi cách.
(trang 738)
Việc bỏ chốn định cư để vào chiến khu của Nam phải có thêm một động cơ nào khác nữa thôi thúc, chớ không phải chỉ vì yêu nước bồng bột. Cái đó, tác giả Anh Vân không nói ra, độc giả cũng không đoán ra. Nhưng cái bí ẩn vẫn thấp thoáng sau lưng sự việc mà tác giả cùng Hiền và Trạc đã trình bày. Cái chết của Nam lại càng kỳ bí hơn. Chuyến ra đi cùng cái chung cuộc thê thảm của chàng bị gói trọn trong lớp màn tối đen huyền bí. Lịch sử trong vòng 10 năm hay 20 năm có thể sẽ trả lời chúng ta đâu là sự thật hay một bóng dáng hoặc một khía cạnh của sự thật. Nhưng Nam thì vẫn là một cái bóng thấp thấp trong huyền sử mờ mờ nhân ảnh từ khi chàng sửa soạn vào khu chiến cho tới cái chết của Hoàng Cơ Minh đã bị tiết lộ. Vè phương diện nghệ thuật, Nam làm cho chúng ta nghĩ ngợi nhiều hơn các nhân vật khác. Chàng hiển thánh trong ánh sáng nghệ thuật trong khi tông tích về sau của chàng trở thành bóng chim tăm cá giữa cái thế giớ u hiển mập mờ.
°
°
Những nhân vật phản diện như Tư Thống và một vài tên quản giáo trong Ác Mộng Đêm Dài  xuất hiện trên diễn tiến quyển sách quá ít. Còn những nhân vật trong mặt trận kháng chiến ma của bọn Hoàng Cơ Minh chỉ được xuất hiện trong lời tường thuật của tác giả qua đống tài liệu đăng rải rác  trên các sách báo ở hải ngoại mà anh thu thập được Trái lại, bên cạnh Nam hoặc bên cạnh hay chung quanh Hiền, nhân vật chính diện  xuất hiện nườm nượp. Xin được lần lượt kê khai:
° Vinh là con một viên sĩ quan cao cấp chỉ biết ăn chơi và một người đàn bà phóng đảng hám lợi. Chàng yêu nước với tấm lòng ngay dạ thẳng và niềm son sắt thiết tha như tấm lòng dũng tưóng Triệu Tử Long thờ chúa của mình là Tây Thục Tiên Chúa Lưu Huyền Đức ( tức là Lưu Bị ). Chàng đau khổ và cảm thấy nhục nhã khi biết mẹ buôn lậu vũ khí cho địch. Và chàng còn ân hận sao mình trước kia với tinh thần yêu nước cao độ mà không đi tác chiến mà lại chịu làm việc Phòng 1 của Tiểu Khu Bặc Liêu. Cho nên muốn chuộc lại lỗi lầm của mẹ và sự chọn lựa cầu an của mình, dù không có kinh nghiệm về chiến trường mà chàng vẫn tham gia vào tổ chức kháng chiến do Sử và các bạn đồng tâm chung hướng của chàng tổ chức. Chàng hy sinh cản địch vào hôm tấn công căn cứ Sóc Đồn nên phải bỏ mạng.
Trại tù vắng vẻ đến lạnh lẽo, chỉ một mình Vinh và một anh tù binh đang đau nằm ở cuối trại. Vinh nằm dài xuống chiếu hút thuốc, nghĩ vẩn vơ, chờ đợi tới giờ lên ban giảng huấn. Vinh rùng mình. Trời nầy mà ngâm mình dưới nước, móc đất là một khổ hình. Cuộc chiến nầy đã mang đến những gì tốt đẹp, chưa thấy, chỉ thấy toàn quân dân mình Nam đang trả một cái giá quá đắt.Vinh nuối tiếc những ngày tháng cũ và có cảm tưởng những gì tốt đẹp đã đổ nát, hoang tàn trong tim anh. Vinh thấy phục Nam. Nam đã sống hết mình với cuộc đời, hi sinh và chịu đựng gian khổ ngoài chiến trường một cách can đảm và bây giờ Nam chấp nhận một cách thản nhiên kiếp sống đọa đày của một tù binh. Vinh biết, Nam đã hết sức cố gắng luyện tập yoga hằng đêm để giữ vững tinh thần, không tỏ ra hèn yếu trước kẻ thù. Không bao giờ Vinh nhìn thấy Nam khúm núm trước mặt những tên bộ đội hay cán bộ giảng huấn như một vài tù binh khác. Anh phục thái độ sống của Nam, muốn được như Nam. Anh thèm khát được cầm súng chiến đấu nhưng tất cả đã muộn màng.
(các trang 213, 214)
°Sử khi còn làm việc ở Phòng Tình Báo Tiểu Khu là một kẻ mặt sắt, một hung thần với bọn địch trà trộn vào dân chúng hay địch nằm vùng. Chàng thâm trầm nhiều mưu mẹo và có óc quyền biến tinh nhuệ. Nhưng chàng không phải là hạng người dùng cái lợi khí thiên bẩm của mình để kiếm tư lợi hay để phụng sự cho cái Ác, cho bạo quyền. Chàng là một kẻ ái quốc chân chính. Cái tổ kháng chiến của chàng do chàng coi sóc mọi việc quan trọng đòi hỏi sự thông tuệ lẫn kiến thức. Chính việc tấn công Sóc Đồn do chàng đặt kế hoạch và chỉ huy. Giúp Nam và Hiền vượt biên cũng do chàng chớ do ai? Chàng yêu thầm kín Lan  mà không dám thố lộ, để tới phút lâm chung mới bày tỏ nỗi lòng với Lan. Chàng tuy là vai phụ trong Ác Mộng Đêm Dài, nhưng chói sáng có phần hơn Nam.
... Âm thầm yêu Lan nhưng Sử không chịu ngỏ lời. Anh biết tỏ tình trong lúc tâm hồn Lan đầy ắp hình ảnh Nam, chỉ chuốc lấy sự bẽ bàng. Tỏ tình không đúng lúc, anh sẽ mất Lan vĩnh viễn vì tình yêu không thể ngỏ lần thứ hai. Sử biết Nam có những điều hơn hẳn anh. Nam có dáng dấp cao ráo, guơng mặt dễ nhìn và nhất là Nam lúc nào cũng dịu dàng và tỏ ra săn sóc đàn bà. Những yếu tố đó anh không thể có được. Bây giờ Nam bỏ đi, Sử định một thời gian sau khi tình cảm của Lan dành cho Nam nhạt dần, anh sẽ tỏ tình cùng Lan và hi vọng sẽ thành công.
(trang 495)
Nắng hôm  nay như vàng hơn, rực rỡ hơn. Cuộc đời bỗng dưng rực rỡ dưới mắt Sử.  Từ ngày Nam bỏ đi cho tới giờ, Sử mất đi một cánh tay đắc lực, gánh nặng của tổ chức sẽ đè nặng hơn trên vai Sử. Tất cả vấn đề quan trọng Sử chỉ biết thảo luận với Lan. Hoạt động bên nhau, cùng gánh vác một việc và cùng chia sẻ hiểm nguy với nhau, tình cảm giữa anh và Lan càng ngày càng khắn khít.
(trang 496)
° Nhân vật Trạc, một nhân vật xương sống, một chứng nhân sáng suốt trong tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài. Khi Lục Phưong Ninh đuổi bọn Hoàng Cơ, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công ra khỏi Lực Lượng Quân Dân Việt Nam hải ngoại, anh có nhận xét như sau:
Trạc thở dài, một lúc rồi nối tiếp:
-- Nghe nói tổ chức đang rạn nứt. Lục Phương Ninh theo Đinh Thạch Bích, sắp
kéo lực lượng ủng hộ Trương Như Tảng, tìm sự yểm trợ của Trung Cộng. Cánh thứ hai gồm có Hoàng Cơ Minh, Phạm Văn Liễu và Trần Minh Công. Mẹ! Chưa làm việc gì đã chia năm xẻ bảy. Nóng lòng nhập cuộc rồi mình chỉ làm viên gạch lót đường cho tham vọng của họ.
Nam nhìn Trạc một giây, anh thấy trong mắt người bạn thân một chút bơ vơ, lạc lỏng. Nam biết trái tim Trạc bắt đầu nguội lạnh. Một con người giàu nhiệt tình với đất nước như Trạc đã bắt đầu mất hết niềm tin. Dường như Trạc nhập cuộc để khỏi bị lương tâm cắn rứt, để được yên lòng sống những ngày còn lại trên xứ người...
(các trang 611, 612)
Sau khi xem cuốn phim video Đồng Tâm trình chiếu ở nhà một chiến hữu tại Santa Ana (Nam California), Trạc không tin  căn cứ khu chiến đặt tại quốc nội. Xin cùng đọc:
Trạc nhìn ra ngoài xe, chửi thề:
-- Đ.m! Chưa gì Mặt Trận đã lừa gạt anh em và buộc mình lừa gạt đồng bào.
Tao lặn lội khắp nơi, tao cá với mầy đó không phải là rừng Việt Nam.
Nam yên lặng lái xe, một lúc sau mới lên tiếng:
-- Thôi, để trình chiếu cuốn video xong, xem phản ứng của đồng bào ra sao.
Việc tạo niềm tin trong đồng bào để tìm sự yểm trợ là điều cần thiết trong giai đoạn đầu.
Trạc lớn tiếng:
-- Tại sao không dám nói thẳng với đồng bào là khu chiến đặt tại Thái Lan? Việc
giải phóng đất nước trong tay giặc là chuyện đội đá vá trời có phải như lấy đồ trong túi ra đâu. Giai đoạn đầu tìm được một nơi để lập khu chiến đã là hay lắm rồi. Tại sao phải nói láo? Nói láo được một lần, họ sẽ không dừng lại ở đó đâu. Chưa gì đã lọt về Việt Nam và lập chiến khu. Làm như tụi Việt cộng đã chết hết và họ đã coi tụi mình như những đứa con nít.
-- Mẹ! Nội cái chiến khu quốc nội nghe đã không ổn rồi, nay lại kết hợp được 36
tổ chức kháng chiến với số kháng quân khoảng hơn mười ngàn người, ngồi đó vẽ cũng còn không kịp. Bọn nó coi chúng mình như lũ con nít. Chắc tao sẽ ra khỏi Mặt Trận một ngày gần đây. Đời tao, không thằng nào có thể coi tao như con nít được. Mẹ! Thằng anh thì làm Chủ Tịch, thằng em thì làm thủ quỹ, toàn quyền trong việc chi thu. Có tổ chức nào lạ đời như tổ chức nầy không? Tao sẽ không thu tiền của đồng bào và anh em trong chi bộ nữa để khỏi hối hận sau nầy. Nếu cần tao sẽ giải tán chi bộ luôn. Tổ chức nầy không đổ vỡ vì chuyện tiền bạc, tao thề sẽ đi bằng hai tay. Cả Liễu, Công cũng chỉ là hai thằng ngu. Tên nào cũng nói là mình phục vụ Tổ Quốc nhưng khi nhìn thấy thái độ hống hách và chuyện tiền bạc thiếu minh bạch của Hoàng Cơ Định, không tên nào dám lên tiếng. Con c...tao không làm gì cho cá nhân tao, tao cóc ngán thằng nào.
(các trang 747, 748)
° Hiền là cô gái mới lớn chỉ biết yêu Nam, chỉ biết chung thủy với Nam, chỉ biết cầu nguyện Chúa Ki-tô phù hộ mình thoát khỏi hoạn nạn tai ương để hưởng hạnh phúc vuông tròn. Ngoài ra, nàng chẳng hề biết những chuyện trọng đại khác. Tai nạn trong chuyến vượt biên càng làm nàng gần gũi Chúa hơn. Linh mục Antonio là kim chỉ nam cho nàng tìm về sự cứu rỗi của Chúa, soi rọi tâm hồn bình an và tìm gặp hạnh phúc  ẩn núp sau tai ương. Nhưng khi Nam bỏ đi theo mặt trận, Hiền bắt đầu tìm hiểu về thời cuộc và về diễn biến hoạt động của  họ. Đó cũng chỉ là động lực do tình yêu thôi thúc mà thôi. Hiền là hiện thân của một thiên thần, sống trong tuân phục ý Chúa. Nàng hoàn toàn quá, thuần khiết quá nên không có cá tính mãnh liệt nào ngoài niềm chung thủy đối với mối tình đầu và  Đức Tin. Ánh sáng thiên lương không hướng dẫn nàng theo chuyện nào khác hơn là vấn đề tâm linh hướng về Chúa để noi gương Chúa vác cây Thánh Giá khi nàng phải gồng mình gánh vác  hệ lụy:
Kính lạy Chúa! Cha nhân từ của con. Chúa ôi!Kính xin Chúa thương xót, tha thứ cho con mọi tội lỗi. Xin Chúa cứu vớt con, đừng rơi bỏ con, nhất là trong lúc nầy. Xin Chúa ở cùng con luôn, giúp con vượt qua những cảnh đời mà sức con không còn kham nổi. Cả tháng nay, con đã và đang sống trong bóng tối sâu thẳm của địa ngục, giữa lằn ranh của sự sống và nỗi chết. Con đã nhận lãnh bao ngọn roi đời tàn bạo trên thân xác yếu đuối và tâm hồn đã rướm máu của con. Hiện con đang chết dần mòn và sự sống như sắp rời khỏi con. Con không xin Chúa cất chén đắng ra khỏi môi miệng con. Tát cả đã muộn màng vì con đã uống chén đắng đó. Con chỉ xin Chúa giúp con nếm giọt đắng cuối cùng một cách can đảm, không lúc nào bằng lúc nầy, con đến để cầu nguyện cho những vết thương trên thánh thể Chúa cũng như những vết thương trong tâm hồn và thể xác con. Những vết thương đau đớn trên thân thể con đã giúp con cảm nhận đuợc nỗi đau tột cùng mà Chúa đã phải chịu đựng trên thập tự giá vì tội lỗi của nhân loại và cũng vì tội lỗi của riêng con. Chúa nhân từ của con ôi! Trên con đường khổ nạn của dân tộc mà con đang đi, một điều mà con nhất thiết van xin Chúa, cho con gặp lại Nam. Xin Chúa mở rộng tấm lòng Nam,  đừng để Nam khinh ghét con vì những đau đớn tủi nhục đó đâu phải do con gây ra mà nó đến từ những tấm lòng độc ác của loài người.
(các trang 466, 467)
° Lan là một nữ quân nhân có tâm huyết. Không phải chỉ có tình yêu của
nàng dành cho Nam thúc đẩy nàng tham gia vào tổ chức chống Cộng mà nàng cần phải làm một cái gì đó cho tổ quốc, cho công bằng, chính nghĩa. Lý tuởng nàng rất sâu sắc và hào hùng hiếm có ở một phụ nữ chân yếu tay mềm.
Xin đọc đoạn nói về ý kiến của Lan trong dự định tổ chức kháng chiến, trong đó Lan sẽ tham gia:
Nam hỏi:
-- Lan nghĩ gì về việc làm của chúng mình?
Lan đáp với giọng bùi ngùi:
-- Lan chỉ nói ý nghĩ của Lan với anh thôi. Làm thì làm, làm cho thỏa mãn con
người phản kháng bên trong tâm hồn mình nhưng Lan thấy nản lòng lắm. Vài chục tay súng thì làm được gì trong lúc nầy nhưng anh em đã góp phần chẳng lẽ mình đứng ngoài. Bây giờ có anh nhập cuộc. Lan thấy như được khích lệ hơn. Thôi thì một kiếp người, sống thế nào để không phải hổ thẹn với mình là đuợc.
Nam nhìn Lan với ánh mắt trìu mến. Anh thấy thương Lan, thương Sử, thương mến những chiến hữu của anh đã can đảm, coi nhẹ mạng sống, coi thường hạnh phúc riêng tư của đời mình, kết hợp để gầy lại cuộc chơi với hai bàn tay trắng. Cuộc chơi mà mọi ngưòi gần như biết trước, khó mà thắng được, nhưng ở đời người ta làm những việc xét ra phải làm và chấp nhận chết cho những điều mình tin tưởng.
Nam hỏi:
-- Lan không nghĩ rằng, ở nhiều nơi khác cũng có những anh em đang âm thầm chiến đấu như chúng mình sao? Việc gom anh em lại để làm một cái gì cho đất nước trong lúc nầy, giống như mình đốt lên một ngọn lửa và cố gắng giữ cho nó đừng tắt. Biết đâu sau đó sẽ có nhiều người tiếp tay với minh.
-- Lan có nghĩ đến điều đó nên còn nấn ná ở lại, bằng không em đã tìm đường ra đi rồi.
(các trang 286, 287)
Tâm lý của Lan được tác giả diễn đạt theo một tiến trình rất lớp lang, rất hợp lý. Nàng yêu Nam ở cái lý tưởng sáng ngời chính nghĩa  lẫn cái phong cách hào hoa của chàng. Nhưng đó chỉ là tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Nhưng rồi  xa Nam, không hy vọng sẽ có ngày gặp lại Nam, mà dù gặp lại Nam thì chàng vẫn thuộc về Hiền, cho nên nàng nhìn lại Sử thường xuyên ở cạnh nàng, cùng nàng hoạt động cho đại cuộc. Cái quyền biến, cái tài đứng vững ở đầu sóng ngọn gió, lẫn cái tâm địa rộng rãi và phong độ hào hùng của Sử dần dà chiếm đoạt trái tim nàng bằng từng bước tuy chậm chạp mà vững chắc.  Ôi, cái tình yêu đó lúc Sử còn sinh tiền âm thầm đến Lan bằng những bước chân nhẹ quá, rón rén và mong manh quá nên nàng chưa cảm nhận rõ rệt. Nhưng đến giây phút chàng chết trong tay nàng, mối tình ấy như một bông hoa ánh ánh nở tung ra, soi rọi khắp nội giới nàng.
Khác với Hiền, Lan tuy không phải là  kẻ vô thần, vô tín ngưỡng, nhưng nàng hoài nghi về linh hồn, về cõi chết. Bình thường nàng không đặt nặng vấn đề này. Nhưng trong lần đi viếng mộ Sử, ánh sáng tâm linh dù bạc nhược vẫn len lỏi vào nội giới nàng, để nàng đối diện với nó, đặt vấn đề về nó. Có lẽ nàng đã gặp một vài biến cố thần bí không sao giải thích trên con đường hành hương tìm những kẻ tuẩn đạo cho chính nghĩa, trong đó có sự hiện diện của Sử. Xin cùng đọc những giờ phút hoài niệm cùng những dòng tư duy thuộc lãnh vực tâm linh của Lan trong lần nàng đi viếng mộ Sử:
Đến nơi, Lan ngồi cạnh nấm mộ nghỉ mệt, mắt nhìn chăm chăm vào tấm mộ bia. ''Tạ Thành Sủ'' sinh năm 1948, mất năm 1979''. Sử chết vào năm 31 tuổi, cái tuổi mà người Việt Nam cho là xuôi xẻo. Lan lấy trong cái giỏ xách miếng vải nhỏ, lau chùi tấm mộ bia. Lau xong, Lan ngồi thừ bên cạnh mộ, mắt nhìn về phía trời xa. Một con chim lẻ loi, kiếm ăn về muộn đang mệt mỏi vỗ cánh bay về tổ. Chung quanh Lan giờ nầy hoang vắng quá, chỉ mình Lan với nấm mộ cô đơn. Tự nhiên Lan cảm thấy mình già đi, tâm hồn cằn cỗi, tràn ngập nỗi buồn, như vạt nắng chiều đang hấp hối ở cuối trời xa thẳm. Lan tự hỏi: ''Con người thật sự có linh hồn chăng?''. Sử vẫn quan niệm rằng ''chết là hết''. Thật sự có phải chết là hết không? Nếu có linh hồn thì thân xác đã về với cát bụi rồi, linh hồn nương tựa vào đâu? Khi còn sống Sử lúc nào cũng nóng nảy bồn chồn. Dường như Sử không có một giây phút an bình, những âu lo thay phiên xuất hiện trong đời sống. Và bây giờ Sử đã chết, tấm thân đã vùi xuống lòng đất lạnh, liệu ở thế giới bên kia, linh hồn Sử có được bình an không? Một thứ bình an vĩnh cửu hay còn vương mắc với những vay trả cuộc đời mà lúc sống, Sử chưa thanh toán được. Quốc gia, cộng sản, dân chủ, độc tài, tự do, nô lệ, những thứ đó có làm bận lòng Sử không? Nếu linh hồn còn đó, liệu Sử có nhìn thấy những giọt nước long lanh niềm khổ hận dưới mắt nàng không? Giọt nước mắt của một cuộc tình mà khi nhận ra đã quá muộn màng để khổ hận cho người sống cũng như kẻ chết...
(các trang 572, 573)
°
°  °
Trong Ác Mộng Đêm Dài  còn có hai nhân vật đáng chú ý. Đó là mẹ của Nam và bà Ngởi (mẹ của Vinh và Hiền).Mẹ của Nam là người đàn bà thuộc hạng trí tuệ, hiểu rõ tình hình và thời cuộc. Tác giả không nói rõ do đâu mà bà có được một kiến thức viễn thâm ấy, ngoài sự ham mê đọc sách. Trong những ngày Nam và Vinh vừa rã ngũ tan hàng, bà nhận định như sau:
-- Các con rồi sẽ không yên với họ đâu. Mẹ lo lắm! Nếu giết được hết thành phần
như các con mà không mang đến hậu quả xấu nào, họ sẽ làm ngay. Họ không nhân đạo mà nghĩ  ''cùng là người Việt với nhau'' như các con nghĩ đâu. Các con còn nhớ các mồ chôn tập thể ở Huế tết Mậu Thân, những lần họ ném lựu đạn vào các chợ hay rạp hát. Đó là những việc làm có chủ trương cả. Họ đâu có nghĩ đến sinh mạng của những người dân vô tội kể cả đàn bà và trẻ thơ. Họ tự phong cho họ cái quyền giết người vì hạnh phúc con người, giết người để cứu người. Họ được dạy dỗ như vậy, giết một số người nhỏ để cứu một số người khác đông hơn. Vì vậy mà họ giết người không gớm tay đâu, nhưng họ giết người mà có cứu được nguời không? Đó là chuyện khác. Họ cần đạt được mục đích, cướp được miền Nam và bằng mọi giá phải giữ được miền Nam. Giết các con thì họ không làm vì vì thành phần tập kết khá đông. Đem con cháu của của những người tập kết ra giết hết, sẽ có loạn ngay và kéo theo sự nổi loạn dây chuyền của những gia đình có con em là sĩ quan. Thời phong trào Việt Minh, nhiều người ra thành, chỉ mua một hộp sữa đặc cho thân nhân đang bịnh uống mà chúng khám xét gặp, chúng tra khảo đến chết rôi quăng vào bao bố, cột miệng lại, ném xuống sông mà họ gọi là ''cho đi mò tôm''.Vì vậy mà mẹ lo cho các con lắm! Chuyện tàn ác nào mà họ không dám làm. Cái chiến thắng nầy vẫn còn làm họ ngỡ ngàng như đang sống trong mơ như các con. Cái mà họ phải làm ngay bây giờ là gom các con lại để ổn định tình thế. Ngày bắt giữ các con sẽ gần đây thôi, còn ngày về của các con thì không ai có thể đoán được. Sau lần chiến thắng ở Trung Quốc một số sĩ quan cao cấp của Trung Hoa quốc gia bị giết, một số vẫn còn bị giam giữ cho tới giờ nầy. Họ sẽ không giết các con ngay, nhưng họ sẽ giết dần mòn các con ở trong tù. Việc làm nầy còn tàn ác hơn nhưng đối với  người ngoại quốc, họ vẫn được tiếng nhân đạo vì không có cảnh tắm máu ở miền Nam như nhiều người dự đoán.
(các trang 129, 130)
Trong văn chương Việt Nam của chúng ta, hình ảnh bà mẹ  của các nhân vật chính diện thường đuợc lồng trong các bà lão nếu không quê mùa thì cũng không có vốn liếng kiến thức và không có trình độ học vấn bao nhiêu. Bà mẹ củaNam là một nhân vật đặc biệt mà ngay phần đầu câu chuyện tác giả Anh Vân đã giới thiệu là bà thích đọc sách. Cho nên gặp một bà già như thế trong Ác Mộng Đêm Dài  chúng ta không bỡ ngỡ. Kiến thức của bà không phải chỉ nhặt nhạnh ở sách vở mà còn ở kinh nghiệm sống dồi dào của bà nữa. Bà còn làm cho chúng ta lạnh xương sống hơn nữa khi khuyên Nam trước khi đi học tập cải tạo:
Nam hỏi:
-- Sao mẹ lo lắng như vậy? Thông cáo đã nói rõ ràng là chuẩn bị đồ ăn
trong mười ngày.
Mẹ Nam thở dài:
-- Nếu được như vậy là điều may mắn.
-- Mẹ có vẻ không tin.
Mẹ Nam nghiêm mặt:
-- Mẹ đã dặn các con bao nhiều lần, những gì người cộng sản nói thì không nên tin. Con lại quên lời mẹ dặn rồi.
-- Họ đã ra thông cáo và người dân đã nghe rõ thông cáo đó. Chẳng lẽ, họ dám nói láo hay sao?
-- Chuyện gì họ cũng dám làm miễn có lợi cho họ.
Nhìn sắc mặt có nét giận của mẹ, Nam không dám nói thêm.
Giọng mẹ Nam dịu dàng hơn:
-- Dù không tin thì mình không biết phải làm sao nhưng nhớ, trong tù, họ sẽ kêu
con khai lý lịch và những việc làm của con trong quân đội. Con đã khai gì, phải nhớ ghi lại để khai lần sau cho giống. Nhớ khai trong bản lý lịch, hai người anh của con đi tập kết vào năm 1954. Họ sẽ bắt các con khai đi khai lại nhiều lần để xem những lời khai có mâu thuẫn không. Phải dùng cái khôn ngoan của mình đối phó với kẻ thù. Phải nhớ lần đầu tiên, con khai những gì thì lần thứ hai cũng chỉ có thế. Nếu mỗi lần khai, con thêm một số chi tiết thì họ cứ bắt con phải khai hoài để tìm hiểu thêm những việc con đã làm. Chuyện gì giấu được thì cứ giấu. Thà họ chụp tay mình còng chớ đừng tự ý đua tay cho kẻ thù còng. Con nhớ chưa?
(các trang 161, 162)
Có thể mẹ của Nam nhờ đọc hồi ký của các tù nhân chánh trị dưới chế độ Cộng Sản nên có sự hiểu biết sâu rộng như thế. Nam quả thật có một bà mẹ tuyệt vời. Bà là ngọn đuốc soi sáng cho Nam đi trên con đường yêu nước, soi cho Nam nhận diện bộ mặt tàn ác nhưng luôn giả nhân giả nghĩa của Cộng Sản. Nhưng tiếc thay vì còn ở trong vòng phong tỏa của Cộng Sản nên bà không soi được cái trí trá của bè lũ con buôn chính trị bên phía Quốc Gia của chúng ta ở hải ngoại.
Riêng bà Ngởi, mẹ của Vinh và Hiền có học lực cao hơn mẹ của Nam, nhưng không có nhận định sâu sắc như mẹ của Nam. Hoàn cảnh và tâm sự của bà lại có chỗ ngắc ngoéo, éo le. Bà có người yêu tên Ngân theo phe Việt Minh chống Tây. Đương sự hoạt động ở thành phố, bị Tây bắt đưa về bót Catinat tra khảo cho đến chết. Do đó bà ghét Tây, ghét luôn Mỹ và phe Quóc Gia. Bà nghiêng cảm tình về  phe Việt Cộng vốn là thối thân của phe Việt Minh. Bà kết hôn với Thiếu Tá Nghiêm (thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa), cha của Vinh và Hiền để có chỗ che chở. Hôn nhân không có tình yêu làm bà thất vọng. Cho nên bà ham tiền, làm đủ mọi cách để có tiền, dù phải lén lút làm ăn với bọn Cộng Sản để bán đứng Miền Nam Việt Nam đi nữa. Lỗ hổng tâm lý của bà phải có tiền trám đầy mới tạo cho bà sự thăng bằng. Sau ngày 30/4/1975, lúc đầu bà chạy theo chánh thể mới để bảo vệ tài sản của mình. Nhưng sau bao lần chứng kiến cái cách cướp nhà đoạt của do các cán bộ miền Bắc lộng hành, bà bắt đầu suy nghĩ và đặt lại vấn đề. Cái chết của Vinh làm cho bà khám phá một sự thật đau lòng: người con trai yêu quý của bà muốn chuộc lại lỗi lầm của bà nên hy sinh dấn thân vào tổ chức kháng chiến chống bạo quyền, không ngại hiểm nguy đến sinh mệnh.
Với hành động đốt nhà của mình rồi tự thiêu luôn, bà Ngởi chứng tỏ sự phản kháng của mình là cách phản kháng song đôi, tiêu cực và tích cực, chủ động lẫn thụ động. Trong truyện, sau khi phục rượu cho bọn công an say như chết, bà nổi lửa tự thiêu, nhưng tác giả không nói rõ bọn công an có thoát khỏi biển lửa hay không? Nhưng người đọc tin rằng, men rượu cực mạnh làm cho tứ chi bọn chúng rũ liệt, nếu  chúng không biến thành tro than thì cũng  bị quay bị nướng như lợn như gà.
Sau đây là tâm sự của bà Ngởi vào đêm cuối đời của bà:
Cái chết của đứa con thương yêu vẫn còn rỉ máu trong tim bà. Nhu cầu tình cảm hiện giờ của bà là hai đứa con, nay chúng đã bỏ ra đi thì bà cần gì nữa? Sợ gì nữa? Trong đời sống, điều làm nguời ta sợ hãi là sự chết, nhưng với bà bây giờ cái chết không còn làm bà sợ thì bà sợ gì mấy thằng trong Ủy Ban Hành Chánh. Cái chết đối với bà là lối thoát êm đẹp nhứt, một mơ ước quái đản mà bà đã nghĩ ngợi tới luôn và bà đã chuẩn bị tất cả cho bà. Sở dĩ bà vẫn còn nấn ná đến ngày hôm nay cũng chỉ để chờ tin tức Hiền, xem con bà đã đến bến bờ tự do chưa để bà yên tâm ra đi. Bây giờ tình thế bắt buộc phải đi sớm hơn dự định thì đi, có gì mà sợ. Biết đâu trong cõi thiên thu đó, bà sẽ gặp lại Vinh, đứa con trai thương yêu của bà và biết đâu trong cõi sống không thù hận đó, con bà sẽ tha thứ cho bà.
Đến lúc tuổi già, bao nhiêu bất hạnh xảy đến, bà mới hối hận là trong quá khứ, bà đã sống với quan niệm sai lầm, coi tiền bạc mới là điều đáng kể. Bà đã không ngần ngại gây ra bao tội lỗi với chồng con, với đất nước. Những ngày tháng cuối đời, bà đã ý thức được điều đó nên chẳng còn tha thiết gì đến sản nghiệp nầy và cũng lần đầu tiên trong đời bà cảm thấy hối tiếc về những chuyện đã làm. Bà muốn quay về với Chúa một lần nữa, nhưng chiếc cầu liên lạc giữa bà và Chúa đã gảy.
Thuở trẻ, nhiều lần bà đứng cầu nguyện trong Hội Thánh, xưng mọi tội lỗi ra với Cha để được thảnh thơi vì tin rằng tội lỗi đã được tha. Bà muốn được trong sạch, không một vết nhơ tội lỗi nào để được giống như Chúa, nhưng đồng tiền đã đẩy bà xa cách Chúa. Bà đã có một thứ thần tượng khác để tôn thờ. Đó là tiền! Là Tiền! Đồng tiền là tất cả. Bà đã không ngần ngại tiếp tay với kẻ thù để đặt một thứ chủ nghĩa phi nhân lên đầu lên cổ đồng bào bà, cái thứ chủ nghĩa coi mạng sống con người như rơm rác và đang biến đồng bào bà thành những con người không có trái tim. Bà từng chuyển vũ khí, thuốc tây trên đường thủy bằng những chiếc thuyền bán hàng bông trên sông. Bà đã từng tổ chức những đám tang mà trong quan tài không có người chết, chỉ chứa vũ khí và thuốc tây rồi ban đêm kẻ thù đến đào mang lấy về. Trong lúc tiền bạc tuôn vào như nước, bà say tiền, không nhìn thấy tội lỗi. Càng ngày bà càng đi sâu vào tội lỗi hơn.
(các trang 479, 480, 481)
°
°
Có thể bảo ngòi bút của Anh Vân làm một cuộc viễn du hào hứng qua bốn giai đoạn lịch sử: ngày tàn của Miền Nam Việt Nam, giai đoạn đầu của nền cai trị độc ác của bọn giặc đỏ sau khi cưỡng chiếm miền Nam, giai đoạn nhục nhằn khốn khổ của những kẻ vượt biên phải trả giá tự do rất đắt. Và sau hết là sinh hoạt của lũ mị dân và của những kiều bào nhiệt tâm yêu nước ở hải ngoại.
Đa số những nhà văn có tâm huyết thường đem tâm tình viết lịch sử. Sử gia thì chỉ có việc ghi chép mọi lớp sóng phế hưng của lịch sử dân tộc sao cho trung thực, cho chính xác. Thỉnh thoảng, họ phê phán các chính sách của các triều đại, của các chế độ, phê phán hành động của các nhân vật lịch sử, chứ không dám đá động tới nhân sinh quan, cảm nghĩ của các nhân vật lịch sử đó. Còn nhà văn thì dùng một giai đoạn lịch sử nào đó để làm đề tài cho tác phẩm của mình.  Họ có quyền sửa đổi chút ít hành động của các nhân vật lịch sử mà họ dùng làm nhân vật cho tác phẩm mình.  Họ có quyền thêm thắt vai nhân vật giả tưởng có liên quan tới các nhân vật lịch sử để đôi bên cùng hoạt động hay tương tranh trên các ván cờ lịch sử. Và để tác phẩm tươi mát hoặc ướt át sương mưa trữ tình lãng mạn, tác giả lịch sử tiểu thuyết có thể nặn ra những giai nhân tưởng tượng để cho họ bắt liên hệ cùng nhân vật anh hùng dân tộc. Đó là trường hợp Lan Khai đã cấu tạo cô nàng nữ hiệp giả trai mặc áo xanh để bắt tình với Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ trong quyển Chàng Áo Xanh.  Nữ sĩ Kathleen Windsor trong quyển Ambre  đã tạo ra nàng Ambre sắc nước hương trời để dan díu với vua George Đệ Nhị nước Anh. Tác giả cuốn Phản Đường hay tác giả quyển dâm thư Như Ý Quân  đã tạo ra chàng Tiết Ngao Tào với tài sành điệu trong thú gối chăn để làm thỏa mãn tình dục cho Nữ Hoàng Vũ Tắc Thiên... 
Ác Mộng Đêm Dài  nếu trình làng trước đây 15 năm là một cuốn tiểu thuyết hiện thực phản ảnh sinh hoạt các cộng động kiều bào ở hải ngoại. Bây giờ nó trở thành một cuốn  dả sử tiểu thuyết  với các nhân vật hư cấu chường mặt ra sân khấu cuộc đời, còn những nhân vật có thật như Hoàng Cơ Minh và bè lũ của mặt trận chỉ được xuất hiện trên những dòng thuyết thoại đơn sơ và gảy gọn... Hay đúng ra đây là quyển tiểu thuyết hiện thực lấy bốn giai đoạn lịch sử khác nhau để dựng nên bối cảnh khác nhau trong bốn giai đoạn thời gian kế tiếp nhau.
Tác giả Anh Vân viết tác phẩm Ác Mộng Đêm Dài  bằng nước mắt, bằng trái tim thành khẩn. Anh như nhập vào mỗi nhân vật và đồng hóa với họ để cảm xúc, để tư duy theo mệnh nước nổi trôi, theo sự tráo trở của bọn người giả danh đi làm lịch sử bằng cách buôn người ái quốc, bằng cách hủy diệt truyền thống tin yêu của dân tộc. Đây cũng la bản cáo trạng đen, một bản tường trình đẫm máu để chúng ta suy gẫm, để những thế hệ mai sau nắm vững sự thật đau lòng về những kẻ trưởng thành từ cuộc nội chiến Quốc Cộng cho đến khi họ thoát ly địa ngục Cộng Sản để dịnh cư ở hải ngoại. Và tác phẩm còn cho chúng ta thấy tác giả  là một kẻ yêu đương nồng nhiệt thiết thành  khi anh hóa thân nhập cuộc vào các nhân vật xương sống trong tác phẩm như Nam, Sử, Hiền và Lan, làm cho tác phẩm đa dạng tình người và tươi mát mạch sống. Ngoài ra, anh còn chứng tỏ mình là một tác giả  ưu tư với căn phần thê thảm của tổ quốc qua hành động và nếp tư duy của các nhân vật ấy.
--!!tach_noi_dung!!--

Sưu tầm: Thanh Vân
Nguồn: http://namkyluctinh.org
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 8 tháng 5 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--