Kính Tế thoát chết, nhưng vốn liếng bị Dương Đại lang lừa hết, tiền bạc trong nhà không còn, căn nhà cũng phải cầm đi, gia nhân Trần Định trong lúc Kính Tế nằm nhà lao đã vơ vét đồ đạc đánh giá trong nhà đem bán rồi ôm tiền đi luôn. Kim Bảo thì bỏ về ca lâu. Kính Tế muôn phần thiếu hụt, chỉ ngày ngày tới nhà Dương Đại lang hoặc tìm gặp các bạn hàng dọ hỏi tin tức Dương Đại lang. Một hôm, Kính Tế tìm đến nhà Dương Đại lang gọi cổng: - Quang Ngạn có nhà không? Dương Đại lang hiệ đã về nhà, sau khi đem thuyền hàng bán hết ở ngoài, nhưng thấy Kính Tế gặp chuyện tù tội, nhà cửa sa sút, nay tới gọi cổng, thì xui em trai là Dương Nhị Phong ra, nạt nột Kính Tế rằng: - Huynh đem đại ca tôi đi, nói là buôn bán gì mà cả mấy tháng nay biệt vô âm tín, hay là huynh đã liệng đại ca tôi xuống khúc sông nào để đọat tiền bạc. Đã ám hại đại ca tôi như vậy mà bây giờ còn làm bộ tới đây hỏi han để che tội hay sao? Hàng hoá của huynh không quan trọng, tính mệnh đại ca tôi mới là quan trọng, huynh làm sao trả lời tôi đây. Nguyên Dương Nhị Phong cũng là tên côn đồ, chuyên làm tiền thiên hạ, nay phùng mang trợn mắt, hoa chân múa tay mà nạt nộ Kính Tế, nói xong lại sấn tới túm lấy Kính Tế quát lớn: - Đừng có giả mù che mưa, không cho ta biết tính mạng đại ca ta thì không xong với ta đâu. Ta đang định đi tìm ngươi thì ngươi dẫn xác tới, đã vậy ta quyết không tha, ta đánh ngươi một trận xem ngươi ăn nói làm sao? Nói xong hoa quyền định đánh. Kính Tế hoảng lên, vuột ra mà chạy bán sống bán chết về nhà, đóng chặt các cửa trong ngoài lại. Dương Nhị Phong làm dữ đuổi theo tới tận cửa, lấy gạch đá ném vào nhà rầm rầm rồi lớn tiếng chửi bới, réo cha réo mẹ Kính Tế ra mà chửi. Kính Tế ngồi yên trong nhà, không dám ra lời, vả lại vừa mới bị đánh thừa sống thiếu chết tại huyện đường, nên không dám hó hé gì. Thật là: Cỏ non sợ sương, sương sợ mặt trời, Kẻ ác chỉ sợ kẻ ác hơn thôi. Ít ngày sau thì Kính Tế phải bán luôn cả căn nhà, được bảy chục lạng bạc, rồi thuê một căn phòng nhỏ ở trong hẻm mà ở. Sau đó lại bán a hoàn Trùng Hỷ đi, chỉ giữ lại a hoàn Nguyên Tiêu và coi như vợ của mình. Ít lâu sau thì gia nhân Trần An cũng bỏ đi, kế đó Nguyên Tiêu cũng bị bệnh mà chết, Kính Tế trơ trọi một mình, đồ đạc quần áo bán dần hết. Rồi tiền nhà cũng không trả nổi, bị chủ nhà đuổi ra, lang thang đầu đường xó chợ, được bọn thanh niên du thủ du thực giúp đỡ, cho làm thuê làm mướn những công việc lặt vặt. Một đêm vào khỏang tháng chạp, tuyết rơi ngập trời, gió thổi như cắt da, lạnh như xé thịt, Kính Tế lang thang các đường các hẻm, run lên bần bật, chợt thấy một đứa bạn lạnh quá, gục xuống một chân tường, vội đi kiếm cỏ tới đốt sưởi cho tên bạn đó, rồi mệt mỏi ngả lưng xuống cạnh đó mà thiếp đi. Trong giấc ngủ chập chờn, Kính Tế nằm mơ thấy mình sống trong nhà Tây Môn Khánh, vinh hoa phú quý, cùng Kim Liên lén lút gặp gỡ trao tình. Lát sau tỉnh dậy bật khóc. Mấy đứa bạn du thủ du thực kéo đến, thấy vậy hỏi: - Sao lại khóc? Kính Tế tủi thân đáp: - Các huynh không biết được nỗi khổ của tôi đâu, xin đừng hỏi làm gì. Tôi nay vợ đã chết, không có cái áo mà mặc, hột cơm mà ăn, đồ đạc cửa nhà bán hết, gia nhân đầy tớ bỏ đi, chỉ còn một thân một mình lang thang đây đó, la cà các nơi trà đình tửu điếm mà kiếm miếng cơm thừa, đêm thì ngủ đường ngủ chợ, thân tôi rồi biết ra sao. Hôm sau, Kính Tế lại tiếp tục cuộc sống lang thang như vậy, có lúc đói đã phải xin cơm mà ăn, thực sự là một kẻ ăn mày. Trong huyện Thanh Hà có một ông gìa họ Vương tên Tuyên, tự là Đinh Dụng, tuổi ngoài lục tuần, vốn người từ tâm, trọng nghĩa kính tài, chuyên cứu giúp kẻ khốn cùng nghèo khổ, lại có lòng tin tưởng trời phật quỷ thần, chăm lễ bái, sinh được hai con trai đều đã thành gia thất. Con trưởng là Vương Càn, hiện được kế tập chức tước tổ tiên, làm Chánh Thiên hộ tại sở Mục mã. Con thứ hai là Vương Thần, hiệ là học sinh tại trường phủ. Vương Tuyên lại hùn với một người quản lý, mở một tiệm cầm đồ, lợi tức dồi dào nên trong nhà được sung túc. Vương Tuyên suốt ngày phong lưu nhàn hạ, thường đọc kinh, nghe giảng đạo hoặc ra đứng cửa bố thí cho những kẻ khốn cùng. Sau vườn nhà có hai cây hạnh, Vương Tuyên lập một cái am nhỏ để tới đó tụng kinh niệm Phật. Do đó lấy hiệu là Hạnh Am cư sĩ. Một hôm Hạnh An cư sĩ khăn áo chỉnh tề, đứng cửa nhìn ra đường, thấy KínH Tế từ xa đi lại, ngừng ở trước cổng, hướng vào trong mà lạy. Hạnh Am cũng vội vái trả lễ rồi bước ra hỏi: - Cậu là ai? lão già rồi mắt nhìn không rõ nên nhất thời không thể nhận ra. Kính Tế đứng dậy run rẩy thưa: - Chẳng giấu gì lão ông, tiểu nhân là Trần Kính Tế, con của Trần Hồng. Hạnh Am ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi lại: - Cậu đúng là lệnh lang của Trần Đại Khoan sao? Kính Tế đáp: - Đại Khoan chính là thân phụ của tiểu nhân. Hạnh Am thấy Kính Tế áo quần lam lũ, hình dung tiều tuỵ thì hỏi: - Hiền điệt ơi, làm sao mà ra nông nổi này? phụ mẫu bây giờ ở đâu, có được bình an chăng? Kính Tế chảy nước mắt đáp: - Phụ thân tiểu điệt mất tại Đông Kinh, mẫu thân tiểu đi='height:10px;'>
- Có Tiết tẩu lại. Xuân Mai ngồi dậy, bảo Nguyệt Quế gọi Tiết tẩu vào, đồng thời sai Tiết tẩu a hoàn Thúy Hoa mở hết các cửa trong phòng. Ánh nắng tràn vào rực rỡ. Tiết tẩu bước vào tưoi cười: - Giờ này mà pu nhân chưa dậy hay sao? Nói xong giở gói nữ trang ra cung kính đưa lên. Xuân Mai bảo: - Tẩu tẩu cứ tự nhiên, đừng quá chấp lễ như thế, hôm nay trong người tôi hơi mệt mỏi nên dậy trễ quá. Đọan hỏi: - Mấy món nữ trang làm xong rồi đấy à? Tiết tẩu đáp: - Mãi tối hôm qua họ mới làm xong, tôi phải chờ ở đó xem họ làm, rồi lấy về, hôm nay đem tới trình phu nhân. Chắc là phu nhân đợi lắm. Xuân Mai hờ hững liếc mắt ngó qua mấy món nữ trang, chê là làm chưa vừa ý, bảo Nguyệt Quế cất đi, và gọi đem trà lên. Tiết tẩu gọi đứa a hoàn mười hai tuổi vào, bảo lạy chào. Xuân Mai hỏi: - Ở đâu đem tới vậy? Tiết tẩu đáp: - Nhị nương ở đây và tôi có bàn chuyện là a hoàn Hà Hoa thì chỉ lo việc cơm nước, cần thêm một đứa nữa cho học may vá để sai bảo. Hôm nay tôi dẫn con này tới, nó là con nhà tử tế chất phát ở nhà quê, năm nay mười hai tuổi, ngoan ngoãn chịu khó lắm, mà mặt mũi cũng dễ coi. Xuân Mai bảo: - Tìm cho nhị nương thì sao không tìm đứa nào ở thành thị, lanh lợi thạo việc hơn, chứ thứ quê mùa như thế này thì biết gì. Đoạn hỏi: - Bao nhiêu đây? Tiết tẩu đáp: - Nó quê mùa nên chỉ xin có bốn lạng thôi. Xuân Mai bảo Hải Đường: - Ngươi đưa nó qua phòng nhị nương. Tiền bạc ta sẽ trả sau. Đoạn sai Nguyệt Quế dọn ít đồ ăn và lấy rượu Kim hoa ra mời, nhưng Tiết tẩu vội bảo Nguyệt Quế: - Xin Nguyệt thư đừng dọn ra vội, để tôi có chuyện này thưa với phu nhân đã. Vả lại hồi nãy tôi cũng có ăn rồi, bây giờ chưa đói. Xuân Mai hỏi: - Mới sáng ra đã ăn ở đâu vậy? Tiết tẩu đáp: - Chằng giấu gì phu nhân, hồi nãy Tây Môn Đại nương có gọi tôi vào mời ăn điểm tâm rồi. Thật đáng thương cho Đại nương, ngồi nói chuyện với tôi mà cứ khóc. Chẳng là thằng khốn Bình An ăn cắp cái gì không ăn cắp, lại nhè ngay đồ nữ trang người ta đem tới cầm mà ăn cắp, rồi đem ra ngoại thành vui chơi với mấy con kỹ nữ. Sau đó thì nó bị bắt giam tại ty Tuần kiểm, người cầm đồ tới đòi chuộc lại, không có đồ nên làm ầm cả lên. Đại nương có sai Phó quản lý làm đơn tới ty xin lãnh đồ vật đã mất, nhưng Ngô Tuần kiểm không cho, lại còn làm khó dễ đủ điều. Thật không biết sao mà nói, Ngô Tuần kiểm trước là quản lý của Tây Môn lão gia, nhờ lão gia giúp đỡ mà được như ngày nay, vậy mà nỡ vô ân bội nghĩa, đánh đập thằng Bình An, nạt nộ Phó quản lý và còn muốn đòi hối lộ. Đại nương bây giờ góa bụa chằng biết cậy nhờ ai, nên hồi sáng có khóc lóc nhờ tôi thưa lại với phu nhân, xin phu nhân nghĩ tình, nói với lão gia để lão gia bảo Ngô Tuần kiểm trả lại đồ vật cho Đại nương, hầu Đại nương trả lại cho người tạ Xong việc, Đại nương sẽ tới đây bái tạ phu nhân. Xuân Mai bảo: - Được rồi, lão gia hôm nay đi khám xét ở ngoài, chắc đến tối mới về, để tôi nói cho, mà có thiếp gì không? Tiết tẩu đáp: - Đại nương có nhờ tôi trình phu nhân tấm thiếp này đây. Nói xong lấy tấm thiếp trong tay áo ra. Xuân Mai đọc xong tiện tay để lên bàn phấn ở đầu giường. Lát sau a hoàn dọn rượu thịt ra, rót rượu đầy chung mời Tiết tẩu. Tiết tẩu nói: - Tôi làm sao uống hết chỗ này? Xuân Mai cười: - Không uống hết thì không xong với tôi đâu. Uống mà phải ăn nữa. Đoạn bảo Nguyệt Quế: - Tiết tẩu không uống hết thì ngươi cứ đổ rượu vào mũi Tiết tẩu cho ta. Tiết tẩu nói: - Phải để tôi ăn miếng gì lót lòng trước rồi mới uống rượu được. Xuân Mai cười: - Con mụ này nói chuyện hay thật, vừa rồi nói là ăn điểm tâm tại nhà Tây Môn Đại nương rồi, bây giờ lại đòi ăn lót lòng trước rồi mới uống rượu, thế là thế nào? Tiết tẩu đáp: - Cũng có ăn, nhưng không bao nhiêu, uống rượu phải ăn nhiều mới không say. Nguyệt Quế nói: - Tẩu tẩu phải uống hết chung lớn này đã, nếu không tôi sẽ đổ rượu vảo mũi cho mà xem. Phu nhân đã dặn, tôi không làm theo, phu nhân sai đánh đòn tôi rồi sao? Tiết tẩu không biết sao đành nhắm mắt uống cạn chung rượu lớn. Uống xong thì mặt đỏ rần lên, mắt hoa đầu váng, ngồi không vững. Xuân Mai bĩu môi, rồi bảo Hải Đường: - Rót đầy một chung lớn như vậy để ta uống. Rồi rót một chung nữa cho Tiết tẩu. Tiết tẩu xua tay: - Thôi thôi, thỉnh phu nhân dùng, tôi không uống được nữa đâu. Hải Đường cười: - Chị Nguyệt Quế rót mời thì tẩu tẩu uống, còn tôi rót thì tẩu tẩu chê hay sao? tôi mời mà tẩu tẩu không chịu uống rồi phu nhân sai đánh đòn tôi làm sao? Tiết tẩu hoảng lên vội quỳ ngay xuống van xin, Xuân Mai bật cười: - Thôi, ngồi dậy ăn món gì đi vậy. Mà phải vừa ăn vừa uống rượu mới được. Tiết tẩu ngồi dậy ăn uống. Lát sau Nguyệt Quế bảo: - Có ai quý tẩu tẩu như tôi không, tôi để dành cho tẩu tẩu ít bánh mai côi ngon lắm. Nói xong bưng một đĩa bánh ra. Tiết tẩu chỉ ăn một cái. Xuân Mai bảo: - Còn bao nhiêu đem về cho ông ấy ở nhà ăn. Nguyệt Quế gói ít bánh cho Tiết tẩu. Hải Đường lại ép Tiết tẩu uống rượu, đến lúc Tiết tẩu ói ra mới thôi. Hai a hoàn dọn dẹp bát đĩa thì Tiết tẩu đứng dậy cáo từ. Xuân Mai dặn: - Sáng mai tới đây sớm để biết chuyện thằng Bình An, rồi tôi trả tiền về con a hoàn luôn. Tiết tẩu lạy chào bước ra. Xuân Mai dặn theo: - Mấy món nữ trang hôm nay làm chưa khéo, để rồi tôi bỏ tiền ra làm mấy món khác cho tôi. Tiết tẩu đáp: - Thưa vâng. Đoạn dừng lại nói: - À, mà xin phu nhân cho ai đưa tôi ra kẻo chó cắn tôi. Xuân Mai cười: - Chó phủ này có mắt lắm, chỉ cắn kẻ gian mà thôi. Nói xong sai Lan Hoa đưa ra cổng. Đến gần tối, Chu Thủ bị về tới phủ là vào ngay hậu sảnh, vào thăm Xuân Mai. A hoàn xúm xít xung quanh cởi mũ áo. Chu Thủ bị nhìn vợ nhìn con, vui vẻ ngồi xuống. Hải Đường đem trà tới trong khi Nguyệt Quế dọn cơm rượu. Chu Thủ bị kể chuyện đi khám xét các nơi cho vợ nghe. Qua vài tuần trà thì ăn cơm. Xuân Mai ngồi bên cùng ăn và tiếp cho chồng. Cơm xong, trời vừa tối, a hoàn đốt đèn lên, Chu Thủ bị và Xuân Mai uống trà, sau đó lại bày rượu, vừa uống rượu vừa trò chuyện. Chu Thủ bị hỏi: - Hôm nay ở nhà có chuyện gì lạ không? Xuân Mai lấy tấm thiếp của Ngô Nguyệt nương ra đưa cho chồng mà nói: - Tên gia nhân của Tây Môn Đại nương là thằng Bình An lấy trộm nữ trang, bị Ngô Tuần kiểm bắt giam và đánh đập. Đại nương sai người làm đơn tới xin lãnh vật mất trộm về, Ngô Tuần kiểm đã không chịu, lại còn đòi hối lộ rồi vu cáo cho Đại nương là thông gian với tên gia nhân Đại An, lại doa. là đem chuyện này lên phủ lên huyện. Chu Thủ bị coi thiếp xong nói: - Việc này là thuộc thẩm quyền của tôi, đem lên phủ lên huyện nào? tên Ngô Tuần kiểm như vậy là gian ác, để mai tôi cho nắm đầu nó lại đây. Tôi biết tên Ngô Tuần kiểm này trước là quản lý của Tây Môn Khánh được chủ sai đem lễ lên phủ Thái sư ở Đông Kinh rồi được chủ xin xỏ cho mà có chức tước, sao bây giờ lại dám vu cáo cho vợ chủ. Xuân Mai bảo: - Chính vì vậy mà ngày mai chàng nên xử vụ này cho Tây Môn Đại nương được nhờ. Uống rượu trò chuyện một lát, vợ chồng vào giường an nghỉ. Hôm sau, Chu Thủ bị cho làm công văn sai Trương Thắng và Lý An đòi Nguyệt nương và cả Ngô Tuần kiểm tới hầu. Trương, Lý tới nhà Nguyệt nương trước, được Nguyệt nương sai dọn rượu thịt thết đãi. Mỗi người lại được thưởng một lạng bạc gọi là đền công nhọc mệt. Phó quản lý không khoẻ nên Ngô Nhị cữu đi thay. Ngô Tuần kiểm thì mấy hôm liền, không thấy Nguyệt nương cho người tới hối lộ, đang định cho làm văn thư trình lên huyện và phủ thì nghe có hai người công sai của phủ Thủ bị mang công văn tới. Ngô Tuần kiểm đọc công văn, thấy triện son đỏ chói, bút phê của Chu Thủ bị rành rành đòi lên hầu thì hoảng lên, biết là bị Nguyệt nương phản công, liền dúi cho Trương, Lý mỗi người hai lạng bạc, rồi lật đật tới phủ Thủ bị đứng chờ, không quên cho lính dẫn Bình An đi theo. Chu Thủ bị đăng đường, quan lại ngồi hai bên nghiêm chỉnh, quân lính gươm giáo sáng quắc đứng hầu. Chu Thủ bị gọi Ngô Tuần kiểm vào trình nội vụ. Ngô Tuần kiểm khúm núm đưa hồ sơ lên. Chu Thủ bị coi xong cau mày bảo: - Chuyện này là thuộc thẩm quyền của ta, sao Tuần kiểm không trình sớm, mà cứ giam người tại ty là thế nào? thật là tệ. Tuần kiểm khúm núm: - Bẩm đại quan, tiện chức đang cho làm văn thư, đợi làm xong thì trình ngay. Chu Thủ bị nạt: - Ngươi là tên cẩu quan đáng ghét, dám lộng quyền khinh mạn phép vuạ Ta nhận sắc thư của triều đình lo mọi việc tại địa phương này, vừa coi quân vụ, vừa giữ gìn an ninh, trừng trị trộm cướp, vừa coi việc sông ngòi, chức chưởng của ta được ấn định rõ ràng, ngươi cố tình không biết, dám tự động bắt giam người, đánh đập người, lại còn vu cáo cho người nữa, rõ ràng là ngươi hành động tác tệ, còn chối cãi gì? Ngô Tuần kiểm lật đật lột mũ ra, quỳ xuống rập đầu thưa: - Xin thượng quan minh xét chọ. Chu Thủ bị quát: - Đáng lẽ là bản chức phải trừng trị ngươi, nhưng vì tình mà tha cho lần này, lần tới tái phạm, bản chức quyết không dung. Nói xong, cho gọi Bình An tới, đập án thư mà quát: - Tên nô tài kia, mày đã trộm đồ vật của chủ lại còn vu oan cho chủ. Đứa nào cũng như mày, thế gian này còn ai dám nuôi kẻ ăn người ở nữa? Đoạn quay lại quát tả hữu: - Lôi cổ nó ra đánh ba chục trượng cho tạ Bao nhiêu đồ vật trộm được sẽ giao hoàn khổ chủ, đồ vật nào lỡ bán đi cũng phải lấy lại. Một mặt gọi Ngô Nhị cữu lên, trả lại lá đơn đã có lời phê, rồi sai cùng Trương Thắng đem thiếp của mình tới báo cho Nguyệt nương biết. Nguyệt nương dọn rượu thịt khoản đãi Trương Thắng rồi thưởng thêm một lạng bạc nữa. Trương Thắng ăn uống xong, nhận bạc rồi cảm tạ, trở về thưa lại với Chu Thủ bị và Xuân Mai. Tới chiều, người cầm đồ tới đòi, Nguyệt nương trả đủ số vật đã mất, người này nhận lại rồi đi, không nói một lời. Phó quản lý mới đầu cảm sốt rồi sau thành thương hàn, điều trị không bớt, bảy ngày sau thì từ trần. Nguyệt nương sai Nhị cữu và Đại An trông coi tiệm dược phẩm để kiếm lời sông qua ngày. Ít hôm sau, Nguyệt nương cho gọi Tiết tẩu tới đền ơn mấy lạng bạc, nhưng Tiết tẩu từ chối: - Tôi không dám a tới ngôi miếu ở ngoại thành, đường xa bảy mươi dặm, đi gần một ngày. Vương lão ông xuống ngựa, dẫn mọi người vào miếu. Nơi đây tùng bách sum suê cao vút, phong cảnh thật thanh tĩnh. Tiểu đồng trông thấy, vội vào báo với Nhiệm đạo sĩ. Nhiệm đạo sĩ mũ áo chỉnh tề ra nghênh tiếp. Vương lão ông bảo Kính Tế và gia nhân đứng ngoài chờ rồi theo Nhiệm đạo sĩ vào phương trượng. Vào tới Tùng Hạc hiên trong phương trượng, hai người bạn già thi lễ rồi phân ngôi chủ khách mà ngồi dùng trà. Nhiệm đạo sĩ nói: - Lâu lắm không thấy Vương lão cư sĩ quá bộ tới tệ miếu, nay tới đây quả là hân hạnh cho tiểu đạo lắm. Vương lão ông đáp: - Cũng vì chuyện nhà bận rộn nên lâu không tới bái vọng đạo trưởng được, xin thứ lỗi. Qua một tuần trà, Nhiệm đạo sĩ nói: - Bây giờ cũng chiều rôi, thỉnh lão cư sĩ nghỉ lại đêm nay. Đoạn quay lại bảo tiểu đồng: - Ra dẫn ngựa vào chuồng ngựa sau miếu. Vương lão ông nói: - Nếu vô sự thì tiểu đệ không dám tới làm rộn cửa tam bảo, hôm nay tới đây là có một việc phiền đạo huynh, chẳng hay tôn ý thế nào, có sẵn lòng giúp cho chăng? Nhiệm đạo sĩ nói: - Sao lão cư sĩ lại dạy thế? có điều gì, xin cứ dặn, tiểu đạo đâu dám trái mệnh. Vương lão ông nói: - Có đứa con trai của người bạn cũ của tiểu đệ, họ Trần, tên Kính Tế, năm nay hai mươi bốn tuổi, hình dung cũng thanh tú, trí óc cũng không quá đần độn. Vì phụ mẫu sớm qua đời nên nó thất học từ nhỏ. Gia đình nó cũng không phải thua kém gì ai, nhưng gặp cơn gia biến mà cửa nhà tan nát, của cải tiêu ma, nó hiện không nơi nương tựa, không có người dạy bảo. Tiểu đệ nghĩ tình cố tri với cha nó mà muốn xin cho nó được theo làm đồ đệ của đạo huynh, vậy xin đạo huynh cho biết tôn ý. Nhiệm đạo sĩ đáp: - Hiềm tiểu đệ ít đức, nên tuy có hai tên đồ đệ mà chẳng đứa nào ra hồn, còn người này chẳng hay có thật tâm không? Vương lão ông đáp: - Thằng nhỏ này coi cũng có vẻ thành thật, nó cũng có nguyện tâm, lại là đứa lanh lợi, dạy được nhiều việc, xin lão đạo huynh yên tâm. Nó có thể là đồ đệ của lão huynh được. Nhiệm đạo sĩ hỏi: - Bao giờ thì người đó tới? Vương lão ông đáp: - Hiện tôi đã dẫn tới và nó đang đứng hầu ở ngoài, tôi cũng có chút lễ bạc, xin lão đạo huynh đừng chê cười mà nhận giùm cho. Nhiệm đạo sĩ vội bảo: - Sao lão cư sĩ không nói sớm. Đoạn quay lại bảo tiểu đồng: - Ra mời vào. Kính Tế và hai gia nhân đem lễ vật vào. Nhiệm đạo sĩ cầm thiếp coi, thấy viét một xấp đoạn, mười cân cá, hai cặp vịt quay, năm cân hoa quả, năm lạng bạc và một hồ rượu. Bên dưới đề: "Văn sinh Vương Tuyên kính bái". Nhiệm đạo sĩ đọc xong vội đứng dậy vái tạ: - Lão cư sĩ cho nhiều quá, khiến cho tiểu đạo không nhận thì mang tội bất kính, mà nhận thì trong lòng hổ thẹn. Lại nhìn sang Kính Tế, thấy ăn mặc đạo y tề chỉnh, mặt mày thanh tú, răng trắng môi hồng, da như thoa phấn, trong lòng vui vẻ lắm. Kính Tế bước tới lạy tám lạy. Nhiệm đạo sĩ hỏi: - Thanh xuân bao nhiêu? Kính Tế đáp: - Con tuổi Ngọ, năm nay hai mươi bốn tuổi. Nhiệm đạo sĩ bảo: - Ta coi ngươi quả là lanh lợi, nay đặt cho pháp danh là Trần Tông Mỹ. Nguyên Nhiệm đạo sĩ có hai đồ đệ, đại đồ đệ họ Kim, tên Tông Minh, nhị đồ đệ họ Từ, tên Tông Thuận, do đó mới đặt pháp danh cho Kính Tế là Tông Mỹ. Lúc đó trời cũng nhà nhem tối, Nhiệm đạo sĩ sai tiểu đồng thắp đèn dọn bàn, bày cơm rượu, đầy bàn toàn là thịt cá gà vịt ngon lành. Nhiệm đạo sĩ ân cần mời rượu Vương lão ông, nhưng Vương lão ông không uống được nhiều, chỉ qua vài tuần rượu là đã ăn cơm. Sau đó được dẫn vào trai phòng, giường chiếu dọn sạch sẽ, Vương lão ông nghỉ đêm tại đó. Sáng sớm hôm sau, tiểu đồng đem nước rửa mặt tới. Vương lão ông rửa mặt đội khăn mặc áo tề chỉnh rồi ra ngoàoi uống trà với Nhiệm đạo sĩ. Sau vài tuần trà là bữa ăn sáng, bữa này cũng có rượu. Ăn uống xong, Vương lão ông đứng dậy cáo từ. Nhiệm đạ sĩ sai tiểu đồng dẫn ngựa ra cho Vương lão ông, lại thưởng tiền cho hai gia nhân. Lúc sắp ra về, Vương lão ông gọi Kính Tế ra dặn: - Ở đây phải gắng công học tập kinh điển, lại phải nghe lời chỉ dạy của sư phu, ta sẽ tới đây thăm ngươi luôn, đem các vật dụng cần thiết tới cho ngươi. Đoạn lại quay sang nói với Nhiệm đạo sĩ: - Nếu nó không chịu nghe lời giáo huấn, xin lão đạo huynh cứ thẳng tay trừng trị, tiểu đệ không dám che chở cho nó. Rồi lại quay lại dặn Kính Tế lần nữa: - Từ nay ngươi nhất đinh phải sửa đổi tính tình mà chuyên tâm học đạo, nếu ngươi lại không chịu an phận thì ta không ngó ngàng tới nữa đâu. Kính Tế luôn miệng vâng dạ. Vương lão ông cáo từ Nhiệm đạo sĩ, lên ngựa mà về. Từ đó Kính Tế trở thành một đạo sĩ. Nhiệm đạo sĩ tuy tuổi già nhưng thân hình cao lớn tráng kiện, mặt mũi phương phi, râu rậm như chổi, tiếng nói sang sảng, giỏi nói chuyện, uống rượu nhiều, chuyên lo việc tiếp đón khách khứa tới lui. Mọi việc trong miếu đều do đại đồ đệ Kim Tông Minh lo liệu. Nơi đây gần bến Lâm Thanh, thuyền bè qua lại rất nhiều. Khách thương qua lại thường tới miếu hoặc tế thần cầu phúc, hoặc xin xâm đoán quẻ. Tiền bạc cúng vào miếu do đó dồi dào, phẩm vật đem tới không thiếu thứ gì. Vì tiền bạc dồi dào, nên Nhiệm đạo sĩ bỏ tiền ra cho đồ đệ mở một cửa tiệm buôn bán tại bến Lâm Thanh để sinh lời. Đại đồ đệ Kim Tông Minh cũng chẳng phải là người tốt đẹp gì, năm nay ngoài ba mươi tuổi, thường la cà tửu điếm ca lâu và các nhà kỹ nữ, rõ ràng là phường tửu sắc. Theo Kim Tông Minh còn có hai tiểu đồng giúp việc cũng thường được theo Tông Minh tới đủ các nơi. Tông Minh thấy Kính Tế hình dung nho nhã thanh tao, mặt mày tuấn tú thì gọi tới, bảo ở chung phòng với mình. Tối đầu tiên, Kim Tông Minh dọn rượu, cùng Kính Tế uống tới đêm. Lúc đi ngủ, Tông Minh cho Kính Tế nằm cùng giường, nhưng sau thì chê chân Kính Tế đi giày có mùi hôi, bèn đuổi qua giường bên cạnh. Kính Tế không nói gì, nhưng trong bụng nghĩ thầm: "Tên này láo thật, nó coi mình không ra gì. Được rồi, cứ để đó, mình sẽ dịu ngọt với nó để nó chia cho mình ít tiền. Nhưng bây giờ thì phải cho nó biết tay đã". Nghĩ xong, cất tiếng kêu lớn lên. Tông Minh sợ Nhiệm đạo sĩ nghe được, vội nhỏm dậy chạy sang bịt miệng Kính Tế mà bảo: - Kìa, hiền đệ, đừng kêu lớn như vậy, hiền đệ muốn gì tôi cũng nghe theo. Đừng có làm ồn. Kính Tế thấy sự thử thách bước đầu có lợi, liền tấn công ngay: - Nếu vậy thì đạo huynh phải nghe theo tôi ba điều mới được. Tông Minh bảo: - Điều gì cũng được, tôi nghe theo hiền đệ hết. Kính Tế bảo: - Từ nay huynh không được ngủ chung với hai tên tiểu đạo của huynh nữa. Điều thứ nhì là chìa khoá tất cả các cửa lớn nhỏ trong miếu, huynh phải để tôi giữ. Còn điều thứ ba là tôi muốn đi đâu thì đi, huynh không được ngăn cản hoặc mách lại với sư phụ. Nếu huynh chịu ba điều đó thì tôi không tố cáo chuyện gì của huynh cả. Tông Minh đáp: - Không sao, tôi bằng lòng hết. Từ đó hai người ngủ chung, chuyện trò thân mật tương đắc lắm. Tông Minh cũng giữ đúng lời hứa, giao hết các chìa khoá cho Kính Tế. Hai người toa rập nhau trong việc lén lút ăn chơi. Trước mặt Nhiệm đạo sĩ, Tông Minh luôn luôn khen ngợi Kính Tế là thành tâm học đạo. Nhiệm đạo sĩ tin lắm, giao chuyện tiền bạc cho Kính Tế. Thỉnh thoảng, Kính Tế lại giấu bớt tiền bạc do khách thập phương cúng, để ra bến Lâm Thanh, ăn chơi tại các nhà kỹ nữ ca nhi. Một lần, Kính Tế quen được với một ca nữ là Trần Tam Nhị Tam Nhi cho biết là mụ đầu của Phùng Kim Bảo đã chết rồi, Kim Bảo bị đem bán cho nhà họ Trịnh, hiện Kim Bảo đang tiếp khách tại tửu lầu của nhà họ Tạ, Trần Tam Nhi kể xong lại hỏi: - Chàng có muốn tới đó thăm nó không? Kính Tế nghe vậy, tưởng nhớ tới Kim Bảo khôn nguôi, bèn trở về miếu trộm thêm tiền, rồi cùng Trần Tam Nhi tới ngôi đại tửu lầu trên bến Lâm Thanh. Thật là: Oan gia năm đời tụ hội, Nhân duyên mấy kiếp tương phùng. Toà tửu lầu này lớn và đẹp bậc nhất tại bến Lâm Thanh, trên dưới có cả trăm phòng cho khách tới uống rượu vui chơi, xung quanh có lan can, lưng dựa vào núi, mặt ngó ra sông, quả là nơi ăn chơi sang trọng nhất. Trước mặt thuyền khách đậu hàng dài, xe ngựa chen chúc, vương tôn công tử và các khách thương giàu có lui tới tấp nập. Khung cảnh trong tửu lầu lộng lẫy đến hoa cả mắt, suốt ngày đêm là ca vũ đàn kịch. Trần Tam Nhi dẫn Kính Tế lên ngồi tại một phòng trên lầu, gọi tửu bảo dọn cơm rượu, rồi xuống lầu tìm Kim Bảo. Lát sau, có tiếng chân bước lên trên cầu thang, rồi Kim Bảo bước vào. Hai người nhìn nhau, không nói được lời nào mà chỉ khóc. Thật là: Mặt nhìn mặt, luống ngỡ ngàng Nghẹn lời không nói, đôi hàng châu sạ. Qua phút bàng hoàng, Kính Tế mới kéo Kim Bảo ngồi xuống mả hỏi: - nàng ơi, bấy lâu nay nàng ở đâu mà tôi tìm hỏi không ra? Kim Bảo gạt lệ đáp: - Từ sau khi chia ly, mẫu thân tôi vì lo sợ nên chẳng bao lâu thì qua đời, tôi bị đem bán cho Trịnh Ngũ ma ma, bây giờ thì tôi tiếp khách tại các tửu lầu, nhưng thường ở tửu lầu này nhất. Hôm qua Tam Nhi có nói là chàng coi sóc cửa tiệm tại đây, hôm nay gặp lại chàng thật không biết nói gì. Nói xong lại khóc. Kính Tế rút khăn lau nước mắt cho Kim Bảo rồi nói: - Nàng ơi, xin đừng quá phiền não, tôi bây giờ lại khá rồi. Sau khi gặp chuyện không may như nàng đã biết, nhà cửa của cải tôi chẳng còn gì, phải vào làm đạo sĩ trong miếu gần đây, nhưng tôi được trưởng đạo tin cậy lắm, lại cũng có đồng ra đồng vào, từ nay tôi sẽ đến với nàng luôn. Lại hỏi: - Hiện nay nàng cư ngụ tại đâu? Kim Bảo đáp: - Tôi ở ngay tại tửu lầu này với Lưu Nhị. Tửu lầu này có tới một trăm mười phòng, các ca nhi kỹ nữ đều được ở luôn tại đây. Hai người trò chuyện một lúc thì Kim Bảo mời Kính Tế về phòng mình dọn rượu khoản đã, lại lấy đàn tỳ bà ra đàn hát cho Kính Tế uống rượu. Hát rằng: Ba chén ly bôi Ly bôi ba chén Lệ chảy đôi hàng Đôi hàng lệ chảy Loan Phụng chia lìa Tơ duyên chợt gãy Loan xa phượng rồi Ánh tà huy thoi thóp bên trời Đêm về ngày hết Vẫn còn quyến luyến bồi hồi Dùng dằng mãi không thôi. Đàn hát xong, Kim Bảo ngồi cạnh chuốc rượu cho Kính Tế. Lát sau, tình cũ dâng lên lai láng, hai người chung gối chung chăn. Tới chiều, Kính Tế đưa cho Kim Bảo một lạng bạc, lại thưởng cho Tam Nhi ba trăm tiền đồng. Lúc về, Kính Tế còn dặn Kim Blấy đâu, lấy như vậy rồi ăn nói làm sao với phu nhân Chu lão gia. Nguyệt nương bảo: - Tẩu tẩu cũng có công lao mệt nhọc, tôi còn phiền luỵ nhiều, cứ lấy đi, tôi không nói ra thì làm sao phu nhân biết được. Nói xong lại nhờ Tiết tẩu đem lễ vật, gồm bốn món ăn, nửa con lợn, nửa con dê, một vò rượu và một xấp đoạn, đem tới phủ Thủ bị tạ Ơn Xuân Mai. Đại An ăn mặc tử tế cầm thiếp đi theo. Hai người đem lễ vật vào hậu đường, Xuân Mai bước ra, đầu đội mũ kim lương, mình mặc quần áo gấm thêu, a hoàn xúm xít xung quanh. Đại An bước tới sụp lạy mà đưa thiếp. Xuân Mai nhận thiếp rồi sai a hoàn đem trà mời uống. Đoạn bảo: - Chuyện không đáng gì mà Đại nương ở nhà phải phí tâm, xin miễn đi cho mới phải. Đại nương cho quá nhiều như thế này, làm sao ta dám nhận, sợ lão gia ta không bằng lòng. Đại An thưa: - Đại nương tôi nói rằng chuyện tên Bình An khiến cho lão gia và phu nhân đây phải phí tâm, chẳng biết lấy gì báo đáp, chỉ có chút lễ mọn, xin phu nhân nhận cho, để thưởng cho người dưới. Xuân Mai lắc đầu: - Nhận làm sao được. Tiết tẩu ngồi bên nói: - Nếu phu nhân không nhận rồi tôi biết ăn nói làm sao với Đại nương? Xuân Mai đành nhận món ăn và rượu thịt, còn xấp đọan thì trả về, lại thưởng cho Đại An mấy cái khăn và ba tiền, đọan hỏi: - Ca nhi ở nhà mạnh không? Đại An đáp: - Ca nhi chơi đùa mạnh khoẻ lắm. Xuân Mai lại hỏi: - Ta nghe nói ngươi và Tiểu Ngọc đã thành vợ chồng, từ bao giờ vậy? Đại An đáp: - Mới hồi tháng tám. Xuân Mai bảo: - Ngươi về thưa với Đại nương là lão gia và ta cám ơn lắm, hôm nào rảnh, thỉnh Đại nương sang đây chơi. Hồi này ta cũng rảnh, đợi ra giêng, ca nhi ở đây đầy năm xong là ta cũng tới thăm Đại nương. Đại An nói: - Để tôi về thưa lại, Đại nương tôi sẽ tới thăm phu nhân. Nói xong đứng dậy cáo từ. Tiết tẩu bảo: - Chú mày cứ về trước, ta còn ở lại hầu chuyện phu nhân đây. Đại An ra về. Tới nhà thưa với chủ: - Phu nhân tiếp đãi tử tế lắm, nói là hôm nào thỉnh Đại nương quá bộ qua chơi. Phu nhân mời tôi uống trà, hỏi thăm ca nhi, cho tôi mấy chiếc khăn và ba tiền, lại dặn là cảm ơn Đại nương nhiều lắm, ra giêng sẽ qua thăm Đại nương. Nguyệt nương chưa kịp nói gì, Đại An đã kể tiếp: - Phu nhân sang trọng lắm, một mình ở nguyên một toà hậu đường năm gian đồ sộ, đầu đội mũ kim lương, mặc toàn quần áo gấm thêu, hồi này mập mạp hơn trước, gia nhân a hoàn chật nhà. Nguyệt nương hỏi: - Có thật Xuân Mai nói là ra giêng sẽ tới thăm ta không? Đại An đáp: - Thật mà, phu nhân dặn tôi phải thưa lại như vậy. Nguyệt nương bảo: - Nếu vậy thì ta sẽ cho người tới rước. Lại hỏi: - À, còn Tiết tẩu đâu, sao không thấy? Đại An đáp: - Lúc tôi về thì Tiết tẩu còn ngồi lại nói chuyện với phu nhân. Từ đó hai nhà đi lại với nhau mật thiết lắm. Thật là: Thế thái nhiều khi ấm lạnh, Nhân tình có lúc nhạt nồng. Nói cho cùng, trò đời là như vậy, ăn ở tiền khinh hậu trọng đâu phải chỉ có một mình Nguyệt nương.