Arthur trải qua gần 3 tuần lễ ở thư viện thành phố, một toà nhà nghiêm nghị theo phong cách cổ điển mới, được xây dựng vào hồi đầu thế kỷ, ở đó trong hàng chục gian phòng với mái vòm uy nghi, ngự trị một bầu không khí khác hẳn so với những chỗ giống như thế. Người ta thường gặp ở nơi này, trong những phòng chứa tư liệu của thành phố, những giới thượng lưu của San Fransisco bên cạnh những chàng “hippi” cũ giờ đã hoàn tục, họ trao đổi với nhau những câu chuyện tiếu lâm, những ý kiến thống nhất và những điểm bất đồng về các vấn đề của thành phố. Ghi tên vào phòng số 27, nơi tập trung những tác phẩm y khoa, ngồi ở dãy dố 48, bên cạnh những tài liệu về thần kinh học, Arthur ngốn ngấu trong vài ngày hàng nghìn trang sách về hôn mê, về sự mất ý thức và chấn thương sọ não. Nếu như việc đọc đã làm cho anh hiểu rõ hơn về tình trạng của Lauren thì vẫn không có gì làm cho anh tiếp cận được với cách giải quyết vấn đề đang đặt ra cho anh. Khép mỗi tài liệu lại, anh hy vọng sẽ tìm thấy một ý tưởng trong tài liệu sau. Sáng nào anh cũng có mặt vào lúc mở cửa thư viện, ngồi vào bàn với những chồng sách và miệt mài với những “bài tập” của mình. Đôi khi anh ngừng công việc nửa chừng, rời bàn đọc đến một máy vi tính để gửi các bức thư đầy những câu hỏi cho các giáo sư y học nổi tiếng. Có một vài người trả lời anh, đôi khi họ tỏ ra rất tò mò về mục đích nghiên cứu của anh. Sau đó anh lại về chỗ ngồi của mình và tiếp tục đọc. Anh tạm nghỉ một chút để ăn trưa ở nhà ăn, đem theo các tạp chí về chính những đề tài này, và anh kết thúc ngày làm việc của mình vào quãng hai mươi hai giờ, lúc thư viện đóng cửa. Tối khuya, anh về gặp lại Lauren và vừa ăn tối vừa kể cho cô nghe về những nghiên cứu trong ngày của anh. Những cuộc tranh luận thực sự bùng ra khi cô rút cục quên bẵng rằng anh không phải sinh viên y khoa. Anh làm cho cô ngạc nhiên bởi tốc độ nhanh chóng của anh trong việc nắm vững những thuật ngữ y học. Những lập luận và những ý kiến trái ngược nối tiếp nhau, đối lập nhau thường xuyên đến tận lúc đêm khuya và đến khi người đã mệt lử. Sáng sớm, vừa ăn sáng anh vừa nói với cô về phương hướng nghiên cứu mà anh dự định thực hiện trong ngày. Anh không cho cô đi theo anh, sợ cô làm anh mất tập trung. Nếu như Arthur không bao giờ tỏ ra nản chí trước mặt cô, nếu như những lời nói của anh luôn luôn tràn đầy lạc quan, thì sự yên lặng bao giờ cũng làm cho họ cảm thấy rằng họ sẽ không thành công. Một ngày thứ sáu kết thúc tuần lễ nghiên cứu thứ ba của anh, anh rời thư viện sớm hơn thường lệ. Ngồi vào ôtô, anh bật đài to hết cỡ để nghe một bản nhạc của Barry White. Một nụ cười hiện ra trên môi anh, anh rẽ ngoặt đột ngột sang California Street và dừng lại mua vài thứ. Hôm nay anh không khám phá ra được điều gì đặc biệt cả, nhưng tự dưng cảm thấy muốn có một bữa ăn liên hoan buổi tối. Anh quyết định khi về nhà sẽ bày bàn ăn, thắp nến và làm cho cả căn nhà tràn đầy tiếng nhạc, anh sẽ mời Lauren khiêu vũ, và sẽ cấm tiệt mọi cuộc nói chuyện về y học. Khi ánh hoàng hôn lộng lẫy bắt đầu rọi lên trên vịnh, anh đỗ xe trước cửa ngôi nhà nhỏ theo phong cách thời Victoria ở Green Street. Anh nhún nhảy đi lên cầu thang, làm vài động tác tung hứng để cho chìa khoá vào ổ khoá và bước vào phòng, hai tay đầy các gói đồ. Anh dùng chân đẩy cửa và đặt tất cả các túi lên trên bàn bếp. Lauren ngồi trên bệ cửa sổ. Lặng lẽ ngắm cảnh, cô thậm chí không buồn quay đầu lại. Arthur gọi cô bằng một giọng trêu chọc. Rõ ràng cô đang ở trong một tâm trạng buồn bực, cô vụt biến mất ngay lập tức. Arthur nghe thấy tiếng cô lầm bầm trong phòng trong:” Có việc đóng cái cánh cửa mà mình cũng không thể làm được nữa cơ chứ!” - Em có chuyện gì à?- anh kêu lên - Để cho em yên! Arthur cởi áo măng tô và vội vã đi về phía cô. Khi anh mở cửa phòng, anh nhìn thấy cô đứng dán người vào tủ kính, tay ôm đầu......... - Em khóc sao? - Em không có nước mắt, sao anh lại bảo là em khóc được? - Em khóc! Có chuyện gì vậy? - Không, chả có chuyện gì hết. Anh nhìn vào mắt cô dò hỏi nhưng cô xin anh để mặc cô. Nhẹ nhàng tiến lại gần, anh vòng tay ôm cô, xoay cô lại để nhìn thấy gương mặt cô. Cô cúi đầu xuống, anh dùng ngón tay nâng cằm cô lên. - Có chuyện gì vậy? - Họ sắp chấm dứt rồi! - Ai sắp chấm dứt và chấm dứt cái gì? - Sáng nay em đến bệnh viện, mẹ em có ở đó. Người ta đã thuyết phục mẹ em đồng ý tiến hành euthanasie (biện pháp gây chết người không đau, áp dụng trong một số trường hợp bệnh kéo dài vô phương cứu chữa) - Chuyện này là cái gì vậy? Ai đã thuyết phục ai làm chuyện đó? Mẹ Lauren đến bệnh viện Memorial như mọi buổi sáng thường lệ. Có ba bác sĩ đợi bà bên giường bệnh. Khi bà bước vào trong phòng, một trong ba bác sĩ, một phụ nữ đứng tuổi, đi về phía bà, xin được nói chuyện riêng với bà. Bác sĩ tâm lý được uỷ nhiệm bèn cầm tay bà Kline và mời bà ngồi xuống. Thế là bắt đầu một bản thuyết trình dài trong đó mọi lý lẽ được trưng hết cả ra nhằm thuyết phục mẹ Lauren chấp nhận cái không thể chấp nhận được. Lauren chỉ còn là một cơ thể không có linh hồn mà gia đình cô nuôi dưỡng với một giá quá mức đối với xã hội. Duy trì một người thân trong cuộc sống nhân tạo quả là dễ hơn chấp nhận cái chết, nhưng mà với giá thế nào? Cần phải chấp nhận cái không thể chấp nhận và quyết định, không nên có bất cứ mặc cảm tội lỗi gì. Mọi cách đều đã thử cả rồi. Không có cái gì là hèn nhát ở đây. Cần phải dũng cảm thừa nhận điều đó. Bác sĩ Clomb nhấn mạnh sự phụ thuộc mà bà Kline phải chịu đối với cơ thể của con gái bà. Hoàn toàn mất tự chủ, bà Kline lắc đầu tỏ ý kiên quyết từ chối. Bà không thể và không muốn làm điều đó. Từng phút, từng phút một, những lý lẽ của nhà tâm lý học sau nhiều lần vòng vo xa gần đã làm giảm dần đi cảm xúc để nhường chỗ cho một quyết định hợp lý và nhân đạo, bằng cách chứng minh với một thuật hùng biện tinh tế rằng từ chối việc làm này là bất công, tàn nhẫn đối với bà, và đối với những người thân của bà thì là ích kỷ, không lành mạnh. Kết cục sự hồ nghi bắt đầu xuất hiện. Một cách hết sức tế nhị, với những lý lẽ còn sắc sảo hơn nữa, những từ ngữ tinh tế hơn và gây mặc cảm tội lỗi hơn được tung ra rất nhẹ nhàng. Chỗ mà con gái bà hiện đang giữ trong khoa hồi sức có thể ngăn cản một bệnh nhân khác được cứu sống, một gia đình khác được có những hy vọng có cơ sở. Mặc cảm tội lỗi này được thay bằng mặc cảm tội lỗi khác... và thế là mối hồ nghi thắng thế. Lauren tham dự vào vở kịch này, khiếp sợ, nhìn thấy lòng quyết tâm của mẹ mình tiêu tan dần. Sau bốn tiếng đồng hồ trò chuyện, sự kháng cự của bà Kline tan vỡ hẳn, bà thừa nhận trong nước mắt những lý lẽ có căn cứ của các bác sĩ. Bà chấp nhận việc dự kiến tiến hành euthanasie đối với con gái bà. Điều kiện duy nhất mà bà đặt ra, yêu cầu duy nhất của bà là đợi thêm bốn ngày nữa, “để tin chắc”. Hôm đó là thứ năm, vậy không được làm gì trước thứ hai cả. Bà cần phải chuẩn bị cho mình và cho những người thân. Thương cảm, các bác sĩ gật đầu, tỏ ra hoàn toàn thấu hiểu, che giấu sự thoả mãn hết sức của họ vì đã tìm được ở một người mẹ giải pháp cho một vấn đề mà cả ngành khoa học của họ không thể giải quyết nổi: làm gì đối với một người không chết không sống? Hyppocrate đã không dự kiến được rằng y học sẽ có ngày gây ra một thảm kịch kiểu này. Các bác sĩ rời căn phòng, để lại bà một mình với con gái. Bà cầm tay cô, úp đầu vào bụng cô và vừa khóc vừa xin cô tha thứ. “ Mẹ không thể làm gì được nữa, con yêu của mẹ, con gái bé bỏng của mẹ. Mẹ muốn ở chỗ của con.” Từ một góc phòng, Lauren lặng nhìn mẹ, lòng trĩu nặng một cảm giác lẫn lộn vừa sợ vừa buồn, vừa ghê rợn. Rồi cô đi đến ôm vai mẹ nhưng bà không cảm thấy gì cả. Trong thang máy, bác sĩ Clomb nói chuyện với các đồng nghiệp của mình, lấy làm mừng rỡ. - Nhỡ đâu bà ấy thay đổi ý kiến thì sao?- Fernstein hỏi. - Không, tôi không nghĩ như thế, vả lại nếu cần thì ta lại nói chuyện với bà ấy. Lauren rời mẹ và cơ thể của chính mình, để 2 người lại với nhau. Bảo rằng cô lang thang như một hồn ma cũng không phải là oan. Cô trở về bậu cửa sổ, quyết định chìm đắm vào tất cả những ánh sáng, tất cả những khung cảnh, tất cả những hương vị và tất cả những âm thanh của thành phố. Arthur kéo cô vào vòng tay anh, ôm quanh người cô một cách hết sức dịu dàng - Dù em khóc, em vẫn cứ xinh. Lau nước mắt đi, anh sẽ ngăn chặn họ. - Bằng cách nào? – cô hỏi - Để anh suy nghĩ một vài tiếng đã. Cô rời khỏi anh và trở lại bên cửa sổ - Có ích gì!- cô vừa nói vừa đăm đăm nhìn vào ngọn đèn đường – Có lẽ như vậy lại tốt hơn, có lẽ chính họ có lý. - “Như vậy lại tốt hơn” có nghĩa là gì? Câu hỏi của anh, được đặt ra với một giuọng hung hăng, không hề có âm. Thường ngày rất mạnh mẽ, cô trở nên nhẫn nhục. Nếu nhìn thẳng vào sự thực, thì cô chỉ có nửa cuộc sống, cô huỷ hoại cuộc sống của mẹ cô, và cứ như cô nói thì “ chả có ai chờ đợi cô khi ra khỏi đường hầm”. “ Nếu như em tỉnh dậy...mà không có điều gì ít chắc chắn hơn thế cả.” - Ấy là tại vì em tin, dù chỉ trong một khoảnh khắc, rằng mẹ em sẽ nhẹ nhõm hơn nếu như em chết đi vĩnh viễn. - Anh thật là dễ thương- cô ngắt lời anh - Anh đã nói gì thế nhỉ? - Không có gì đâu, cái câu “chết đi vĩnh viễn” của anh khiến em cảm thấy dễ thương thôi, nhất là trong tình huống hiện nay. - Em có tin là mẹ em sẽ lấp được khoảng trống mà em để lại không? Em nghĩ rằng điều tốt nhất cho mẹ em là em bỏ cuộc à? Thế còn anh thì sao? Cô nhìn anh chăm chú, vẻ dò hỏi - Anh cái gì? - Anh sẽ đợi em khi em tỉnh dậy, với mắt người khác thì em là vô hình, nhưng với mắt anh thì không phải vậy. - Đó có phải là một lời tỏ tình không? Cô bắt đầu trở nên ranh mãnh. - Em đừng có tự mãn – anh trả lời một cách khô khan. - Tại sao anh làm tất cả những việc này?- cô nói gần như tức giận. - Tại sao em lại khiêu khích và gây gổ thế? - Tại sao anh lại cứ ở đây, xung quanh em, loanh quanh luẩn quẩn, bỏ công sức vì em? Có cái gì không ổn trong đầu anh / Cô hét lên. - Động cơ của anh là gì? - Em đang trở thành độc ác rồi đấy! - Vậy thì trả lời đi, trả lời một cách thành thực! - Ngồi xuống cạnh anh đi và bình tĩnh lại nào. Anh sẽ kể cho em nghe một câu chuyện có thật, rồi em sẽ hiểu. Một hôm có bữa ăn tối ở nhà anh, gần Carmel. Lúc đó anh nhiều nhất là bảy tuổi thôi... Arthur thuật lại cho cô câu chuyện do một người bạn cũ của bố mẹ anh kể trong một ăn tối mà anh được mời đến. Bác sĩ Miller là một nhà phẫu thuật nhãn khoa nổi tiếng. Tối hôm ấy ông có vẻ kỳ lạ, dường như bối rối hay rụt rè, điều này hoàn toàn không giống với ông. Đến nỗi mẹ Arthur phải lo lắng và hỏi xem ông có chuyện gì vậy. Ông đã kể lại câu chuyện sau. Mười lăm ngày trước, ông đã mổ cho một cô bé bị mù bẩm sinh. Em không biết trông em như thế nào, không hiểu bầu trời là gì, không biết các màu sắc và không biết cả gương mặt của mẹ em. Thế giới bên ngoài đối với em lạ lẫm, chưa từng có hình ảnh nào lọt được vào trong óc em. Em đã dò đoán những hình dạng và những đường viền suốt đời em, nhưng không thể liên hệ được một hình ảnh nào với cái mà tay em kể lại. Thế rồi Coco, đó là biệt hiệu mà tất cả mọi người dùng để gọi bác sĩ, đã thực hiện một ca mổ “ không thể được, làm một thử nghiệm tối đa để đạt cái tối đa. Buổi sáng trước bữa ăn tối ở nhà cha mẹ Arthur, một mình trong phòng với cô bé, ông đã tháo băng cho em. - Cháu sẽ bắt đầu nhìn thấy một cái gì đó trước khi bác tháo băng xong cho cháu. Chuẩn bị tinh thần đi! - Cháu sẽ nhìn thấy cái gì cơ?- cô bé hỏi. - Bác đã giải thích cho cháu rồi đấy, cháu sẽ nhìn thấy ánh sáng. - Nhưng mà ánh sáng là gì? - Là cuộc sống, đợi một tí đã... Và như ông đã hứa, một vài giây sau ánh sáng ban ngày tràn vào mắt cô bé. Nó ào đến dồn dập xuyên qua hai đồng tử nhanh hơn một dòng sông được giải phóng khỏi một đập chắn vừa bị vỡ, vượt qua hai thuỷ tinh thể với tốc độ nhanh nhất và đến đặt vào đáy mắt hàng tỉ thông tin mà nó chuyển tải. Được kích thích lần đầu tiên kể từ khi cô bé chào đời, hàng triệu tế bào võng mạc ở mắt em trở nên náo động, gây ra phản ứng hoá học của một phức hợp tuyệt vời, nhằm mã hoá những hình ảnh được in vào võng mạc. Mật mã được truyền ngay lập tức đến hai dây thần kinh thị giác vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài, chúng vội vã chuyển cái lưu lượng đầy ắp dữ liệu này đến não. Chỉ trong chừng vài phần nghìn giây, bộ não đã giải mã xong mọi dữ liệu nhận được, tái tạo chúng thành những hình ảnh linh hoạt, dành cho nhận thức nhiệm vụ liên kết và diên giải những hình ảnh này. Bộ phận vi xử lý hình ảnh cổ nhất, phức tạp nhất và tinh xảo nhất thế giới vừa mới được đột ngột nối vào một bộ phận quang học và bắt đầu vận hành. Cô bé, vừa sốt ruột vừa sợ hãi, túm lấy tay Coco và bảo ông: “Khoan đã, cháu sợ.” Ông dừng lại một chút, lấy tay ôm cô bé và nói lại cho em nghe lần nữa về những điều sẽ xảy ra khi ông tháo hết băng. Đối với em, đó là hàng trăm thông tin mới để tiếp thu, để hiểu, để so sánh với tất cả những cái mà trí tưởng tượng của em đã tạo ra. Coco lại tiếp tục tháo băng. Khi mở mắt, cái đầu tiên mà em nhìn chính là đôi tay mình; em quay đi quay lại đôi tay như quay những con rối. Rồi em nghiêng đầu, mỉm cười, cười thành tiếng và khóc nữa, mắt vẫn không thể rời khỏi mười ngón tay mình, cứ như là để lẩn tránh tất cả mọi thứ xung quanh em, những thứ đã trở thành hiện thực, bởi vì hẳn là em đang sợ hãi. Sau đó em hướng cái nhìn vào con búp bê của mình, cái hình thù bằng vải đã ở bên em trong những đêm và những ngày dày đặc bóng tối của em. Ở đầu bên kia của gian phòng rộng thênh thang này, mẹ em bước vào mà không nói một lời. Cô bé ngẩng đầu lên và nhìn mẹ chăm chú trong vài giây. Em chưa từng nhìn thấy mẹ bao giờ cả. Vậy mà, khi người phụ nữ ấy chỉ còn cách em có vài mét thì nét mặt em bé thay đổi. Chỉ trong tích tắc, gương mặt ấy trở nên như một bé thơ, em dang rông hay cánh tay và không chút do dự gọi người “ không quen biết” này là mẹ. Khi Coco kể xong câu chuyện này, anh hiểu rằng từ nay trong cuộc đời ông, ông đã có một nguồn sức mạnh lớn lao, ông có thể tự nhủ rằng mình đã làm được một cái gì quan trọng. Em cứ việc nói cho đơn giản là điều mà anh làm cho em, đó là để tưởng nhớ đến Coco Miller. Còn bây giờ nếu em đã bình tĩnh lại, em phải để cho anh suy nghĩ. Lauren không nói gì, cô lẩm bẩm điều gì đó mà không ai có thể nghe được. Arthur ngồi vào đi văng và bắt đầu gặm mẩu bút chì mà anh vớ được trên cái bàn thấp. Anh ngồi như vậy hàng phút dài, sau đó anh đứng phắt dậy, đi đến ngồi vào bàn làm việc và bắt đầu viết ngoay ngoáy trên một tờ giấy. anh làm việc mất gần một tiếng đồng hồ, trong thời gian đó Lauren nhìn anh như một con mèo đang quan sát con ruồi hay con bướm một cách kỹ càng. Cô nghiêng đầu, bĩu môi vẻ tò mò trước mỗi cử chỉ của anh, mỗi khi anh bắt tay vào viết hay ngừng lại gặm bút chì. Khi làm xong, anh nói với cô, vẻ rất nghiêm túc. - Ở bệnh viện người ta tiến hành điều trị những gì đối với cơ thể em? - Anh muốn nói ngoài những chăm sóc vệ sinh ấy à? - Đặc biệt là những chăm sóc về mặt y tế. Cô miêu tả cho anh là cô phải nối ống truyền, vì không thể nuôi dưỡng cô bằng cách nào khác được. Mỗi tuần 3 lần người ta tiêm kháng sinh để phòng ngừa. Cô miêu tả việc xoa bóp mà người ta thực hiện ở hông, khuỷu tay, ở đầu gối và vai cô để ngăn chặn những mảng chết hoại. Những việc còn lại là kiểm tra các hằng số và lấy nhiệt độ của cô. Cô không phải dùng máy thở nhân tạo. - Em tự thở được, chính đó là cả vấn đề của họ, nếu không thì họ chỉ có việc tháo máy thôi. Tóm lại, đó gần như là tất cả. - Thế thì tại sao họ lại nói là việc đó đắt đến thế? - Tại vì giường bệnh. Cô giải thích tại sao chỗ nằm trong bệnh viện lại đắt tiền khủng khiếp. Người ta không thật sự phân biệt những loại hình điều trị dành cho bệnh nhân. Người ta dừng lại ở chỗ chia giá thành hoạt động của các khoa theo số giường bệnh mà các khoa này có và theo số ngày trong năm mà các giường đó có người nằm; bằng cách ấy họ tính được giá thành một ngày nằm bệnh viện ở mỗi khoa, khoa thần kinh, khoa hồi sức, khoa chỉnh hình... - Có thể chúng ta sẽ giải quyểt được cả vấn đề của ta lẫn vấn đề của họ cùng một lúc – Arthur khẳng định. - Anh có ý gỉ? - Em đã từng chăm sóc những bệnh nhân trong tình trạng giống em chưa? Cô đã làm việc này đối với những bệnh nhân được nhận vào khoa cấp cứu, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi, chưa bao giờ trong trường hợp nằm viện dài hạn cả. “ Nhưng nếu em phải làm thì sao?” Cô cho rằng điều ấy không đặt ra vấn đề gì đối với cô, đó gần như là một công việc thuộc trách nhiệm của y tá, chỉ trừ trường hợp có biến chứng bất ngờ. “ Vậy tức là em biết cách làm?” Cô không hiểu anh muốn dẫn đến chuyện gì. - Truyền thuốc có phải là một công việc phức tạp lắm không?- anh hỏi gặng. - Về mặt gì? - Về mặt kiếm các vật dụng, ta có thể mua ở hiệu thuốc được không? - Ở hiệu thuốc của bệnh viện thì được. - Ở hiệu thuốc công cộng thì không được à? Cô suy nghĩ vài giây rồi bảo là được, người ta có thể mua glucoza, thuốc chống đông tụ, huyết thanh và pha lẫn vào nhau để truyền cho người bệnh. Như vậy là việc đó có thể làm được. Hơn nữa, các bệnh nhân điều trị tại nhà cũng thuê y tá truyền thuốc cho, những y tá này thường đặt mua các thứ ở một hiệu thuốc trung tâm. - Anh phải gọi điện cho Paul ngay bây giờ - anh nói - Để làm gì? - Để lấy xe cứu thương. - Xe cứu thương nào? Anh có ý gì thế? Em có thể biết thêm được không? - Bọn mình sẽ bắt cóc em. Không có người thì cũng không có euthanasie! - Anh điên hẳn rồi. - Không đến nỗi thế đâu. - Làm sao mà bắt cóc được em? Bọn mình sẽ giấu cơ thể em ở đâu? Rồi ai sẽ chăm sóc? - Từ từ từng câu hỏi một chứ! Chính cô sẽ chăm sóc thân thể cô, cô đã có kinh nghiệm rồi. Chỉ còn phải tìm cách để kiếm những thứ để truyền vào người, nhưng nghe ra thì việc đó không phải là không thể làm được. Có lẽ thỉnh thoảng phải thay đổi hiệu thuốc để khỏi bị chú ý quá thôi. - Lấy đơn thuốc ở đâu ra?- cô hỏi - Chuyện này thuộc về phần đầu câu hỏi của em: làm thế nào? - Vậy anh định sao? Bố dượng Paul là thợ đóng thùng xe, chuyên sửa chữa các loại xe cứu viện: cứu hỏa, cảnh sát, cứu thương. Họ sẽ mượn một cái xe “cứu thương”, xoáy vài cái áo blu, và họ sẽ đến đón cô để chuyển bệnh viện. Lauren bật cười, vẻ kích động “ Nhưng chuyện này đâu có diễn ra như vậy!” Cô lưu ý anh rằng người ta khong vào một bệnh viện như đi siêu thị. Để tiến hành chuyển viện, “chuyển giai đoạn hai” theo biệt ngữ của giới y tế, thì cần phải làm một lô thủ tục hành chính. Cần phải có giấy đồng ý nhập viện của nơi cần đến, giấy cho phép xuất viện có chữ ký của bác sĩ điều trị, phiếu di chuyển của công ty xe cứu thương, kèm theo một thư đi đường miêu tả rõ cách thức vận chuyển. - Chính ở chỗ này mà em phải vào cuộc, Lauren, em sẽ giúp anh kiếm những giấy tờ đó. - Nhưng em không thể làm được, em không thể cầm, cũng không thể dịch chuyển được bất cứ cái gì. - Nhưng em biết những thứ đó ở đâu chứ? - Biết, nhưng vậy thì sao? - Vậy thì anh sẽ là người cuỗm những thứ đó. Em biết những mẫu giấy tờ in sẵn này chứ? - Tất nhiên là biết, ngày nào mà em chả phải ký loại giấy này, nhất là trong khoa cấp cứu của em. Cô miêu tả cho anh các giấy tờ này. Đó là những mẫu in kiểu bản kê khai, trên nền giấy trắng, hồng, xanh, ở đầu giấy có in tên và biểu tượng của bệnh viện hay công ty xe cứu thương. - Vậy ta sẽ sao lại những giấy tờ đó. Em đi theo anh. Arthur lấy áo khoác, chìa khoá, anh như người ở trong trạng thái lạc ý thức, với một sự kiên quyết đến mức khiến cho Lauren chẳng còn được mấy hứng thú phản bác lại cái kế hoạch không hiện thực này. Họ ngồi vào ôtô, anh bấm điều khiển từ xa để mở cửa gara, và lái xe ra phố. Đang đêm. Thành phố yên tĩnh, nhưng anh thì trái lại, anh phóng xe vun vút cho đến tận bệnh viện Memorial. Anh lái thẳng vào bãi đậu xe của xe cấp cứu. Lauren đang hỏi anh làm gì vậy, anh trả lời với một nụ cười khẽ trên môi: “ Đi theo anh và đừng có cười!” Khi anh bước qua cánh cửa đầu tiên của khao cấp cứu, anh bèn cúi gập người lại và cứ đi lom khom như thế đến tận bàn thường trực. Cô nhân viên trực hỏi anh bị làm sao. Anh mô tả những cơn co thắt dữ dội phát ra sau bữa ăn tối của anh chừng hai tiếng, nhấn mạnh 2 lần rằng anh đã từng mổ ruột thừa, và từ sau lần đó anh đã từng có những cơn đau không chịu được kiểu này. Cô hộ lý bảo anh nằm xuống băng ca trong lúc chờ đợi một cô hộ lý đến khám cho. Ngồi trên tay vịn của một chiếc ghế có bánh xe lăn, đến lượt Lauren cũng phải bật cười. Arthur đóng kịch rất giỏi, đến bản thân cô cũng còn lo lắng khi thấy anh như sắp xỉu đi ở phòng đợi. - Anh không biết là anh đang làm cái gì đâu – cô thầm thì với anh đúng vào lúc một bác sĩ tới khám cho anh Bác sĩ Spacek xuất hiện và mời anh đi theo vào một trong những gian phòng nằm dọc hành lang, phòng nọ chỉ được ngăn cách với phòng kia bằng một tấm riđô. Bác sĩ bảo anh nằm xuống giường khám bệnh và vừa hỏi về những cơn đau của anh, vừa đọc một tờ giấy trên đó ghi tất cả những thông tin mà người ta hỏi anh lúc ở chỗ thường trực. Ngoại trừ mỗi cái tuổi mà anh trở thành đàn ông là không phải khai, còn thì gần như tất cả mọi điều về anh đều được ghi lại ở đó, không kém gì một cuộc hỏi cung của cảnh sát. Anh tuyên bố rằng có những cơn đau co thắt khủng khiếp. “ Anh bị những cơn co thắt khủng khiếp ấy ở những chỗ nào?”, bác sĩ hỏi. “Khắp bụng”, vì vậy mà anh đau phát điên lên được. “ Đừng có nói quá, - Lauren thì thầm – anh sẽ được hưởng một mũi tiêm an thần, sẽ phải ngủ đêm ở đây, và sáng mai được rửa ruột rồi soi ruột.” - Đừng tiêm!- anh buột miệng thốt lên. - Nhưng tôi có nói là tiêm đâu – Spacek vừa nói vừa ngẩng đầu lên khỏi hồ sơ. - Không, nhưng tôi thấy nên nói ngay thì hơn vì tôi ghét tiêm lắm. Bác sĩ hỏi anh có phải là tạng người dễ bị kích thích không và Arthur gật đầu xác nhận. Bác sĩ sẽ sờ nắn anh và anh sẽ phải chỉ cho bác sĩ chỗ nào đau dữ nhất. Arthur lại gật đầu. Bác sĩ để hai bàn tay, tay nọ chồng tay kia, đặt lên trên bụng Arthur, và bắt đầu khám bệnh. - Anh có đau ở đây không? - Có –anh do dự nói - Còn đây? - Không, anh không muốn đau ở chỗ này đâu- Lauren vừa rỉ tai anh vừa mỉm cười. Arthur chối phắt ngay lập tức là không hề bị đau tí nào ở chỗ mà bác sĩ đang nắn. Cô đã hướng dẫn anh trả lời như vậy trong suốt cuộc khám bệnh. Bác sĩ kết luận là anh bị đau ruột do nguyên nhân thần kinh, cần phải dùng một loại thuốc chống co thắt mà hiệu thuốc của bệnh viện sẽ cấp cho anh khi anh trao cho họ cái đơn thuốc mà bác sĩ vừa thảo xong. Tiếp đó, sau 2 cái bắt tay và 3 lần “ Cảm ơn bác sĩ”, anh nhẹ nhõm đi dọc theo hành lang dẫn tới hiệu thuốc. Anh đã có trong tay ba loại giấy khác nhau, tất cả đều có in tên và biểu tượng của bệnh viện Memorial. Một cái màu xanh, một cái màu hồng, cái thứ ba màu xanh lá cây. Một cái là đơn thuốc, cái thứ hai là hoá đơn thanh toán, còn cái thứ ba là giấy xuất viện, với tiêu đề in bằng chữ to: “Phiếu di chuyển / phiếu xuất viện”, và dòng chữ in nghiêng: “ Gạch những mục không cần thiết”. Anh cười hớn hở, rất hài lòng về mình. Lauren bước bên anh. Anh lấy tay khoác vai cô. “ Dù sao thì tụi mình cũng làm thành một ekip ăn ý đấy chứ nhỉ!” Về đến nhà, anh cho ba tờ giấy vào máy chụp quét ở máy vi tính của anh và chụp lại. Kể từ lúc đó, anh đã có một nguồn dồi dào các mẫu giấy in đủ các màu sắc và các loại, các kiểu giấy tờ chính thức của Memorial. - Anh tài thật đấy –Lauren nói với anh khi cô nhìn thấy những tờ giấy có in tiêu đề đầu tiên chui ra từ chiếc máy in màu. - Một tiếng nữa anh sẽ gọi điện cho Paul – anh trả lời cô. - Trước hết, ta cần nói chuyện một chút về cái kế hoạch của anh đã, Arthur ạ. Cô có lý, anh bảo, cần phải hỏi cô về tất cả mọi điều liên quan đến cách thức tiến hành của một quá trình di chuyển bệnh nhân. Nhưng đó không phải là điều bệnh nhân muốn thảo luận. - Thế thì về việc gì? - Arthur, kế hoạch của anh làm em cảm động, nhưng xin lỗi anh, nó thật không hiện thực, điên rồ và vô cùng nguy hiểm đối với anh. Anh sẽ phải đi tù nếu như anh bị tóm, mà vì cái gì kia chứ, giời ạ! - Vậy đối với em không phải là còn nguy hiểm hơn nhiều nếu như ta không thử làm gì hay sao? Chúng ta chỉ có bốn ngày thôi Lauren! - Anh không thể làm chuyện đó, Arthur, em không có quyền để anh làm như thế. Xin lỗi anh. - Anh biết một cô bạn mà cứ nói một câu là lại kèm một câu xin lỗi, quá đáng đến mức các bạn trai của cô ấy không dám mời cô ấy uống một cốc nước nữa, sợ rằng cô ấy sẽ xin lỗi vì đã khát. - Arthur, đừng làm ra vẻ ngu ngốc, anh biết em muốn nói cái gì, đó là một kế hoạch điên rồ! - Chính tình huống này mới là điên, Lauren! Anh không có cách nào khác. - Còn em, em sẽ không để cho anh nhận lấy những mạo hiểm như vậy vì em. - Lauren, em phải giúp anh, đừng làm anh mất thời gian, chính cuộc sống của em là cái đang bị đe doạ đấy. - Có thể có một giải pháp khác. Arthur chỉ thấy có một cách có thể thay thế được cho kế hoạch của anh, đó là nói chuyện với mẹ của Lauren và thuyết phục bà chấp nhận không làm euthanasie nữa, nhưng cách này thật khó mà thực hiện. Anh chưa bao giờ gặp bà, và chắc gì đã có thể hẹn gặp được. Bà sẽ không nhận lời tiếp một người lạ đâu. Anh có thể tự xưng là bạn thân của con gái bà, nhưng Lauren nghĩ là bà sẽ nghi ngờ, bà biết tất cả những người thân của cô. Anh có thể làm ra vẻ tình cờ gặp bà, ở một nơi mà bà thường đến. Cần phải tìm xem chỗ nào là thuận lợi. Lauren suy nghĩ một lát. - Sáng nào mẹ em cũng dẫn chó đi dạo ở khu Marina – cô nói. - Vậy à, nhưng thế thì anh cũng cần một con chó để dẫn đi dạo. - Tại sao? - Tại vì nếu anh đi với một sợi dây không buộc vào cổ con chó nào cả, anh có thể mất tín nhiệm ngay lập tức. - Anh chỉ cần đi dạo bộ ở Marina mà thôi. Cô cho là ý này khá hấp dẫn. Anh chỉ việc đi bộ dọc khu Marina, vào giờ dạo chơi cảu Kali, mềm lòng trước con chó, vuốt ve nó và cứ thế mà bắt chuyện với mẹ Lauren. Arthur đồng ý thử một phen xem sao, anh sẽ ra chỗ đó vào ngày mai. sáng sớm, Arthur dậy, mặc một chiếc quần vải thô và áo chui cổ. Trước khi ra đi, anh yêu cầu Lauren ôm anh thật chặt. - Anh làm sao vậy? cô nói, vẻ ngượng ngùng. - Chả sao cả, anh không có thời gian giải thích cho em, làm như vậy là để cho con chó đấy. Cô thực hiện, áp đầu lên vai anh và thở dài. “ Tốt lắm rồi,- anh vừa nói bằng một giọng bí ẩn vừa rời khỏi cô – anh biến đây kẻo lỡ không gặp được mẹ em mất.” Anh không đứng lại để chào tạm biệt cô, mà lao vọt ra khỏi nhà. Cửa khép lại và Lauren vừa nhún vai vừa thở dài: “ Anh ấy ôm mình là vì con chó” Khi anh bắt đầu cuộc đi dạo, cầu Golden Gate hãy còn ngủ trong một đám mây xốp như bông. Chỉ có đỉnh hai cột trụ của chiếc cầu đỏ này là nhô ra khỏi lớp sương mù bao bọc của nó. Mặt biển bị giam hãm trong vịnh đang tĩnh lặng, những con hải âu dậy sớm lượn những vòng tròn rộng tìm bắt cá, những thảm cỏ rộng bao quanh bến tảu hãy còn đẫm sương đêm, và những chiếc tàu thuỷ được neo vào bến đang đung đưa rất nhẹ nhàng. Cảnh vật thật thanh bình, vài người tập chạy thích dậy sớm lám đánh động bầu không khí ẩm ướt và tươi mát. Vài tiếng nữa một mặt trời to lừng lững sẽ xuất hiện phía trên đồi Saussalito và đồi Tiburon và sẽ giải phóng cây cầu đỏ ra khỏi đám sương mù của nó. Anh nhìn thấy bà từ đằng xa, trông hoàn toàn phù hợp với sự miêu tả của con gái bà. Kali chạy lon ton cách bà vài bước. Bà Kline đang đắm chìm trong dòng suy tưởng và có vẻ như mang trong lòng toàn bộ gánh nặng của điều bà lo nghĩ. Con chó đi ngang qua Authur và đột nhiên đứng lại một cách lạ lùng, nó hít hít không khí xung quanh anh, mũi phập phồng và đầu lắc lư. Nó lại gần Arthur, hít mạnh gấu quần anh và tức khắc vừa nằm xuống vừa kêu ư ử; đuôi nó vẫy loạn xì ngầu, con vật run lên vì mừng rỡ và kích động. Arthur quỳ xuống và bắt đầu vuốt ve nó một cách dịu dàng. Con vật vội vã liếm tay anh, những tiếng kêu ư ử của nó vang lên to hơn và dồn dập hơn. Mẹ Lauren bước lại gần, rất sửng sốt. - Anh quen nó à?- bà nói. - Sao lại thế ạ?- anh vừa trả lời vừa nhỏm dậy. - Thường ngày nó nhát lắm. Không ai đến gần nó được, thế mà bây giờ nó cứ như quấn lấy anh. - Tôi không biết, có lẽ vậy, trông nó giống ghê lắm một người bạn gái rất thân của tôi. - Vậy à?- Bà Kline nói, tim đập thình thịch. Con chó ngồi dưới chân Arthur và lại vừa sủa ăng ẳng vừa chìa chân ra cho anh. “ Kali!- Mẹ Lauren gọi - Để cho ông này được yên.” Arthur giơ tay ra và tự giới thiệu, bà Kline do dự rồi cũng chìa tay ra. Bà cho rằng thái độ của con chó thật là không hiểu được và xin lỗi vì nó dám tỏ ra thân thiện như vậy. - Không sao đâu, tôi rất yêu súc vật và con chó này thì rất dễ thương. - Nhưng thường ngày nó chỉ thích thui thủi một mình, vậy mà nó lại có vẻ thực sự quen biết anh. - Tôi luôn luôn thu hút lũ chó, tôi cho rằng chúng cảm thấy được là ai yêu chúng. Con chó này có cái đầu xinh thật. - Đó là một con chó lai, một nửa là giống chó săn êpahơn, một nửa là giống chó labrađô - Sao nó lại giống con chó của Lauren đến thế cơ chứ. Bà Kline gần như bị chóng mặt, nét mặt của bà nhăn lại. - Bà có khoẻ không, thưa bà? – Arthur vừa hỏi vừa cầm lấy tay bà. - Anh biết con gái tôi à? - Vâng, biết rất rõ, chúng tôi khá thân nhau. Bà chưa bao giờ nghe nói đến anh và bà muốn biết anh quen con gái bà như thế nào. Anh xưng là kiến trúc sư và đã gặp Lauren ở bệnh viện. Cô khâu cho anh một vết thương do dao rọc giấy gây ra. Họ hợp tính nhau, và gặp nhau thường xuyên, “thỉnh thoảng tôi lại đến ăn trưa cùng cô ấy ở khoa cấp cứu, đôi khi chúng tôi cũng ăn tối với nhau, những lúc mà cô ấy làm việc xong sớm buổi tối”. - Lauren không bao giờ có thời gian ăn trưa, và tối nào cũng về muộn. Arthur cúi đầu, yên lặng. - Nhưng mà dù sao thì con Kali cũng có vẻ quen anh lắm. - Tôi rất buồn về những chuyện đã xảy ra với cô ấy, thưa bà, từ khi xảy ra tai nạn tôi vẫn thường đến thăm cô ấy ở bệnh viện. - Tôi chưa gặp anh ở đó bao giờ cả. Arthur mời bà dạo bước một đoạn cùng anh. Họ bước dọc theo bờ biển. Arthur liều mạng hỏi thăm tin tức của Lauren, viện cớ là từ lâu nay anh chưa có dịp đến thăm cô. Bà Kline nói rằng tình hình không biến chuyển, chẳng còn có hy vọng mấy. Bà không nói gì về quyết định của bà, nhưng bà miêu tả tình trạng của con gái bà bằng những từ hoàn toàn tuyệt vọng. Arthur im lặng một chút, rồi bắt đầu một bài biện hộ cho niềm hy vọng. “ Các bác sĩ không biết gì hết về hôn mê”... “ Những người bệnh trong cơn hôn mê vẫn nghe được tiếng chúng ta đấy”... “ Có những người đã tỉnh lại sau bảy năm”... “ Không có gì là thiêng liêng hơn cuộc sống, và nếu như cuộc sống đã được duy trì trái với cả lẽ thường, thì đó là một tín hiệu mà ta cần đọc được.” Đến Thượng Đế cũng được lôi ra như là “ đấng duy nhất có quyền định đoạt cái sống và cái chết.” Bà Kline dừng bước đột ngột và nhìn chằm chặp vào mắt Arthur. - Anh không phải là gặp tôi một cách tình cờ đâu, anh là ai và anh muốn gì? - Tôi chỉ đi dạo ở đây thôi, thưa bà, và nếu như bà cho rằng cuộc gặp gỡ này không phải là kết quả của sự ngẫu nhiên, thì chỉ có bà mới cần tự đặt cho mình câu hỏi tại sao. Tôi không dụ dỗ con chó của Lauren để nó chạy đến với tôi mà tôi chẳng cần phải gọi nó. - Anh muốn gì ở tôi? Và anh biết gì mà dám tuôn ra trước mặt tôi những lời quyết định về cái sống và cái chết? Anh không biết gì hết, không biết thế nào là cái sự phải có mặt ở đó tất cả mọi ngày, để nhìn con mình nằm bất tỉnh, chẳng có một sợi mi nào lay động, để nhìn ngực nó phập phồng, nhưng gương mặt nó thì khép kín với thế giới bên ngoài. Trong cơn tức giận, bà miêu tả cho anh về những ngày và những đêm bà ngồi nói với con gái trong niềm hy vọng điên rồ là cô có thể nghe thấy được, bà không còn có cuộc sống nữa kể từ khi con gái bà gặp tai nạn, bà sống trong nỗi sợ một cú điện thoại gọi đến của bệnh viện gọi đến báo rằng thế là đã hết rồi. Bà đã cho cô cuộc sống. Khi cô còn nhỏ, mỗi sáng bà đánh thức cô dậy, mặc quần áo cho cô và dẫn cô đến trường, mỗi tối bà đưa cô vào giường và kể chuyện cho cô nghe. Bà lo lắng nghe mỗi niềm vui của cô, mỗi nỗi buồn của cô. “Khi nó vào tuổi thiếu niên, tôi đã chấp nhận những cơn bực tức không chính đáng của nó, tôi đã chia sẻ những nỗi day dứt của nó lúc chớm yêu, tôi đã thức đem để giúp nó học bài, giúp nó ôn tập trong tất cả các kỳ thi. Tôi đã biết lùi lại phía sau khi cần thiết, và nếu như anh biết được ngay khi còn sống tôi đã nhớ nó đến thế nào. Ngày nào trong đời, tôi cũng tỉnh dậy với ý nghĩ về nó, đi ngủ mà nghĩ tới nó...” Bà Kline ngừng bặt trong những tiếng nức nở cố nén. Arthur đặt tay lên vai bà và xin lỗi. - Tôi không thể chịu được nữa- bà nói bằng một giọng trầm trầm- Anh tha lỗi cho tôi và đi ngay đi, lẽ ra tôi không nên nói chuyện với anh. Arthur lại xin lỗi lần nữa, xoa đầu con chó và chậm rãi rời xa. Anh vào xe ôtô của mình, lúc xe xa dần, anh thấy qua gương chiếu hậu của ôtô bà mẹ Lauren đang nhìn theo anh. Khi anh vào nhà, Lauren đang tập đứng thăng bằng trên một chiếc bàn thấp. - Em làm gì vậy? - Em luyện tập. - Anh thấy rồi. - Mọi chuyện diễn ra như thế nào? Anh kể cho cô nghe một cách chi tiết về cuộc gặp gỡ, thất vọng vì đã không làm thay đổi được lập trường của mẹ cô. - Anh không gặp may rồi, em chẳng thay đổi ý kiến bao giờ đâu, bà ấy cứng đầu cứng cổ lắm. - Đừng khắt khe thế, mẹ em rất đau khổ. - Anh có thể làm một chàng rể lý tưởng được đấy. - Nhận xét này có ẩn ý sâu sắc gì thế? - Chẳng có gì cả, anh là loại người được các bà mẹ vợ quý lắm đấy. - Anh thấy cái suy nghĩ này của em rất tầm thường, và anh không cho đó là chủ đề đáng để ta nói chuyện. - Tất nhiên là không rồi! Anh sẽ goá trước khi lấy vợ. - Em có ý gì với cái giọng chua ngoa thế? - Chẳng có gì hết, em không hề có ý nói gì với anh cả, thôi em đi ngắm biển đây, một khi mà em hãy còn có thể làm được điều này. Cô đột ngột biến mất, để lại Arthur trong nhà một mình và bối rối. “ Cô ấy làm sao thế nhỉ?” – anh khẽ tự hỏi. Rồi anh ngồi vào bàn vẽ, bật máy vi tính lên và bắt đầu thảo ra những việc cần làm. Anh đã quyết định việc này từ lúc ngồi vào ôtô, khi xe rời khu Marina. Không còn cách nào khác và phải làm nhanh. Từ thứ hai trở đi là các bác sĩ có thể “ru ngủ” Lauren rồi. Anh lập một bảng cần thiết các thứ cần thiết để thực hiện kế hoạch của anh. Anh in tờ giấy ra, và nhấc máy điện thoại để gọi cho Paul. - Tao cần gặp mày hết sức khẩn cấp. - À, mày đã từ Knewawa trở về đấy à! - Chuyện này gấp lắm, Paul, tao cần mày. - Mày muốn tụi mình gặp nhau ở đâu? - Mày muốn chỗ nào cũng được! - Đến nhà tao đi. Nửa tiếng sau Paul đón bạn. Họ ngồi vào đi văng ở phòng khách - Mày có chuyện gỉ? - Tao cần mày giúp một việc mà không hỏi câu nào cả. Tao muốn mày giúp tao đánh cắp một cơ thể người trong bệnh viện. - Có phải đây là một chuỗi rủi ro không? Sau hồn ma ta sẽ chăm sóc một cái xác à? Tao có thể cho mày cái xác của tao nếu mày còn tiếp tục, mày có thể tùy ý sử dụng! - Đó không phải là một xác chết. - Thế thì đó là gì, một người bệnh đầy sức sống chăng? - Tao nói nghiêm chỉnh đấy, Paul, và tao rất vội. - Tao không được hỏi mày à? - Mày sẽ khó lòng hiểu được những câu trả lời của tao! - Tại vì tao ngu quá hay sao? - Tại vì không ai có thể tin được điều mà tao đang trải qua. - Thì cứ thử xem. - Mày phải giúp tao đánh cắp cơ thể của một phụ nữ đang bị hôn mê, cô ấy sẽ phải chịu euthanasie vào thứ hai tới. Và tao thì không muốn thế. - Mày phải lòng một cô đang bị hôn mê à? Ra đó là câu chuyện hồn ma của mày phải không? Arthur trả lời bằng những tiếng ầm ừ mơ hồ. Paul hít một hơi thở dài và ngả người dựa lưng vào đi văng. - Chuyện này rồi sẽ tốn đến hai ngàn đôla tiền chữa chạy ở bác sĩ tâm thần đây. Mày đã suy nghĩ kỹ chưa, mày nhất quyết thế à? - Có mày hay không thì tao vẫn cứ làm. - Mày thật là có một niềm say mê với những câu chuyện đơn giản! - Mày không bị bắt buộc phải làm, mày biết đấy! - Tao không bị bắt buộc, tao biết. Mày xộc đến đây, tao không có tin tức gì của mày từ mười lăm ngày nay rồi, trông mày chẳng còn giống ai nữa cả; mày yêu cầu tao phải mạo hiểm với mười năm nằm nhà đá để giúp mày đánh cắp cơ thể trong bệnh viện, còn tao, tao sẽ cầu nguyện thành Phật tổ Như Lai, đó là vận may duy nhất của tao. Mày cần cái gì nào? Arthur giải thích kế hoạch của anh, những thứ mà Paul cần phải kiếm cho anh, cái chính là một xe cứu thương, mượn tạm ở xưởng sửa chữa của bố dượng Paul. - A, thêm vào đó tao lại còn phải chọc vào ông chồng của mẹ tao nữa chứ! Tao thật hài lòng vì được quen biết với mày, ông bạn ạ, đó là một việc mà suýt nữa đời tao bị thiếu. - Tao biết là tao yêu cầu mày quá nhiều. - Không, mày không biết đâu! Mày cần tất cả những thứ đó lúc nào? Anh cần xe cứu thương vào lúc tối mai. Anh sẽ tiến hành vào quãng hai mươi ba giờ, Paul sẽ ghé qua nhà anh để đón anh trước đó nửa tiếng. Sáng sớm mai Arthur sẽ gọi điện lại cho bạn để điểm lại các chi tiết linh tinh khác. Anh vừa ôm xiết bạn rất mạnh vừa nồng nhiệt cảm ơn. Paul tiễn anh ra tận cửa xe ôtô, vẻ băn khoăn lo lắng. - Cám ơn mày lần nữa- Arthur thò đầu qua cửa xe ôtô nói. - Bạn bè là để giúp nhau mà lại, có thể cuối tháng này tao sẽ cần mày giúp để đi cắt móng chân cho một con gấu trên núi, có gì tao sẽ báo cho mày biết. Thôi, mày chuồn đi, tao thấy mày có vẻ còn nhiều việc phải làm. Xe ôtô mất hút sau ngã tư, và Paul giơ hai tay lên trời, hướng về Thượng đế mà kêu rống lên: “Tại sao lại là tôi?” Anh yên lặng ngắm những vì sao một lát, và do không có câu trả lời nào vọng đến với anh, anh bèn nhún vai và lẩm bẩm: “Ừ, mình biết, tại sao không!” Phần còn lại của ngày Arthur chạy từ hiệu thuốc này đến phòng khám bệnh khác, và chất đầy thùng xe ôtô của anh.Về đến nhà, anh thấy Lauren đang thiu thiu ngủ trên giường. Anh ngồi xuống bên cô một cách rất thận trọng và đưa tay lên phía trên tóc cô mà không chạm vào. Rồi anh thầm thì: “ Bây giờ em đã ngủ được rồi. Quả thực em đẹp lắm.” Rồi anh đứng dậy, vẫn nhẹ nhàng như thế, và quay trở lại phòng khách, ngồi vào bàn vẽ. Anh vừa rời khỏi phòng thì Lauren mở một mắt ra và mỉm cười tinh nghịch. Arthur lấy những mẫu giấy tờ hành chính mà anh in hôm trước ra bắt đầu điền vào. Anh để trống vài dòng rồi xếp tất cả vào bìa đựng hồ sơ. Anh mặc lại áo khoác, lấy xe ôtô và lái về hướng bệnh viện. Anh đỗ xe ở bãi đậu xe ở khoa cấp cứu, để ngỏ cửa xe rồi lẻn vào qua cửa. Một camera được đặt để quay phim hành lang nhưng anh không nhận thấy. Anh đi theo hành lang đến tận một gian phòng lớn được dùng làm nhà ăn. Một cô y tá trực gọi anh. - Anh làm gì ở đây? Anh đến để gây bất ngờ cho một cô bạn lâu năm, cô ấy làm việc ở đây, có thể cô biết cô ấy, cô ấy tên là Lauren Kline. Cô y tá im lặng một lúc, bối rối. - Từ bao lâu rồi, anh không gặp cô ấy? - Ít nhất là sáu tháng! Anh ứng biến trong một vai nhiếp ảnh vừa mới ở Châu Phi về và muốn đến chào cô em họ theo quan hệ thông gia. “ Chúng tôi thân nhau lắm. Cô ấy không làm việc ở đây nữa à?” Cô y tá lờ câu hỏi đi và mời anh ra thường trực, ở đó người ta sẽ thông tin cho anh; anh sẽ không tìm thấy bạn anh ở đây đâu, cô rất lấy làm tiếc. Arthur làm ra vẻ lo lắng và hỏi rằng có chuyện gì không. Vẻ lúng túng, cô y tá một mực yêu cầu anh ra nơi đón tiếp của bệnh viện. - Tôi sẽ phải đi ra khỏi toà nhà này à? - Về nguyên tắc thì đúng vậy, nhưng như thế anh sẽ phải đi một vòng khá xa... Cô chỉ dẫn cho anh để anh đi ra thường trực qua lối trong nhà. Anh chào cô và cảm ơn cô, mặt vẫn giữ nguyên vẻ lo lắng mà anh tạo ra rất khéo. Khuất mắt cô y tá, anh lẻn từ hành lang này sang hành lang khác cho đến lúc thấy cái mà anh đang tìm. trong một gian phòng có cánh cửa hé mở, anh nhìn thấy hai chiếc áo blu trắng móc trên mắc áo. Anh bước vào, lấy hai cái áo ấy, cuộn tròn lại rồi giấu bên trong áo măng tô của anh. Trong túi một chiếc áo, anh cảm thấy có một cái ống nghe. Anh nhanh chóng quay ra hành lang, theo những chỉ dẫn của cô y tá, và đi ra khỏi bệnh viện bằng cửa chính. Anh đi vòng quanh toà nhà, ra chỗ xe ôtô của anh ở bãi đậu xe của khoa cấp cứu rồi chạy về nhà. Lauren ngồi trước máy vi tính, chỉ đợi anh bước vào phòng là thốt lên: “Anh thật điên rồ quá mức!” Anh không trả lời, đi lại bàn làm việc và ném lên đó hai chiếc áo blu. - Anh điên thật rồi, xe cứu thương trong gara à? - Paul sẽ mang cái xe đó đến đón anh, mười rưỡi tối mai. - Anh lấy máy cái áo này ở đâu? - Ở bệnh viện của em! - Nhưng mà sao anh lại làm được tất cả những trò này? Ai đó có thể bắt giữ anh khi anh định làm gì thì sao? Đưa em xem nhãn đính trên áo blu đi. Arthur mở hai chiếc áo ra, mặc vào người cái to hơn, và xoay người, nhại lại dáng điệu của những người mẫu thời trang đang trình diễn mốt trên sân khấu. - Nào, em thấy anh ra sao? - Anh đã cuỗm áo blu của Bronswick! - Đó là ai vậy? - Một bác sĩ tim mạch xuất sắc, không khí bệnh viện sẽ căng thẳng lắm đây, em đã thấy trước một loạt thông báo được niêm yết. Giám đốc phụ trách an ninh sẽ được một phen méo mặt. Đây là bác sĩ cau có nhất và kiêu căng nhất bệnh viện Memorial. - Khả năng có ao đó nhận diện được anh thì sao? Cô bảo anh yên tâm, ít có khả năng ấy lắm, phải có chuyện gì đặc biệt không may thì mới thế, vì có 2 lần thay ca, ca làm cuối tuần và ca trực đêm. Anh chẳng sợ gặp phải một người trong ê kíp của bác sĩ này đâu. Tối chủ nhật đó sẽ là một bệnh viện khác, với những người khác, và không khí hoàn toàn khác. - Này, nhìn xem, anh có cả ống nghe nhé. - Đeo vào cổ anh đi! Anh thực hiện. - Trông anh hấp dẫn khinh khủng trong trang phục bác sĩ, anh có biết không?- cô nói bằng một giọng rất dịu dàng và đầy nữ tính. Arthur đỏ mặt lên.. Cô cầm lấy tay anh và ve vuốt những ngón tay. Cô ngước mắt nhìn anh và nói bằng một giọng vẫn dịu dàng như vậy: - Cảm ơn về tất cả những điều anh làm cho em, chưa bao giờ có ai quan tâm chăm sóc em như vậy cả. - Thì chính vì vậy nên Zorro đã đến! Cô đứng dậy, khuôn mặt sát lại gần mặt Arthur. Họ nhìn vào mắt nhau. Anh vòng tay ôm cô, luồn bàn tay ra sau gáy cô, kéo cô lại để đầu cô tựa vào vai anh. - Bọn mình có nhiều việc phải làm- anh bảo cô.- Anh phải làm việc đây. Anh rời ra để ngồi vào bàn làm việc. Cô hướng về anh một cái nhìn chăm chú rồi yên lặng rút vào phòng trong, để ngỏ cửa. Anh làm việc rất khuya, chỉ ngừng lại để vừa nhấm nháp vài đồ ăn vặt vừa gõ mấy dòng vào máy vi tính, ngồi trước màn hình, tập trung hết sức vào những ghi chép của mình. Anh nghe thấy tiếng tivi được bật lên. “Em làm thế nào mà được vậy?” anh cất cao giọng hỏi. Cô không trả lời. Đứng dậy, anh đi xuyên qua phòng khách và nghiêng người qua cánh cửa hé mở. Lauren đang nằm sấp trên giường. Cô rời mắt khỏi tivi và mỉm cười với anh, vẻ trêu chọc. Anh mỉm cười đáp lại, rồi trở về với bàn phím của mình. Đến lúc anh chắc rằng cô đang say sưa với bộ phim của mình, anh bèn đứng dậy và đi ra tủ đựng tài liệu. Anh lấy ra một cái hộp và đặt lên bàn rồi nhìn hồi lâu trước khi mở ra xem. Đó là một chiếc hộp hình vuông, to như một hộp đựng giày và được bọc một lớp vải đã ngả màu vì năm tháng. Anh hít một hơi và mở nắp hộp ra ; trong hộp có một bó thư được buộc lại bằng một sợi dây gai. Anh lấy ra một cái phong bì to hơn hẳn những cái khác và mở ra. Một bức thư niêm phong và một chùm chìa khoá cũ, to và nặng, rơi ra khỏi phong bì. Anh chộp lấy chùm chìa khoá, lấy tay tung hứng nó và mỉm cười lặng lẽ. Anh không đọc bức thư mà nhét nó vào trong túi áo vét của anh, cùng với chùm chìa khoá. Anh đứng dậy, đặt lại chiếc hộp vào chỗ cũ, và trở lại bàn làm việc, nơi bản kế hoạch hành động của anh đang được in ra. Sau cùng, anh tắt máy vi tính và đi vào phòng ngủ. Cô đang ngồi ở chân giường, xem phim triuyền hình nhiều tập. Tóc cô buông xoã, trông cô có vẻ rất bình thản, thư giãn. - Tất cả đều sẵn sàng ở mức có thể rồi – anh nói. - Một lần nữa, tại sao anh làm tất cả những việc này? - Em hỏi cái đó thì được ích gì, tại sao em cần biết hết mọi điều? - Chẳng tại sao cả. Anh đi vào buồng tắm. Vừa lắng nghe tiếng động trong buồng tắm, cô vừa vuốt nhẹ lên thảm trải sàn. Khi tay cô vuốt qua, những sợi tơ bật lên, dựng tua tủa do tĩnh điện. Anh đi ra, người quấn trong một chiếc áo choàng vải bông. - Anh phải đi ngủ bây giờ đây, ngày mai anh phải thật khoẻ mạnh. Cô đến gần anh và đặt một cái hôn lên trán anh. “Chúc anh ngủ ngon, và hẹn đến mai” rồi cô đi ra khỏi phòng. Ngày hôm sau trôi qua theo nhịp tích tắc thong thả từng phút một, trong không khí chậm rãi uể oải của những ngày chủ nhật. Mặt trời chơi trốn tìm với những trận mưa bóng mây. Họ ít nói chuyện với nhau. Thỉnh thoảng cô lại nhìn anh đăm đăm và hỏi rằng anh có chắc là vẫn muốn tiếp tục không, câu hỏi mà anh không buồn trả lời nữa. Đến trưa thì họ ra bờ biển dạo chơi. - Lại đây em, chúng mình đi bên mép nước, anh muốn nói với em vài điều. Anh đặt tay lên vai cô trước khi nói. Họ đến sát mép nước, nơi những con sóng bị vỡ tung ra trên cát. - Em hãy nhìn kỹ tất cả những thứ xung quanh ta: nước giận dữ nổi sóng, đất trơ trơ bất cần, những ngọn núi vượt hẳn lên trên, rồi cây cối, rồi ánh sáng mà mỗi phút trong ngày lại đùa nghịch thay đổi cường độ và màu sắc, những con chim bay lượn trên đầu ta, những con cá vừa cố tìm cách để khỏi phải làm mồi cho lũ hải âu vừa đi săn lùng những con cá khác. Có sư hoà điệu của các âm thanh, tiếng sóng, tiếng gió, tiếng cát; và rồi ở giữa các dàn nhạc phi thường này của cuộc đời, và vạn vật có em, có tất cả những người quanh ta. Có bao nhiêu người nhìn thấy những cái mà anh miêu tả cho em? Có bao nhiêu người mỗi buổi sáng ra lại biết nhận thấy cái đặc quyền được tỉnh dậy và được thấy, được ngửi, được động chạm, được nghe, được cảm? Có bao nhiêu người trong chúng ta có khả năng quên đi trong giây lát những nỗi lo toan của mình để mê đắm trước cái cảnh tượng kì diệu này. Phải nói rằng sự vô ý thức lớn nhất của con người, đó là sự vô ý thức đối với chính cuộc đời mình. Em thì em nhận thức được tất cả những điều này, vì em đang gặp nguy hiểm, và cái đó làm cho em trở thành một người đặc biệt, bởi cái mà em không cần để sống: đó là những người khác, bởi vì em không còn sự lựa chọn nào nữa cả. Vậy thì để trả lời cho câu hỏi mà em không ngừng đặt ra cho anh từ bao nhiêu ngày nay, nếu anh không chịu mạo hiểm, thì toàn bộ vẻ đẹp này, toàn bộ năng lượng này, toàn bộ vật chất sống này sẽ trở thành cái không thể đạt được đối với em. Chính vì vậy mà anh làm việc này, đưa em trở về cuộc sống sẽ làm cho đời anh có một ý nghĩa. Cuộc đời có thể làm được cho anh mấy dịp được làm những điều cốt yếu như vậy? Lauren không nói một lời, rồi sau cùng cô hạ mắt nhìn xuống cát. Họ bước cạnh nhau ra ôtô.