Trạng Ăn - Lê Như Hổ
:::Trạng Ăn:::
Ở Hưng Yên, huyện Tiên Lữ, làng Tiên Châu xưa có một người tên là Lê Như Hổ, nhà
nghèo mà học giỏi, nhưng ăn khỏe quá, mỗi bữa ăn một nồi bảy cơm (đáng lẽ mười
người ăn mới hết) mà không no. Cha mẹ ông không kiếm đủ cho con ăn, buồn lắm,
phải cho Lê Như Hổ gửi rể một nhà giàu ở làng Thiên Thiên.
Ở nhà vợ, Lê Như Hổ ăn mỗi bữa một nồi năm, nhưng không dám đòi thêm, sợ cha mẹ
vợ buồn. Vì thế, ông không mạnh nên việc học hành có ý hơi lơ đãng. Bố mẹ vợ
phàn nàn với bố mẹ đẻ Lê Như Hổ.
Ông bố đẻ mới hỏi:
- Chớ tôi hỏi thực ông, mỗi bữa ông cho cháu ăn uống ra sao?
- Mỗi bữa, tôi cho cháu ăn một nồi năm.
- Thảo nào! Nhà tôi tuy nghèo mà còn phải cho cháu ăn mỗi bữa một nồi bảy. Ông
cho cháu ăn ít nên nó biếng nhác là phải lắm. Ông thử cho cháu ăn thêm coi.
Ông bố vợ nghe lời, về cho con rể ăn mỗi bữa một nồi bảy. Lê Như Hổ học có ý
chăm hơn trước một chút thôi. Mẹ vợ thấy con rể như thế phàn nàn với chồng:
- Ăn một nồi bảy cơm mỗi bữa mà tối đến chỉ học được dăm ba tiếng. Ông khéo lựa
rể quá. Cái ngữ này chỉ ăn khỏe cho mập thôi, chớ có gượng mà học cũng chỉ là
học lấy lệ, chớ chẳng trông cậy gì được đâu.
Ông bố vợ nói:
- Nó ăn khỏe tất có sức hơn người. Trời cho nhà mình đủ ăn thì cứ việc gì nói ra
nói vào lôi thôi.
- Ông nói tức anh ách. Cứ ăn khỏe thì làm việc khỏe hay sao? Thì đấy, nhà ta có
mấy mẫu ruộng bỏ hoang, cỏ mọc ngập đầu người đấy, ông nó đi dọn xem có được
không nào.
Lê Như Hổ nghe thấy mẹ nói thế, tức quá, hôm sau ăn cơm sáng xong vác con dao
phát bờ ra ruộng. Ðến nơi thấy, có cây cao bóng mát, ông nằm ngủ một giấc say
sưa. Mẹ vợ đi chợ về qua đấy, thấy con rể gối đầu lên gốc cây ngáy pho pho, lật
đật chạy về nhà gắt với chồng:
- Kìa, ông ra ruộng mà xem con rể ông kia. Tưởng là ăn xong vác dao ra ruộng làm
gì, hóa ra ngủ khoèo. Ông còn bảo tôi thổi thật nhiều cơm cho nó ăn nữa hay
thôi?
Bà lôi cho được ông chồng ra ruộng để xem tận mắt thằng con rể ăn khỏe mà "lười
chẩy thây chẩy xác" ra. Bất ngờ ra đến nơi thì cả hai ông bà đã thấy ruộng sạch
quang cả rồi. Thì ra trong khi bà mẹ vợ từ ruộng về nhà, ngầy ngà cãi nhau với
chồng thì Lê như Hổ đã thức giấc, cầm dao phái cỏ như điên. Cỏ hoang bụi rậm đều
bị chặt phăng phăng, thậm chí có những cái vũng lầy có cá cũng không kịp chạy,
chết nổi lều bều cả lên mặt nước.
Ðến lúc ấy, bố mẹ vợ Lê Như Hổ mới biết kỳ tài của con rể. Cũng từ hôm ấy, bà mẹ
vợ bữa nào cũng thổi riêng một nồi mười cho rể ăn cho đủ no thì quả Lê Như Hổ
học hành không biết mệt.
Một hôm, mẹ vợ Lê Như Hổ sai Lê Như Hổ đi kêu thợ về gặt lúa. Lê Như Hổ bảo:
- Mẹ ở nhà cứ thổi cơm sẵn, con kêu họ về, họ ăn xong là làm việc liền.
- Con kêu thợ gặt, nhưng không ai chịu làm. Thôi, để con ăn xong, làm một mình
cũng được.
Nói xong, Lê Như Hổ ngồi ăn hết cả một nồi hai mươi. Bố mẹ vợ trông thấy phát
sợ, hỏi:
- Con ăn như thế không sợ bể bụng ra?
Lê Như Hổ cười:
- Con ăn một nồi hai mươi cũng như người ta ăn ba bốn chén. Cha mẹ đừng lo, ăn
xong, con đi làm liền. Con xin cam đoan làm một mình đến chiều tối thế nào cũng
xong.
Ăn xong nồi hai mươi, Lê Như Hổ đem liềm hái và gánh đòn càn ra ruộng. Quá trưa,
đến chiều thì xong hết. Lê Như Hổ bó lúa lại làm bốn gánh chất cả lên đòn càn
quảy về luôn một lúc. Bao nhiêu thợ cấy thấy ông một mình gánh nhiều như thế mà
cứ đi phăng phăng như không, đều phải lắc đầu le lưỡi.
Từ đó, bố mẹ vợ Lê Như Hổ hết sức quí mến Lê Như Hổ.
Hồi ấy ở một làng gần đấy, nhân tiết xuân có mở hội đánh vật hàng năm. Năm nào.
Lê Như Hổ cũng đến phá giải. Ðô vật nào thấy ông cũng đều chịu thua, vì ông ta
mạnh như hổ, không ai sánh kịp (vì thế mới có tên Như Hổ).
Võ đã giỏi, văn ông lại hay. Từ ngày được bố mẹ vợ cho ăn no, Lê như Hổ học hành
tấn tới một cách lạ kỳ. Năm ba mươi tuổi, văn ông đã lừng lẫy hết cả vùng Hưng
Yên, sang đến Thái Bình, Nam Ðịnh. Ông đỗ tiến sĩ trong thời Quang Hòa nhà Mạc.
Bấy giờ có một người đỗ đồng khóa với Lê Như Hổ, tên là Nguyễn Thanh, người
huyện Hoàng Hóa, tỉnh thanh Hóa. Một hôm, Nguyễn Thanh nói với Lê Như Hổ về nhà
của mình:
- Nhờ trời, tôi cũng khá, chẳng giàu có gì nhưng ăn cả đời chưa hết.
Lê Như Hổ nói:
- Cả gia tài của bác, may ra chỉ đủ cho tôi ăn vài tháng.
Nguyễn Thanh nghe thấy nói thế, cho là Lê Như Hổ đùa giai, bèn nói:
- Bác khinh tôi quá. Cả gia tài tôi như thế mà bác bảo chỉ đủ cho bác ăn ba
tháng. Bác không sợ mang tiếng nói dóc sao?
- Dóc hay không, chẳng cần nói lôi thôi làm gì? Hôm nào bác thử mời tôi ăn một
bữa xem sao.
Thấy Lê Như Hổ thách như vậy Nguyễn Thanh mời liền.
Lê Như Hổ một hôm đến nhà Nguyễn Thanh thực nhưng chẳng may hôm ấy Thanh lại có
việc quan vắng nhà.
Như Hổ đi thẳng vào nhà nói với vợ Nguyễn Thanh:
- Tôi với quan Nghè đây là bạn tâm giao, hôn nay có việc qua đây vào thăm bác và
nhờ bữa cơm.
Bà vợ Nguyễn Thanh ân cần tiếp rước, một mặt gọi gia đình đầy tớ làm heo làm gà,
một mặt hỏi Lê Như Hổ có bao nhiêu quân lính để liệu đầu người mà thổi nấu.
Lê Như Hổ nói:
- Thưa phu nhân, không có bao nhiêu, chỉ có độ hơn ba mươi người.
Bà Nguyễn Thanh sai làm ba mươi heo, dọn bảy tám mâm cỗ ra mời Lê Như Hổ dùng
cơm, nhưng đợi mãi cũng chẳng thấy quân lính nào vào ăn cả. Lê Như Hổ cười mà
bảo:
- Ối chao, họ không tới thì mặc, để tôi ăn cả cũng được.
Nói rồi ông ngồi ăn hết cả bảy tám mây cỗ, chỉ một lát thì làm bay hết cả mấy
nồi hai mươi cơm, hai con heo, mấy mâm sôi, còn gà vịt, rau cải không thèm kể.
Ăn xong, Lê Như Hổ từ tạ ra về.
Ðến chiều tối, ông Nguyễn Thanh trở về, bà vợ kể chuyện lại và lè lưỡi sợ ông
bạn ăn khỏe như thần, Nguyễn Thanh vỗ đùi bảo:
- Thôi, Lê Như Hổ rồi!
Bà vợ nói:
- Ờ, đúng đấy, ông ta ăn như hổ. Tôi ở nhà dưới nhìn lên thấy ông ta sới cơm ra
chén chỉ và một miếng thì hết, còn sôi thì ông ta chỉ ăn độ mười miếng thì hết
một mâm.
Một bữa khác, Nguyễn Thanh đi qua làng Lê Như Hổ, bước vào nhà thăm, nhân thể để
tạ lỗi, Lê Như Hổ sai người nhà cũng làm ba con lợn, thổi năm sáu mâm sôi, ba
bốn nồi hai mươi cơm, y như hôm vợ ông Nguyễn Thanh đã đãi mình để đãi lại
Nguyễn Thanh. Mỗi người ngồi riêng một bàn. Lê Như Hổ ăn hết bàn mình mà Nguyễn
Thanh thì ngắc ngứ ăn chưa hết một phần sáu. Lê Như Hổ đành lại phải ăn giùm cho
Nguyễn Thanh. Ông Thanh hỏi:
- Thế thì gia nhân đầy tớ còn gì mà ăn nữa?
Lê Như Hổ nói:
- Gia nhân thổi cơm và nấu đồ riêng để ăn rồi. Ông không cần phải lo.
Nguyễn Thanh chắc lưỡi than:
- Ông ăn như thế, mấy lúc mà hết nghiệp. Ngày xưa, ông Mộ Trạch nổi tiếng là
người ăn khỏe mà chỉ ăn hết mười tám bát cơm, mười hai chén chanh là cùng. Bây
giờ thấy ông ăn, mới biết ông Mộ Trạch còn kém ông xa lắm.
Hai người cùng cười ầm cả lên. Về sau, Lê Như Hổ làm đến thượng thư, được vua
phong làm Thiếu bảo Lữ Quốc Công, thọ bảy mươi tuổi.
Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan
:::Trạng Bùng:::
Phùng Khắc Khoan là người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (Bắc
Việt).
Theo sách sử để lại thì ông Phùng Khắc Khoan là anh em cùng mẹ khác cha với ông
Trạng Trình. Nguyên bà mẹ ông Trạng Trình và Phùng Khắc Khoan là Từ Thục phu
nhân là người họ Nhữ, con gái quan Hộ bộ thượng thư là Nhữ văn Lang ở làng An
Tử, huyện Tiên Minh. Bà là người học giỏi, thơ hay, lại tinh thông lý số.
Lấy ông Vân Ðịnh, sinh ra Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, bà Từ Thục phu nhân nửa
đường đứt gánh, lên Sơn Tây lấy chồng khác rồi sinh ra Phùng Khắc Khoan. Cũng
như Trạnh Trình, Phùng Khắc Khoan có tư chất thông minh từ nhỏ. Lúc lớn lên, bà
cho xuống Hải Dương theo học ông anh là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông Khiêm hết lòng dạy dỗ em nên chẳng mấy lúc Phùng Khắc Khoan nổi tiếng văn
chương tài đức.
Lúc bấy giờ, nhà Lê giữ ở Thanh Hóa. Tính độn, Trạng Trình biết rằng nhà Lê thế
nào cũng có thời trung hưng, ông bèn sai Phùng Khắc Khoan vào Thanh Hóa phò nhà
Lê. Gặp Phùng Khắc Khoan, vua Lê Trang Tôn mừng lắm, đãi vào hàng quân sư. Phùng
Khắc Khoan lập nhiều mưu kế, có nhiều kế hoạch để lấy lòng dân, thu dụng người ở
các nơi lân cận. Vua Trang Tôn tin dùng hết sức. Ðến thời vua Thế Tôn khôi phục
thành Thăng Long, vua sai Phùng Khắc Khoan đi sứ nhà Minh để vận động phong
tước. Nhà Minh phong vua Thế Tôn là "An Nam đô hộ sứ".
Khắc Khoan trả lại sắc phong cho vua Minh và tâu:
- Chúa tôi là họ Lê, nguyên là dòng dõi nước Nam, không có tội tình như họ Mạc
mà thiên triều lại phong tước như họ Mạc, chúa tôi không nhận sắc mệnh được. Dám
mong thiên triều xét lại, chớ quả là không dám nhận.
Thấy Phùng Khắc Khoan trình thế, vua Minh tự nhủ "quan chức của Thế Tôn, mà ăn
nói đàng hoàng, lý sự như thế, chắc hẳn Thế Tôn không phải người vừa".
Bèn đổi sắc lệnh mà phong cho Thế Tôn làm "An Nam Quốc vương".
Trong thời ky đi sứ nhà Minh bên Tàu, gặp ngày Tết Nguyên Ðán, vua Minh ra lệnh
cho các đình thần và các sứ thần ngoại quốc mỗi người phải làm một bài thơ chúc
mừng. Ai cũng dâng lên một bài. Riêng Phùng Khắc Khoan ngay lúc đó dâng lên tới
ba mươi sáu bài thơ, ý khác nhau, lời khác nhau, làm cho vua Minh phải kinh ngạc
sao lại có người làm thơ hay mà nhanh đến như thế. Vua Minh bèn phê cho đỗ Trạng
nguyên (Trạng nguyên cả nước Nam lẫn nước Tàu) vì thế mới có tên là Trạng Bùng
(vì ông Phùng Khắc Khoan sinh ở làng Phùng xá, tứ là làng Bùng).
Tục truyền khi Trạng Bùng đi sứ về đến Lạng Sơn ông được thấy bà Liễu Hạnh hiện
lên trên đỉnh núi mà ở dưới chân núi thì gỗ để ngổn ngang, lại có chữ "Liễu
Hạnh" và chữ "Bùng". Ông biết ý Chúa Liễu liền cho lập đền thờ Chúa Liễu ngay
tại đó.
Về sau về đến Hồ Tây, bà Chúa Liễu lại hiện ra lần nữa để tạ ơn ông. Hai người
làm thơ sướng họa với nhau rất nhiều, người sau bình phẩm không thể quyết thơ
của người nào hay hơn thơ người nào.
Trạng Hầu - Mạc Ðình Chi
:::Trạng Hầu:::
Ngoài Phùng Khắc Khoan, ông Mạc Dĩnh Chi cũng là trạng nguyên của hai nước Nam
và nước Tàu.
Sách "Nam Hải Dị Nhân" chép rằng Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lũng
Ðổng huyện Chí Linh (Hải Dương, Bắc Việt) nguyên về giòng giõi quan thái thú Mạc
Hiển Tích về triều nhà Lý (Hiển Tích đỗ trạng nguyên đời vua Trung Tôn nhà Lý,
làm đến Lại bộ thượng thư)
Tục truyền làng Lũng Ðổng có một khu rừng rậm, cây cối bùm tum, lắm giống hầu
(con khỉ) ở. Mẹ ông ấy thường khi vào rừng kiếm củi, phải con hầu đực bắt hiếp.
Về nói với chồng, chồng ăn mặc giả làm đàn bà, giắt sẵn con dao sắc vào rừng,
con hầu quen thói lại ra, bị ông kia chém chết bỏ thây tại đấy.
Sáng hôm sau ra xem thì mối đã đùn đất lấp hết, thành gò mả.
Bà kia từ đấy thụ thai, đủ tháng sinh ra Mạc Ðĩnh Chi, mặt mũi xấu xí, người nhỏ
loắt choắt tựa như giống hầu.
Mạc Ðĩnh Chi lớn lên bốn năm tuổi, tư chất thông minh hơn người. Bấy giờ Hoàng
tử là Chiêu Quốc Công mở trường dạy học trò, Mạc Ðĩnh Chi vào học. Ðến năm gần
hai mươi tuổi là năm Giáp Thìn đời vua Anh Tôn nhà Trần, Mạc Ðĩnh Chi thi đình
văn đáng đỗ đầu cả mọi người nhưng vua trông thấy người hình dáng xấu xa, toan
không cho đỗ Trạng nguyên, Ðĩnh Chi làm một bài phú "Ngọ tỉnh liêu" để ví vào
mình, vua mới lại cho đỗ Trạng Nguyên.
Khi Mạc Ðĩnh Chi phụng mênh sang sứ nhà Nguyên bên Tàu, có hẹn trước với người
Tàu ngày mở cửa ải. Bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn; hôm sau
mới đến thì người Tầu đóng cửa không cho vào. Ðĩnh Chi nói tử tế xin cho mở cửa.
Người Tầu ra một câu từ trên ải ném xuống và bảo hễ đối được thì mở cửa.
Câu ra:
"Quá quan trì, quan quan bế; nguyện quá khách quá quan".
Nghĩa là: Qua ải chậm, người coi ải đóng cửa ải, mời khách qua đường qua ải mà
đi.
Ðĩnh Chi viết nagay một mảnh giấy, đối lại đưa lên:
"Xuất đối dị, dối đối non, thỉnh tiên sinh tiên đối".
Nghĩa là: Ra đối dễ, đối lại khó, mời tiên sinh đối trước.
Người Tàu khen có tài nhanh nhẩu, mới mở cửa ải cho vào. Khi đến cửa Yên Kim,
người tàu thấy ông xấu xa, có bụng khinh bỉ. Một hôm, viên tể tướng Tàu mời vào
phủ đường ngồi chơi, Ðĩnh Chi trông thấy trên bức tường có thêu con chim sẻ vàng
đậu trên cành trúc, tưởng là chim thực, đứng dậy chạy lại bắt. Người Tàu cười ầm
cả lên. Ðĩnh Chi xé tan ngay bức trướng ấy ra.
Chúng ngạc nhiên hỏi cớ làm sao thì thưa rằng:
Tôi có nghe người ta thường vẽ chim sẻ đậu cành mai không ai vẽ đậu cành trúc.
Nay tể tướng sao lại cho vẽ thế. Trúc là giống cây quân tử, chim sẻ là loài vật
tiểu nhân, vẽ thêu như thế là ra cho tiểu nhân ở trên quân tử, tôi e rằng đạo
tiểu nhân mỗi ngày thịnh lên, mà đạo quân tử mỗi ngày suy đi, nên tôi trừ giúp
cho thánh triều đấy thôi:
Chúng chịu là biện bác có lẽ.
Ðến khi vào chầu, nhân có ngoại quốc dâng một đôi quạt quý. Vua Tàu xai Ðĩnh Chi
và một người sứ Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.
Sứ Cao Ly làm xong trước.
Lời tâu rằng:
"Uẩn lòng trùng trùng, y Doãn Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề".
Nghĩa là: Ðang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Côn (ý là đắc dụng với
thời). Ðến khi mưa tuyết lạnh ngắt thì như Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó
một chỗ).
Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang quản bút bên
kia, biết là lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này:
"Lưu kim thước thạnh thiên địa vi lô nhi ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì
lương, vủ tuyết tái đô; nhi ư tư thời hề Di Tề ngã phu. Y ! dụng chi tắc hành xả
chi tắc tàng, dụng ngã nhữ hữu thị phù ?"
Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò lửa, người về lúc ấy ví như Y,
Chu, hai ông quan to. Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về lúc ấy ví
như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi ! Khi dùng đế thì ra khi không dùng đến
thì cất đi, chỉ ta với người đuợc thôi.
Ðề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "y", phê rằng "Lưỡng quốc trạng
nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước.
Thường khi Mạc Ðĩnh Chi cưỡi lừa đi đường, chạm phải ngựa Tàu. Người kia đọc lên
một câu rằng:
"Sú ngã kỵ mã, Ðong di chi nhân dã ! Tây di chi nhân dã ! Tây di chi nhân dã".
Nghĩa là: Chạm vào ngựa của ta cưỡi, ấy là người Ðông di hay Tây di?
Mạc Dĩnh Chi chả lời liền:
"Át dư thừa lư, nam Phương chi cường dư ! Bắc Phương chi cường dư !"
Nghĩa là: Chắn đường lừa ta đi, thử xem người Nam phương mạnh hay ngoời Bắc
phương mạnh.
Lại thường đối đáp người Tàu, Tàu ra rằng:
"An nữ khứ, thi nhập vi gia"
Nghĩa là chữ an, bỏ chữ nữ, chữ vào là chữ gia.
Ðối rằng:
"Tù, nhân xuất; vương lai thánh quốc"
Nghĩa là: Chủ từ bỏ chữ nhân, chũ vương đến thì là chữ quốc.
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau tất cả người làm đến đế vương nhưng hiềm về chữ quốc đơn thì
hưởng nước không được tràng cửu mấy nỗi.
Lại ra:
"Nhật hỏa vân yên; bạch chú thiêu tàn ngọc thỏ".
nghĩa là: Lửa mặt trời khói đám mây, ngày trắng đốt tàn con thỏ ngọc.
Ðối:
"Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô".
Nghĩa là: Cung mặt nguyệt, dạn nhôi sao chiều hôm bắn rụng cái ô vàng.
Người Tàu phê rằng:
- Con cháu về sau tất có người cướp nước. (Mạc Ðặng Dung về sau giết vua cướp
nước).
Một khi bà hoàng hậu ở Tàu mất, vua Tàu sai ông Mạc Ðĩnh Chi vào đọc văn tế. Ðến
lúc quì xuống cầm bản văn đọc thì chỉ thấy một tờ giấy trắng, có bốn chữ "nhất".
Ðĩnh Chi không nghĩ ngợi gì, đọc ngay rằng:
"Thanh thiên nhất đóa vân, hồng tô nhất điểm tuyết, ngọc uyển nhất chi hoa, giao
trì nhất phiến nguyệt. Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết".
Nghĩa là: Một đám mây trên trời xanh, một giọt tuyết trong lò đỏ, một cành hoa
vườn thượng uyển, một vầng trăng ao Giao trì. Than ôi, mây rã, tuyết tan, hoa
tàn, trăng khuyết.
Bài văn này còn chép vào sử Tàu. Người Tàu ai cũng chịu tài ứng biến nhanh.
Ðĩnh Chi làm quan liêm chính hết sức, vua Minh Tôn thường sai người đem mười
quan tiền, rình lúc tối bỏ vào cửa nhà ông ấy. Sớm mai, ông vào tâu ngay với
vua, xin bỏ tiền ấy vào kho.
Vua bảo rằng:
- Tiền ấy không có ai nhận thì nhà ngươi cứ việc lấy mà tiêu.
Bấy giờ Mạc Ðĩnh Chi mới lấy. Ðến triều vua Hiền Tôn, làm nên đến chứ Tả bộc xạ
(Tể tướng). Văn chương lưu truyền lại về sau rất nhiều. Con ông là Khẩn, Trực,
cùng làm đến ngoại lang. Cháu là Ðịch, Toại, Viên cùng có quyền thế, làm quan
lúc nhà Minh cai trị. Ðời cháu chắt thiên sang ở làng Cổ Trai, huyện Nghị dương
thì có Ðặng Dung là cháu bẩy đời, làm vua nhà Mạc.
Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm
:::Trạng
Trình:::
Tiên sinh húy là Bỉnh Khiêm, hiệu là Bạch vân cư sĩ người làng Trung am, huyện
Vĩnh lại, tỉnh Hải dương. Tiên thế nhà ngài có âm đức, đời ông là Văn Tỉnh được
phong tặng Thiếu bảo Tư quận công, được ngôi dương cơ, hợp vào kiểu đất của Cao
Biền. Ðời thân phụ ngài là Văn Ðịnh được phong tặng làm Thái bảo Nghiêm quận
công. Mẹ ngài là Từ Thục phu nhân họ Nhữ, nguyên là con gái hộ bộ thượng thư Nhữ
văn Lan, ở làng An Tử, huyện Tiên Minh. Bà ấy thông kinh sử, giỏi văn chương, mà
lại tinh nghề tướng số.
Bà ấy kén chồng đến ngoài hai mươi tuổi thấy ông Văn Ðịnh có tướng sinh ra quí
tử mới lấy. Về sau, lại gặp một chàng trẻ tuổi đi qua bến Hà, ngạc nhiên nói
rằng: "Tiếc thay ! Khi trước không gặp người này! " Hỏi ra thì chàng ấy là Mạc
Ðăng Dung (về sau làm vua nhà Mạc).
Bỉnh Khiêm sinh năm Tân Hợi đời Hồng Ðức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn); đẫy đà to
lớn, mặt mũi khôi ngô, chưa đầy tuổi tôi đã biết nói.
Một khi Văn Ðịnh ẵm trên tay, bỗng dưng nói rằng "Mặt trời mọc về phương Ðông".
Văn Ðịnh lấy làm kỳ dị. Ðến năm ngài lên bốn tuổi, phu nhân dậy ngài học chính
văn trong kinh truyện dậy đến đâu thuộc lòng đến đấy. Bà ấy lại dậy học thuộc
lòng vài bài thơ nôm.
Một bữa, phu nhân đi vắng, Văn Ðịnh kéo một cái dây đùa với con, rồi ngâm đùa
một câu rằng: "Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung". Ðương đọc dở dang thì Bỉnh
Khiêm tiếp: "Vén tay tiên hốt hốt rung". Văn Ðịnh thấy con thông minh, mừng lắm,
về khoe tài với phu nhân. Phu nhân nói rằng:
- Mặt trăng là phận bày tôi, sao ông lại dậy con điều ấy?
Văn Ðịnh thẹn thò xin chịu lỗi, nhưng bà ấy vẫn còn căm tức, xin từ về, nhất
định không ở đấy nữa, về sau bà ấy già đòi ở nhà bố mẹ đẻ. Nhưng tục truyền bà
ấy tức ông Văn Ðịnh lên Sơn Tây, lấy chồng khác sinh ra ông Phùng Khắc Khoan
(xem bài Trạng Bùng).
Khi Bỉnh Khiêm còn để hai trái đào, cùng bọn trẻ tắm ở bến Hàn, có người đi
thuyền trông thấy nói rằng:
- Tiếc thay cho thằng bé này, bộ da dầy lắm chỉ làm được Trạng nguyên, Tể tướng
thôi!
Khi ngài bé thì ở nhà, đến lúc lớn, nghe tiếng ông Bảng Nhỡn Lương đắc Bằng hay
chữ, mới vào Thanh Hóa theo học ông Bảng Nhỡn.
Lương đắc Bằng vốn ở làng Hội Trào, huyện Hoàng Hóa, nguyên có một chi họ lạc
sang ở Vân Nam, đời đời làm quan bên Tàu. Khi Ðắc Bằng sang sứ nhà Minh gặp một
người cùng họ là Lương nhữ Hốt cho một quyển "Thái Át thần Kinh". Ðắc Bằng đem
về học tập cho nên tinh nghề lý số, việc gì cũng tính biết được trước.
Nguyễn Bỉnh Khiêm học hết được phép thuật của ông Lương Ðắc Bằng. Khi ông Ðắc
Bằng mất, dặn lại Nguyễn Bỉnh Khiêm về sau phải trông nom con mình là Lương hữu
Khánh.
Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn, Nguyễn bỉnh Khiêm ở ẩn
một chỗ, không muốn cần tiếng tăm với đời. Bấy giờ Trịnh Tuy, Mạc Ðăng Dung cũng
cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau luông mấy năm. Ngài tính số Thái Ất, biết có
nhà Lê lại khôi phục được.
Ngài có làm bài thơ cảm hứng sau này:
Non sông nào phải buổi bình thời
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi.
Về sau nhà Mạc chiếm giữ kinh thành, bốn phương hơi yên ổn, các bạn bè nhiều
người khuyên ngài ra làm quan. Ngài bất đẵc dĩ phải ra thi đỗ Trạng Nguyên năm
Ðại Chính thứ nhà Mạc. Bấy giờ ngài đã bốn mươi tư tuổi.
Vua nhà Mạc cắt ngài làm Tả thị lang, Ðông Các đại học sĩ. Ngài làm quan được
tám năm, trước sau dâng sớ hạch mười tám người lộng thần, nhân có chàng rể là
Phạm Ðạo cũng kiêu hoạnh, ngài sợ phải vạ lây, mới từ quan cáo về dưỡng lão.
Khi ngài trí sĩ rồi, làm nhà chơi mát ở mé dưới làng gọi là Bạch Vân Am, lại bắc
hai nhịp cầu gọi là Nghênh phong và cầu Tràng Xuân, thường thường ra chơi hóng
mát. Lại làm một cái quán Trung tân ở bên sông Tuyết Giang, dựng bia ký sự mình.
Khi thì ngài bơi thuyền chơi ở bể Kim Hải và bể Úc hải, khi thì đi chơi ở các
núi An tử, núi Ngọa vân và núi Ðồ sơn. Ði đến đâu làm thơ ngâm vịnh đến đấy,
hoặc gặp chỗ nào có cây cối mát, chim kêu ríu rít thì lấy làm khoái chí lắm,
nhởn nhơ cả ngày.
Ngài tuy ở nhà, nhưng vua nhà Mạc vẫn coi ngài quí trọng, nhà nước có công việc
gì to thì sai sứ đến hỏi tận nhà, hoặc khi mời về Kinh mà hỏi. Ngài bàn định lắm
điều ích lợi cho nhà nước, nhà Mạc phong ngài làm Lại bộ thượng thư, Thái phó
Trình quốc công vì thế ta thường gọi là Trạng Trình. Năm Ất dậu, ngài phải bệnh,
Mạc Hậu Hợp sai sứ đến thăm và hỏi việc hậu sự.
Ngài bảo rằng:
- Ngày sau nước có việc, ở xứ Cao Bình tuy nhỏ nhưng cũng có thể hưởng phúc được
vài đời nữa.
Ðến sau nhà Mạc mất nước, chạy lên Cao Bình, quả nhiên còn giữ được bốn đời rồi
mới tuyệt.
Ngày 28 tháng một năm Ất Dậu, ngài mất, thọ 95 tuổi. Học trò gọi ngài là "Tuyết
giang phu tử".
Ngài học tinh về thuật số, phàm các việc tai, tường họa, phúc cùng là ngày mưa,
ngày nắng, việc gì cũng biết trước.
Có một người học trò tên là Bùi Sinh, ngài bảo người ấy về sau tất phú quí. Ðến
khi Bùi Sinh gần bảy mươi tuổi vẫn còn nghèo hèn, cho là ngài đoán số mình sai;
ngài cười không nói gì. Một hôm ngài bảo Bùi Sinh mượn một chiếc thuyền đánh cá
cho bơi ra bến Hồng Ðàm ở bể Vạn Ninh, đợi đến giờ ấy... hễ gặp cái gì thu lấy
dem về, chắc được thưởng to. Bùi Sinh tuân lời, quả nhiên gặp một bà cụ già, áo
mũ chỉnh tề, đi thuyền bị bạt phong đến đấy.
Bùi Sinh đem về phụng dưỡng tử tế. Ðược vài hôm có ông tổng đốc Quảng Ðông sai
người sang nói với vua ta rằng: Thái phu nhân chơi bể bạt phong, xem thiên văn
thì thấy ở phương Nam xin nhà vua vì nghĩa láng giềng cho kiếm giúp. Ngài sai
Bùi Sinh đem bà cụ ấy dâng lên, vì thế được phong tước là Thao quận Công.
Năm Thuận bình thứ 8 nhà Lê (1556) vua Trung tôn mất, không có con, bấy giờ
Trịnh Kiểm đang cầm quyền có bụng hồ nghi, không nghĩ ra thế nào. Hỏi Phùng Khắc
Khoan cũng không biết thế nào cho phải, mới sai người lén ra Hải Dương để hỏi
ngài, ngài chẳng nói gì chỉ ngoảnh lại bảo người đầy tớ.
- Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ.
Nói rồi, sai tiểu quét dọn đốt hương để ngài ra chơi chùa và bảo tiểu.
- Giữ chùa thờ phật thì ăn oản.
Ðó là có ý khuyên Trịnh Kiểm tìm lấy dòng dõi nhà Lê mà lập lên, mà phải cứ giữ
đạo làm tôi ăn mày phật thì mới hưởng phúc.
Sứ giả về nói với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới đón vua Anh Tôn lập lên,
quả nhiên dựng lại được cơ đồ nhà Lê mà họ Trịnh cũng đời đời vinh hiển.
Khi ấy đức Dụ tổ triều Nguyễn ta (Ðức Nguyễn Hoàng) đang có hiềm với Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm có ý muốn ám hại, đức Dụ tổ lo sợ, không biết làm thế nào để tránh
khỏi nạn, mới sai người ra hỏi ngài. Bấy giờ ngài đang chống gậy chơi trong vườn
cảnh. Trong vườn, có vài mươi ngọn núi non bộ, lại chồng đá làm một rặng núi
ngang. Trên núi cây cối rườm rà, có đàn kiến đang bò trên tảng đá, ngài nhìn xem
đàn kiến, rồi tủm tỉm cười nói:
- Một dãy núi Hoành Sơn (núi ngang) kia, có thể yên thân được muôn đời.
Người kia thấy nói vậy. Về nói với đức Dụ Tổ. Ðức Dụ Tổ biết ý, mới xin vào trấn
thủ trong xứ Thuận Quảng (trong ấy, có dãy núi Hoành Sơn), quả nhiên mỗi ngày
một thịnh, mở ra cơ nghiệp Nguyễn triều.
Học trò ngài rất nhiều nhưng chỉ có Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khanh, Nguyễn
Dữ, Trương thời Cử làm nên to mà có danh hơn cả. Phùng, Lương thâm thúy về nghề
lý học, cùng làm danh thần lúc nhà Lê trung hưng.
Khi trước ông Phùng Khắc Khoan thuê nhà đến học ngài. Lúc học giỏi rồi, ngài
đang đêm đến chơi ở nhà trọ, gõ cửa mà bảo rằng:
- Gà đã gáy rồi, sao không đứng dậy mà thổi cơm ăn, còn nằm mãi làm gì?
Lời ấy có ý giục ông Khắc Khoan vào Thanh Hóa giúp nhà Lê. Ông Khắc Khoan biết ý
thế mới cùng Nguyễn Dữ vào giúp nhà Lê, làm đến công thần.
Ngài làm thơ phú rất nhiều, đến nay vẫn còn một tập thơ đề là "Bạch vân am thi
tập" và một quyển sấm ký bây giờ vẫn gọi là "Sấm Trạng Trình".
(Theo Phan Kế Bính)
(1) Ứng về sau nhà Lê khôi phục đuợc nước.
(2) Ứng về sau nhà Trịnh giữ quyền nhà Lê.
Trạng Hiền - Nguyễn Hiền
:::Trạng Hiền:::
Trong các ông trạng nước ta, Nguyễn Hiền là ông trạng đỗ trạng nguyên sớm nhất -
từ lúc mới có mười hai tuổi.
Ông họ Nguyễn tên Hiền, quê làng Hà Dương, huyện Thượng nguyên, tỉnh Nam Ðịnh
(Bắc Việt) đỗ thủ khoa năm Bính ngọ thời vua Thái Tôn nhà Trần, đến năm sau thi
đình đỗ Trạng.
Lúc mới lên sáu, bảy tuổi, ông đi học nhà sư ở chùa, nhà sư mỗi buổi dạy mười tờ
giấy, Nguyễn Hiền học qua là thuộc làu.
Theo sách "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính, một hôm nhà sư tụng kinh vừa xong
vào phòng nằm nghỉ, mơ thấy Phật giáng xuống bảo rằng: "Nhà sư sao không bảo
Trạng cứ để cho lên chùa lờn với Phật ?" Nhà sư tỉnh dậy, soi đèn xem các tượng
Phật thì thấy sau lưng mỗi tượng có chữ đề "Phạt 30 trượng" và sau mình hai
tượng hộ pháp thì có chữ "Phạt 60 trượng" Nhận xét chữ thì chính chữ Nguyễn
Hiền. Nhà sư quở mắng Nguyễn Hiền, bắt phải lấy nước tẩy đi.
Nguyễn Hiền học các sách, qua mắt một lượt là nhớ ngay. Thơ từ phú sách, nói ra
tức là văn chương. Năm mười một tuổi đã nổi tiếng thần đồng, bấy giờ có người
học trò ở Kinh Bắc tên là Ðặng Tính, tự thị tài mình hơn cả đời. Nghe tiếng Hà
Dương có thần đồng đến chơi tận nhà, thử xem tài học ra làm sao. Khi đến ra một
bài phú:
"Phụng hoàng sào vu A cát Kì lân du vu Uyển hựu"
Nghĩa là: Chim phụng hoàng làm tổ trên A cát, con Kì lân chơi ở vườn Uyển lựu.
Nguyễn Hiền đọc ngay bốn câu dịch nghĩa như sau:
Không phải con rùa ở sông Lạc Thủy
Không phải con rồng ở sông Mạnh Hà
Ấy kia nước Hữu hùng (hùng là con gấu)
Ðóng đô ở gò Trác lộc (lộc nghĩa là con hươu).
(Bốn câu trên, câu nào cũng có tên càm thú cho nên hay)
Ðặng Tính mới nghe được bốn câu, đã lắc đầu lè lưỡi nói rằng:
- Thiên tài xin nhường bậc trẻ tuổi này !
Năm ấy thi đỗ thủ khoa. Năm sau vào thi đình, vua ra bài phúc "ấp từ từ kê mẫu
phi hồ" nghĩa là con vịt từ giã mẹ gà về hồ. Văn Nguyễn Hiền hay nhất, vua cấy
lên đỗ Trạng Nguyên, bấy giờ mới mười hai tuổi.
Trạng vào bái mạng vua trong sân rồng, vua thấy còn bé loắt chắt, lấy làm lạ hỏi
rằng:
- Trạng nguyên học ai ở nhà?
Trạng thưa rằng:
Tâu bệ hạ, tôi sinh ra đã biết ngay, còn chỗ nào không biết thì hỏi nhà sư một
vài chữ mà thôi.
Vua thấy Trạng ứng đối, chưa biết lễ phép, ăn nói không được khiêm tốn, mới cho
về học lễ phép, ba năm rồi mới dùng làm quan.
Nguyễn Hiền về nhà ở không được bao lâu có sứ Tầu đem một bài thơ ngụ ngôn sang
thử nhân tài nước Nam. Thơ rằng:
Lưỡng nhật bình đầu nhật,
Tú sơn điên đảo sơn.
Lưỡng vương tranh nhất quốc,
Tứ khẩu tung hoành gian.
Vua hỏi các quân thần thì không ai hiểu nghĩa lý ra làm sao. Phải sai hai quan
văn võ đến nhà ông Nguyễn Hiền mời vào triều để hỏi. Hai quan sứ đến làng Hà
dương, gặp một đứa trẻ trong nhà hàng, mặt mũi phương phi. Sứ giả hỏi gì đứa trẻ
ấy không thèm đáp lại. Mới đọc một câu đối nôm rằng:
"Tự là chữ, cất giằng đầu chữ tử là con, con ai con ấy?"
Ðứa trẻ đối ứng khẩu ngay:
"Vu là chưng, bỏ ngang lưng chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này?"
Sứ giả biết đứa trẻ ấy là Trạng Hiền, mới hỏi thăm đến tận nhà thì thấy Trạng
đang lúi cúi ở dưới bếp, nhân đọc một câu rằng:
"Ngô văn quân từ viễn bảo trù; hà tu nự áo"
Nghĩa là: Tôi nghe quân tử xa chỗ bếp nước, lọ là phải nịnh vua bếp.
Trạng ứng khẩu đối rằng:
"Ngã bản hữu quan cư đinh nại; khả tam điêu canh"
Nghĩa là: ta cốt có chức làm được Tể tướng, nhưng còn tạm nấu nồi canh. Nấu canh
lạt mặn tại tay cũng như chức làm tướng.
Sứ giả thất ứng đối nhanh nhẩu và có ý cao, chịu là giỏi, mới bầy kế ý vua xin
mời vào Kinh.
Trạng nói rằng:
- Thiên tử trước kia bảo ta chứa biết lễ phép, nhưng chẳng những là Trạng chưa
biết lễ phép, cả đến Thiên tử cũng chưa biết lễ phép.
Nói thế rồi nhất định không chịu đi.
Sứ giả về tâu lại với vua, vua phải đem xe ngựa và đồ lễ đến đón, bấy giờ Trạng
mới đi.
Khi đến kinh, vua đưa bài thơ của Tầu ra hỏi. Trạng Hiền cầm bút viết ra một chữ
và giải rằng:
- Câu thơ thứ nhất nghĩa là chữ nhật, ngược suôi bằng đầu nhau; thứ nhì là bốn
chữ san, ngược suôi cũng là chữ san cả; thứ ba hai chữ vương tranh nhau ở trong
một nước, thứ tư là bốn chữ khẩu ngang dọc đều là khẩu cả. Tóm lại chỉ là một
chữ điền.
Giải xong, đưa cho sứ Tầu xem, sứ Tầu phải chịu vì thế vua cử Nguyễn Hiền làm
Kim tử vĩnh lộc đại phu; sau làm đến Công bộ thượng thư, không được bao lâu thì
ông mất.
Vua thấy người đại tài như thế mà không được thọ, thương tiết vô cùng. Huyện ông
ấy nguyên tên là huyện Thượng Hiền, vua mới kiếng tên ông ấy, đỏi ra gọi là
Thượng Nguyên. Lại cấp cho năm mẫu ruộng tư điền, bắt dân ấy phải lập miếu thờ
Trạng Ác - Giáp Hải
:::Trạng Ác :::
Trạng Ác chính tên là Giáp Hải đỗ trạng nguyên Khoa Mậu Tuất năm Ðại Chính nhà
Mạc (1538). Sở dĩ có tên ấy là vì ông ngay thẳng quá, nhiều người bất mãn thù
oán và sau khi chết rồi, ông cũng vẫn không chừa tính ấy, còn hiện lên chửi cả
tiến sĩ nguyễn Văn Thịnh làm cho ông Thịnh sợ hết hồn.
Mẹ Giáp Hải là người làng Công Luận, huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên (Bắc Việt).
Bà cụ ấy khi còn trẻ nghèo lắm chỉ có một gian nhà tranh ở cạnh đường bán hàng
nước. Theo Phan kế Bính bấy giờ có một người Tầu đi qua đường, vào hàng nghỉ,
lúc đi bỏ quên một túi bạc. Cách nửa tháng nữa mới hốt hoảng lại hỏi thì bà ấy
đem cả túi bạc ra trả lại, vẫn nguyên như lúc trước.
Người khách xin biếu lại một nửa, bà ấy không lấy nói rằng:
- Tôi chỉ vì không ưa của bất nghĩa cho nên tôi mới nghèo thế nầy, sao bây giờ
tôi lại chịu lấy của ông.
Người khách cảm tạ bụng ấy, mới hỏi rằng:
- Mồ mả đấng tiên nhân nhà bà ở đâu, tôi tìm giúp cho bà một ngôi đất hay.
Bà kia nói:
- Tôi là đàn bà, chỉ có trọi một mình, không có anh em nào cả. Nay đã ngoài bốn
mươi tuổi, dù được đất hay bao giờ phát đạt? Mà phát đạt thì làm gì nữa?
Người khách nói:
Nếu được chỗ đất hay, thì dầu đàn bà cũng phát phúc.
Bà ấy mới đưa người khách đến chỗ ngôi mộ cha bà ấy. Người khách lập tức tìm đất
cho, rồi dặn rằng:
- Về sau thấy ai có nạn đến đây sẵn lòng mà cứu người ta, thì sẽ có sự may mắn.
Bà ấy ở đấy được nửa năm, xảy có người làng Bát Tràng, nhà nghèo, đi làm mướn
kiếm ăn, khi ấy trời đã tối, gặp phải mưa gió, quần áo ướt lướt thướt rét run
cầm cập, qua hàng ấy xin vào trọ một tối. Bà ấy hỏi đầu đuôi cặn kẽ, cho vào
ngủ, rồi đốt lửa cho sưởi và dọn cơm cho ăn. Ðêm hôm ấy rét lắm, mà nhà thì chỉ
có độc một chiếc chiếu. Người kia thì rét không thể nào mà không nhường được
chiếu cho. Mà để cho khổ thì chẳng đành lòng mới cho nằm chung một giường mà
ngủ.
Chàng kia đã được no ấm lại nằm chung với đàn bà lạ gì lửa gần rơm, té ra thành
tư thông với nhau. Không ngờ chàng kia bị chứng hạn thấp, chỉ một lúc thì tắt
hơi. Bà ấy kinh hoảng vô cùng, sợ người ta phát giác ra, đang đêm phải lôi ra
đám tha ma vùi xuống, mà bà ta cũng có mang từ đấy.
Ðược vài tháng nữa, người Tàu lại đến hỏi rằng:
- Từ khi táng mả đến giờ đã cứu được việc gì cho người nào chưa?
Bà ấy đưa ra chỗ mả chàng kia. Người khách ngắm nghía một hồi rồi nói rằng:
- Chỗ này là huyệt thiên tán đấy, nếu có thai thì tất sinh ra Trạng Nguyên tể
tướng.
Bà ấy đầy năm, quả nhiên sinh được một con trai, cốt cách lạ thường. Khi lên bốn
tuổi, ra chơi ngoài bờ sông, xảy có người lái buôn ở làng Sinh Kế, huyện Phương
Nhỡn, bơi thuyền qua bến, trông thấy thằng bé nhẵn nhụi, ăn cắp đem xuống thuyền
đi mất.
Bà kia tìm con đâu cũng không thấy tưởng là chết đuối dưới sông rồi, sầu thảm
không biết ngần nào.
Người lái từ khi đem đứa bé về, yêu mến lắm, khi mới lớn lên, tìm thầy cho đi
học. Giáp Hải - tên đứa bé - học hành tấn tới, văn chương hay nhất trong làng.
Ðến năm ba mươi hai tuổi, thi đỗ Trạng nguyên.
Hôm vinh qui về làng, phải phục dịch khó nhọc, có người biết nguyên ủy ông ấy,
bảo riêng với nhau:
- Không biết người ở xứ nào đến đây làm khổ dân ta thế này !
Giáp Hải nghe lỏm được câu ấy, không biết vì cớ ra sao. Một hôm, xét xem các mồ
mả tổ tiên, thì không có ngôi nào đáng phát Trạng Nguyên, trong bụng hồ nghi
lắm. Nhân mới hỏi những người quen thuộc, có người biết chuyện nói với ông ấy.
Giáp Hải mới đến tận làng Công Luận dò xem, thì thấy có bà cụ già ngoài bảy mươi
tuổi, bán hàng bên cạnh đường, trông ra tình cảnh khốn đốn lắm.
Giáp Hải sai người vào hỏi rằng:
- Bà cụ kia có chồng con gì không, sao mà khốn khó đến thế?
Bà cụ nói:
- Tôi là người ở làng này, khi xưa có sinh được một mụn con trai, đã bốn, năm
tuổi, chơi với trẻ con ở bờ sông, rồi không biết nó lạc đi đâu mất. Bây giờ chỉ
một thân, không biết nương cậy vào ai, tình cảnh sầu thảm, nói ra không xiết.
Giáp Hải độ là mẹ mình, mới sai người bảo rằng:
- Bà cụ già cả mà không có ai trông nom, đi theo về với tôi để tôi nuôi cho, có
bằng lòng không?
Bà kia nói:
- Nếu quan lớn có bụng thương tôi như thế thì phúc cho tôi lắm.
Giáp Hải mới đem về nuôi nấng, nhưng cũng chưa dám chắc là mẹ. Chân Giáp Hải vốn
có cái nốt ruồi đỏ, thường khi ngồi nhàn để lộ ra. Bà cụ ấy một hôm trôngthấy,
cứ nhìn tròng trọc không chớp mắt.
Người nhà quở rằng:
- Quí thể quan lớn, bà cụ kia sao dám nhìn mãi thế ?
Bà kia nói:
- Tôi khi xưa, sinh được một đứa con trai cũng có cái nốt ruồi như thế nay tôi
trông thấy, tôi lại nhớ đến con tôi, cho nên tôi nhìn ngắm một chút, xin quan
lớn thứ lỗi cho tôi.
Giáp Hải lập tức gọi bà ấy hỏi cặn kẽ từng tí, bà cụ ấy kể rạch ròi thủy chung.
Giáp Hải buồn rầu mà than rằng:
- Ta bậy bạ uổng mất một đời, có mẹ mà không biết; nay nhờ trời lại được gặp
đây, mới biết đến mẹ.
Về sau làm đến Lại bộ thượng thư, Tái bảo Sách quốc công, về nhà trí sĩ !
Giáp Hải nhận tổ mộ ở làng Bát tràng cho nên văn chi huyện Gia Lâm phải thờ ông
ấy. Ðến sau có ông tiến sĩ Nguyễn văn Thịnh, cho Giáp Hải là người làng Sinh kế,
và lại làm quan nhà Mạc muốn tước tên ông ấy ở trong sổ tiên hiền huyện Gia Lâm.
Ðêm nằm mơ thấy Giáp Hải mắng rằng:
- Tao tội gì mà mày tước tên tao, mày là bọn hậu sinh, sao dám khinh lờn tiền
bối, sẽ có báo ứng cho mà xem.
Ông Thịnh sợ hãi, không dám xoá tên đi nữa. Nay huyện Gia Lâm vẫn có thờ, mà
làng Bát Tràng cũng phải cúng tế.
Trạng Mõ - Khiếu Hữu Thanh
:::Trạng Mõ :::
Ngày xưa ở đất Ðồng cống, làng Hữu Thanh, tỉnh Thái Bình (Bắc Việt) có một người
mõ tên là lão Ðốp. Lão Ðốp sinh được một con trai tên là Bé. Bé không được học
hành, lên chín mười tuổi cả ngày chỉ vác mõ thay bố rao làng nước mỗi khi có tin
tức gì cần loan báo và đi chia phần biếu cho các quan viên.
Bấy giờ có một cụ thượng, tên là cụ thượng Lê, giữ chức tiên chỉ trong làng. Cụ
thượng Lê có một người con gái đẹp lắm tên là Ngọc. Không hiểu vì bé có cái tài
gì mà cô Ngọc say mê rồi ốm tương tư, một hai nếu không lấy được con lão Ðốp thì
chết chớ không chịu sống.
Cụ thượng Lê thấy thế xấu hổ vô cùng vì con gái một vị thượng quan mà lại đi say
mê một gã thường đinh mừ chữ. Ðành phải chiều lòng con gái vì lúc ấy Ngọc ốm
tương tư thập tử nhất sinh, cụ thượng Lê cho Ngọc lấy Bé nhưng đuổi con đi, nhất
định không nhận con gái nữa.
Không nản chí, Ngọc đưa chồng đi vào Thanh Hóa tìm cụ thượng Phùng là bạn cụ
thượng Lê để xin cho chồng theo học trường của cụ thượng Phùng. Tìm được trường
của cụ thượng Phùng rồi, Ngọc xưng tên tuổi họ hàng và nói thác ra Bé là em trai
vì học dốt nát và biếng lười nên cụ thượng Lê đuổi đi. Vì thương sót em, Ngọc
phải bán tư trang, đưa em lặn ngòi non nước đưa em vào đây để xin thụ giáo.
Từ đó, Ngọc thắt lưng buộc bụng buôn bán lấy tiền cho Bé theo học cụ thượng
Phùng. Bé ở luôn nhà cụ còn Ngọc thì dọn một quán nước ở riêng, một tháng đôi
lần đến thăm Bé và đem lương cho chàng.
Sau đó ít lâu, Bé vỡ trí, học đâu nhớ đấy và chẳng mấy lúc nổi tiếng là thơ hay,
phú giỏi, đứng đầu trường Bé học được thì ba năm, một hôm cụ thượng Phùng gọi
Ngọc đến bảo rằng:
- Em cháu chắc khoa này đỗ đầu thiên hạ, vậy cháu phải về thưa ngay với bác làm
tờ khai co em cháu đi học để kịp ngày thi.
- Bấy giờ Ngọc phải thú thực Bé là chồng mình. Nàng kể lại hết cả đầu đuôi câu
chuyện từ khi gặp Bé rồi bố giận đuổi đi, bấy giờ sợ không dám về. Suy nghĩ một
giây, cụ thượng Phùng bảo Ngọc về quán, để cụ tìm cách lo liệu cho Bé. Cụ viết
một bức thư cho cụ thượng Lê kể lại từ khi Ngọc đưa Bé đến xin nhập học; cuối
thư hết lời ca ngợi tính tình của Bé và quả quyết nếu Bé được đi thi kỳ này thì
thế nào cũng đoạt được khôi giáp. Kèm với thư, cụ thượng Phùng lại gửi một ít
văn bài của Bé để cho cụ thượng Lê coi.
Ðược thư cụ thượng Lê bèn vào Thanh tìm cụ thượng Phùng để xem việc thực hư ra
thế nào. Cụ thượng Phùng cho gọi Bé vào hầu. Cụ thượng Lê hỏi câu nào Bé đối đáp
chôi chảy, mạch lạc, làm cho cụ rất dỗi ngạc nhiên. Cụ thượng Lê ra cho Bé một
đè tài bắt làm bài thơ đường, vịnh cái mõ. Bé cầm bút, quỳ xuống đất viết ngay:
Vì thiên hạ điếc đã lâu ngày,
Trời mới sinh ra chiếu mõ thầy.
Phép nước vang lừng ran cửa miệng,
Lệnh làng thét lẹt khét trong tay.
Việc quan thúc bách ba dùi đốp,
Lộc thánh gia ban mấy hộc đầy.
Lộc cốc tre già măng lại mọc,
Ðầu đình chót vót bổng tầng mây.
Cụ thượng Lê xem xong chịu là hay và nói "Rõ là khẩu khí con lão Ðốp". Rồi bảo
rằng: "Ta không thể lấy họ Lê làm con rể; mầy là con lão Ðốp thì ta đặt cho mầy
họ Khiếu mà tên là Hữu Thanh".
Sau đó ít lâu cụ về làng bắt lý trưởng loại khai cho hạch thi.
Khoa thi hương năm ấy, Khiếu Hữu Thanh giật giải nguyên. Lúc xướng danh ban yến,
cụ thượng Lê viết thư bảo Hữu Thanh về làng chơi, nhưng Hữu Thanh không chịu.
Hữu Thanh về thẳng cụ thượng Phùng xin ở lại theo học nữa để chờ thi hội và thi
đình.
Tới kỳ Xuân thủ luôn bốn phen thông ưu, Hữu Thanh đỗ hộ nguyện được vua Lê sắc
từ "Ðệ nhật giấy tiến sĩ cấp đệ đệ nhất danh". Lúc vào thượng uyển xem hoa, vua
Lê ngỏ ý muốn gả công chúa Quỳnh Hoa cho Hữu Thanh. Hữu Thanh tâu lên rằng đã có
vợ, không thể phụ nghĩa được. Vua khen ăn ở thủy chung.
Cụ thượng Hà, bạn của cụ Thượng Lê và cụ thượng Phùng cũng muốn gả con gái tên
là Bích châu cho Hữu Thanh chàng cũng từ chối luôn. Vợ chàng là Ngọc nói:
- Chàng từ chối không lấy công chúa Quỳnh Hoa làm vợ là vì công chúa giầu sang,
sinh đẹp hơn em. Còn như Bích Châu thì tài mạo cũng như em, đối với em lại là
bạn từ tấm bé, sao chàng không lấy để cho em có bạn cùng gánh vác giang sơn cho
chàng.
Ðược lời của Ngọc, Hữu Thanh mới bằng lòng.
Hữu Thanh từ đó được là Trạng Khiếu. Chàng làm quan liêm chính, chỉ sáu bảy năm
thì lên được chức thượng thư, rồi tể tướng. Ðến lúc cáo lão về làng, dân làng
lập từ, nay là đền quan trạng Khiếu tại quê cũ. Về sau, nói về trạng Khiếu xuất
thân làm mõ, người ta có câu thơ rằng:
Họ Khiếu vàng trời kêu tiếng mõ kêu !
Trạng Lợn - Chung Nhi
:::Trạng Lợn:::
Họ Dương ở làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam (Bắc Việt) là một quí tộc có nhiều người
làm quan to trong triều. Ðến đời ông Dương đình Lương thì xa xút, con cháu không
nối được nghiệp cha ông, phải làm nghề bán thịt để sinh nhai.
Hai vợ chồng ông này, tuy sống trong nghề giết heo, giết bò, nhưng bản tính thực
thà, phúc đức, có tiền vẫn bố thí cho những người khó ở chung quanh và thờ trời
sợ phật, chớ không ác nghiệt như phần đông bạn đồng nghiệp lúc bấy giờ.
Một hôm, Lương ông đi lễ ở cái miếu đầu làng về thì gặp một ông cụ già vai đeo
khăn gói, tay chống gậy, hỏi thăm tìm nhà trọ.
Lương ông đáp:
- Thưa cụ, ở đây không có quán trọ nào hết. Bây giờ trời sắp tối rồi, cụ mà đi
nữa thì lỡ dỡ đường, âu là mời cụ về nhà tôi nghỉ. Tôi không có tiền nhưng đủ
cơm nước đãi cụ mươi ngày.
- Nếu cụ có lòng yêu chúng tôi muốn ở lại đây chơi ít ngày.
Ông khách mừng rỡ.
- Nếu được như thế thì còn gì hay bằng.
Lương ông hẹn đưa ông khách về nhà, tiếp đãi rất chân thành, quí hóa. Cơm nước
xong, ông khách hỏi chủ nhà làm gì. Lương ông cứ thực tình mà đáp.
- Không dám dấu cụ, tổ tiên chúng tôi xưa làm quan to tại triều, nhưng đến chúng
tôi tài hèn sức kém nên đành phải bán thịt để sinh nhai.
Hai người trò truyện một đêm, tâm đầu ý hợp. Chủ nhất định lưu khách lại vài
hôm, không ngờ ông khách lì lợm ở lại luôn ba tháng, ngày nào cũng hai bữa rượu
rồi chống gậy đi chơi la cà hết gò này sang đống nọ, hết ruộng nọ lại đến ao
kia.
Thì hóa ra ông nọ đi xem địa lý, mà ông ta không ai khác hơn là ông thánh địa lý
Tả Ao. Thấy Lương ông là một người phúc hậu, hiền lành Tả Ao muốn đáp ơn, quyết
định ở lại liền ba tháng chính là để tìm cho Lương ông một ngôi đất quý.
Tả Ao hỏi Lương ông:
- Ông bà đãi tôi thành tâm quá, tôi cảm tạ lòng ông bà hết sức. Nay tôi tìm được
một ngôi đất quí cho ông bà, vậy xin hỏi ông bà muốn gì?
Lương ông đáp:
- Bẩm cụ, tôi chẳng muốn gì cả, chỉ mong mỏi có một điều là sinh được một đứa
con trai có học hơn tôi để nối nghiệp ông cha cho khỏi mang tai mang tiếng.
Tả Ao gật đầu:
- Tưởng gì, chớ nếu chỉ có thế thì dễ lắm. Ngôi đất tôi chọn cho ông phát trạng
mà lại là Trạng không phải học. Vậy ông sửa soạn đi để tôi đặt đất cho, kẻo tôi
có việc sắp sửa phải đi xa rồi.
Lương ông bèn nhờ ông Tả Ao đặt lại ngôi mộ của thân phụ ông. Táng xong được vài
tháng thì Lương ông làm ăn thịnh vượng hơn trước. Thấy trời thương như thế, vợ
chồng Lươong ông lại càng cố tu nhân tích đức. Ðược gần một năm thì Lương bà có
thai. Trong khi Lương bà có thai, Lương ông hàng ngày thấy một hiện tượng lạ:
Nguyên từ nhà Lương ông ra chợ thì phải đi qua một cái gò kêu là gò Thần Ðồng.
Lần nào đi chọ về Lương ông cũng thấy trong lúm cây có tiếng trẻ con kêu the
thé:
- Thầy ơi lần sau đi chợ thầy nhớ mua quà cho con nhé.
Lương Ông thoạt đầu không tin, nhưng sau thấy đứa trẻ cứ nói the thé ra như thế
ông phải đáp:
- Ờ để lần sau thầy mua quà cho con.
Lương ông không muốn nói dối, hôm sau mua quà thật. Ông gọi:
- Ðứa nào đòi quà thì ra đây mà lấy.
Tiếng đứa trẻ nói vọng ra:
- Thầy cứ để đấy, con ra lấy ngay bây giờ.
Lương ông để ý thì đi một quãng, quay lại xem, gói quà biến từ lúc nào không rõ.
Từ đó lần nào đi chọ về, Lương ông cũng mua quà cho đứa trẻ. Mua được bảy mươi
hai lần thì Lương bà sanh được một con trai. Về sau này, người ta tính ra thì
con trai của Lương ông sống được bảy mươi hai tuổi.
Ðứa con ấy là Trạng Lợn sau này vậy.
Lương ông đặt tên cho y là Chung Nhi. Tục truyền vua Thánh Tôn cũng ra đời cùng
ngày với Chung Nhi cả Trạng Ăn, Trạng Vật cũng sinh năm ấy.
Nói về Chung Nhi lên ba tuổi thì triều đình mở khoa thi có hai ông Trạng Nguyên
và Bảng Nhỡn vinh quy về qua làng Rùa. Chung Nhi ra xem, thấy thế, cười mà hỏi
cha rằng:
- Ông kia là gì mà đột mão đẹp thế?
- Ông ấy là quan Trạng.
- Còn ông kia là gì?
- Ông ấy là quan Bảng.
- Vậy trong hai ông, ai hơn ai kém?
- Quan Trạng hơn quan Bảng.
- Thế thì ngày sau con phải làm quan Trạng.
Từ đó Chung Nhi chỉ mơ ước làm Trạng Nguyên bắt trẻ con làm cờ làm quạt rước
mình như rước quan Trạng vinh quy bái tổ. Có người khách lạ, thấy thế, bĩu môi,
bảo :
- Trạng dở hay Trạng Nguyên?
Chung Nhi đáp:
- Khách quen chẳng hóa khách lạ.
Khách thấy đứa trẻ đáp thế, giựt mình cho là lạ, bảo Lương ông nên cho Chung Nhi
đi học.
Chung Nhi hỏi mẹ:
- Thầy đồ giỏi hơn Trạng Nguyên hay Trạng Nguyên giỏi hơn thầy đồ?
Mẹ trả lời:
- Trạng Nguyên giỏi hơn.
- Thế thì con không đi học thầy đồ đâu.
Mẹ khuyên:
- Muốn làm Trạng, phải đi học thầy đồ mới được.
Nghe mẹ nói thế, Chung Nhi mới chịu cắp sách đi học.
Lương ông làm gà thổi sôi mang sang thầy đồ xin làm lễ nhập tràng cho con. Thầy
bảo Chung Nhi vào lễ, Chung Nhi: "Lễ ai ?"
Thầy nói:
- Lễ trình đức Thánh Khổng Tử.
Chung Nhi hỏi:
- Thánh Khổng Tử có hơn Trạng ?
Thầy nói:
- Nhất Thánh nhì Trạng
Bấy giờ Chung Nhi mới chị làm lễ.
Lúc xong, Lương ông bảo vào làm lễ thầy. Trạng cho là thầy kém Trạng, nhất định
không chịu lễ. thầy bảo:
- Tiên học lễ hậu học văn.
Trạng chịu là phải, lúc bấy giờ mới chịu lễ thầy. Thầy lại bảo:
- Thứ nhất hay chữ, thứ nhì giữ đòn.
Chung Nhi không bằng lòng, nói:
- Phải đòn thì con không học đâu.
Lương Ông phải dỗ:
- Con chăm học thì không can gì phải đánh !
- Thế học mấy hôm thì thành Trạng ?
Thầy đồ nực cười:
- Học dăm ba ngày thì thành Trạng.
Chung Nhi tủm tỉm cười thích lắm.
Thầy đọc một câu trong Tam Tự Kinh cho Chung Nhi học "Thiên tích thông minh,
thánh phù công dụng".
Thầy đọc xong thì Chung Nhi quên liền mà đọc trẹo ra là: "thiên tích thong manh,
thánh phù chỏng gọng" chỉ có câu ấy mà bảy tám ngày không thuộc. Thầy đồ giận
lắm bắt nằm xuống đánh Chung Nhi không chịu nằm xấp, cứ nằm ngửa tênh hênh ra.
Chung Nhi nói: "Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng" sao thầy bắt con
nằm xấp ?
Một hôm thầy đi vắng, có khách vào hỏi:
- Thầy có nhà không?
Chung Nhi nói vọng ra:
- Thầy đi vắng rồi, chỉ có Trạng ở nhà thôi.
Khách cười hỏi lại:
- Trạng học đến đâu rồi ?
Trạng nói văng mạng:
- Trời đấy cao sâu. Trên trời dưới đất đâu đâu cũng tường. Khách hỏi:
- Trời là gì? Ðất là gì ?
- Trời là thiên, đất là địa. Ông không học hành gì cả hay sao mà không biết ?
Khách giận mắng:
- Con cái nhà ai, mới nứt mắt đã láo xược ?
Chung Nhi vênh mặt ra :
- Ông tưởng ông giỏi thì tôi đố ông biết trên trời có gì và dưới đất có gì ?
- Trên trời có trăng, có sao, dưới đất có núi có sông chứ gì !
Trạng - từ giờ trở xuống Chung Nhi tự xưng mình là trạng.
Trạng cười khanh khách và nói:
- Ông này không học có khác, trên trời có hai người mà dưới đất có một người học
trò chứ !
Khách hỏi :
- Trên trời có hai người là ai ? Mà dưới đất có một người là ai?
Trạng lại cười diễu khách một hồi lâu mới nói :
- Hai người là nhị nhân (chữ thiên có chữ nhị và chữ nhân). Còn dưới đất có một
người là Sĩ (chữ Ðịa có chữ sĩ ở trong)
- Người sĩ ấy là ai vậy ?
- Là Trạng chớ còn ai nữa.
Khách ra về, lòng băn khoăn suy nghĩ về thằng bé không ngoan. Một hôm, Trạng tự
nhiên bỏ học về nhà. Lương bà hỏi tại sao thì trạng nói:
- Tại con học hết sách rồi. Con về nhà để sửa soạn đi thi đây.
Thấm thoắt trạng được mười ba tuổi mà học quyển "Tam Tự Kinh" chưa thuộc. Lương
ông rất buồn phiền.
Một hôm, hai cha con đi sang làng bên mua lợn tại nhà một vị quan hồi hưu. Quan
ông đang ngủ, quan bà đi vắng. Ðợi cho quan dậy, Lương ông cùng con tiến vào.
Ngái ngủ, ông quan thấy người mua lợn, đứng lên lấy tay chùi ngang mắt, vuốt bộ
râu rẽ sang hai bên, đoạn búi tóc rồi quay vào trong nhà.
Thấy thế, Trạng bảo cha cứ vào trong nhà mà bắt lợn, Lương ông hỏi tại sao thì
Trạng đáp:
- Thì vừa đây quan đã bằng lòng rồi mà. Ngài lại nói cho biết giá cả lợn là bao
nhiêu, cha không trông thấy à ?
- Quái, mày nói làm sao, chớ tao có thấy quan nói gì đâu?
- Quan không nói vì quan khinh cha con mình nghèo, nhưng quan ra hiệu bằng tay.
Bắt lợn xong, Trạng bảo người nhà quan cho Trạng nộp tiền. Người làm hỏi: "Thế
anh đã thỏa thuận về giá heo với quan rồi à? Bao nhiêu?
Trạng đáp:
- Mười tám quan.
Người nhà quan la lên:
- Mười tám quan, rẻ quá. Ta phải vào bẩm quan mới được.
Tên người nhà vào bẩm quan thực. Ngài hét lên:
- Ai bán cho nó mười tám quan đâu.
Trạng nói:
- Bẩm quan, khi nãy chúng con hỏi giá, quan gật đầu rồi lấy tay chùi ngang mắt
rồi lại vuốt từ hàm rồi vuốt hai bên râu mép. Như thế chẳng là thập bát là gì?
Quan phì cười:
- Mày nhỏ mà biện bác giỏi. Thôi, tao cũng bán cho mày.
Mùa thu năm sau. Lương ông bị bịnh rồi mất. Trạng đói đi lang thang làng này xóm
khác, hết rược chè lại cờ bạc. Mẹ buồn lắm. Trạng nói:
- Mẹ đừng buồn. Nay mai con đỗ trạng, tha hồ sung sướng. Mẹ cười:
- Cái thứ con có đỗ trạng họa chăng là Trạng Ăn, Trạng Rượu, Trạng Dổ Bác, Trạng
Lông Bông.
Tức quá, Trạng vào gặp mẹ xin đi quyết đỗ trạng mới nghe. Một hôm, đến làng kia,
Trạng gặp hai người học trò lều chõng đi thi. Trạng chắp tay hỏi:
- Thưa, hai ông đi đâu?
- Chúng tôi chảy kinh đây. Còn ông đi đâu ?
- Tôi cũng chảy kinh. Hay là ta cùng đi cho vui.
Vì trạng lém lắm, nên mọi tiền chi phí hai người học trò kia cũng chi đỡ trạng.
Ði đến một xóm kia thì trời tối. Có cái quán bên đường, cả ba cùng vào nghỉ đêm.
Chẳng ngờ quán ấy lại là nơi tụ họp cờ bạc, đầu trộm đuôi cướp, chúng vẫn rình
rập để cướp hành lý của ba nguời. Bất ngờ đêm ấy trạng lại nằm mê, bỗng dưng hét
to lên :
- Ðây rồi, bắt chúng chói cả lại cắt tiết cho ta.
Bọn trộm cướp thấy thế cắm đầu bỏ chạy. Hai người học trò nghe đầu đuôi câu
truyện cảm ơn trạng hết lời và phục trạng là người can đảm, có biết đâu rằng
trạng nằm mê thấy lơn, đòi bắt trói lợn lại để đem làm thịt bán.
Hôm sau, ba người đi đến một làng kia, xin vào trọ đêm. Qua cổng thấy đề ba chữ
"Thủ chư dự" lấy ở trong quẻ dự Kinh Dịch, trạng đọc thủ chư lại tưởng nghĩa là
sỏ lợn, bảo hai ông kia:
- Tối nay, anh em ta có thủ lợn đánh chén.
Hai ông kia đùa:
- Ði đường xa mà có người lại cho nhắm thủ lợn, chẳng là may lắm sao !
Ngờ đâu tối hôm ấy họ vào trọ nhà ông thủ chi, nhân ngày xuân tế, ông pha một
cái thủ lợn ra mời ba người đánh chén cho vui. Hai người bạn phục trạng biết
việc sắp tới như thần và nói:
- Chắc là bác giỏi lý số, tiên tri lắm mà bác giấu chúng tôi.
- Không biết tiên tri, lý số, sao là trạng được.
Ðến một làng khác, thấy có một các bảng đề hai chữ "hạ mã", trạng đọc lầm là bất
yên (vì chữ nho hai chữ hạ mã và bất yên gần giống nhau) trạng nói:
- Làng này bất yên.
Hai ông bạn tủm tỉm cười, không cải chính, và cũng chiều ý trạng không vào làng
ấy. Thì vừa đi qua làng một lát, cả ba nghe thấy tiếng kêu la ầm ỹ, thì ra là
đám cháy, cháy một lát một nửa làng ra tro.
Lại một lần khác, đi đến một ngôi chùa kia, cả ba rủ nhau vào vãn cảnh. Nhà sư
thấy ba ông cùng là thơ sinh, đề nghị làm thơ tức cảnh, Hai ông kia vẫy bút đề
thơ nét bút như rồng bay phượng múa lời thơ hàm sức chứa chan ý vị. Thấy thế
Trạng nghĩ "Mình không làm thơ thì chuế". Nhưng làm thơ thì biết làm thế nào.
Ðánh liều. Trạng cũng viết "Thâm tinh lập lái" những vì dốt, Trạng lại viết
thành "Thâm tinh huyền lý. Nhà sư đọc xong bốn chữ thấy nét không đẹp nhưng ý vị
xâu xa, đập tay vào đùi bôm bốp thán phục trạng hết lời.
- Tuyệt tác ! Tuyệt tác ! "Thâm tinh huyền lý" tức là tình xâu xa, lẽ nhiệm mầu,
hay quá ! Thật hợp cảnh nhà chùa.
Có biết đâu rằng chính ra trạng định viết bốn chữ "thâm tinh lập lái" tức là
tiếng lóng của bọn lái lợn, có nghĩa là ba quan và mười hai quan.
Nhà sư lưu ba thày ở chùa trọng đãi và ngâm không tiếc bốn chữa thần của trạng
và cũng ngâm luôn cả hai bài thơ của ông học trò cùng đi với trạng. Trạng cúi
đầu nghe và chỉ một lát thì thuộc lòng cả hai bài.
Một hôm kia, ba người đi qua một trang trại, nhìn vào có một cô gái xinh đẹp
tuyệt trần đang hái hoa trong vườn, có hai thị nữ theo hầu. Trạng mê quá, lập
mưu từ giã hai người bạn, rồi quay lại vẩn vơ ở ngoài trang trại để tìm cách
được gần người đẹp. Hỏi thăm người chung quanh thì biết giai nhân tuyệt sắc nọ
là con quan trí sĩ họ Bùi.
Bùi tướng công chỉ sinh được một mình nàng là con gái, đặt tên là Phấn Khanh...
Tình cờ hôm ấy, Bùi Tướng Công đang ngủ mơ màng thì có người trong mơ đang đánh
thức giậy và bảo "ra ngay ngoài cửa để đón quan trạng".
Tỉnh giấc Bùi tướng Công vội đi thẳng ra cổng thì thấy trạng. Bùi tướng Công mời
trạng vào nói chuyện.
Hoảng sợ trạng tưởng là Bùi tướng Công bắt trạng giam, trạng nói:
- Tôi là học trò, chảy kinh đi thi nhất định lấy cái trạng nguyên. Thấy trang
trại của tướng công tươi tốt, tôi dừng chân lại ngắm chớ có tình ý gì đâu mà
tướng công lại...
Vừa nằm mê thấy có người bảo ra cổng đón trạng bây giờ gặp ngay một người học
trò chảy kinh quyết giựt lấy cái trạng nguyên. Bùi tướng Công tin ngay đúng
người nầy là trạng, bèn giữ lại thiết tiệc ở Uyên Ương Ðình. Rượu ngà ngà say,
Trạng súc cảnh sinh tình đọc vanh vách hai bài thơ của hai người bạn làm ở chùa
mà trạng đã thuộc lòng. Bùi tướng Công lè lưỡi chịu là thơ hay, gọi tiểu thư lấy
giấy bút lên chép lại để họa vần. Tiểu thư họa vần lại, lời thơ cũng không kém
phần xuất sắc.
Ưng ý quá, Bùi tướng Công bèn ngỏ ý muốn gả con gái cho trạng. Trạng nghiêm tốn
trả lời.
- Thưa tướng công, người con trai lấy công danh làm chính, chuyện vợ con là thứ
yếu. Tướng công có lòng yêu, xin lãnh ý nhưng để cho khi nào đỗ trạng về mới có
thể tính chuyện tiểu đăng khoa.
Tướng công phục trạng sát đất. Vào phòng riêng để nghỉ. Trạng bỗng thấy ở trên
tường có một bức hoạ tiên ghi mấy chữ như sau: "Bát đao phân mê phấn", nghĩa là
chữ Bát, chữ Ðao, chữ Phấn, chữ Mê, bốn chữ ấy chấp lại thành chữ Phấn. Bùi tiểu
thư viết mấy chữ ấy là có ý đố ai đối được thì sẽ lấy làm chồng.
Vốn mù chữ, trong năm chữ ấy Trạng chỉ biết có chữ "Phấn" đoán là tên của tiểu
thư; sẵn trên ấn có bút nghiên cũng vạch tên mình là "Chung" vào. Viết xong, nằm
quèo ra ngủ. Ðến sáng, Phấn tiểu thư thấy chữ "Chung" tán ra câu đối là "Thiên
lý trong kim chung", nghĩa là chữ Thiên, chữ Lý, chữ Kim chắp lại thành chữ
Chung. Nàng nức nở khen hay và cho rằng chỉ có người này mới xứng đáng là chồng
nàng. Bèn bày lễ ra giữa trời cảm tạ trời đất đã run rủi cho nàng được người
chồng xứng đáng. Ðoạn nàng và trạng cùng làm lễ thề nguyền, lấy trời đất chứng
từ cho mối duyên lành hiếm thấy.
Bùi tướng Công mừng rỡ sai đặt tiệc ở Thủy Ðình trên hồ Bán Nguyệt ăn mừng và
đưa một mâm vàng cho Trạng để làm tiền lộ phí. Khi từ biệt. Phấn tiểu thư đưa
cho chàng một phong thư. Ði được một quãng đường dở đọc thì là một bài thơ tứ
tuyệt:
Bán nguyệt chi trung tương hội sứ,
Uyên ương đình nội bá bôi thi.
Nguyên quãn kiên sấn thanh vân lộ,
Tảo tháp hồi lai đan quế nhi.
Tạm dịch là:
Gặp nhau bán nguyệt hồ này,
Uyên ương đình nọ cùng nhau tạc thù.
Mong chàng sớm chảy đường cũ,
Bẻ cành đan quế cho phụ tấm lòng.
Xem thơ xong, hả quá, Trạng quên mất cả đường đi, rồi lạc vào một cái miếu hoang
ở giữa đồng. Trong miếu có một ông cụ đầu râu tóc bạc đang ngồi uống nước. Trạng
mon men lại gần cụ, ông cụ hỏi:
- Chảy kinh sao lại vơ vẩn vào đây ?
Trạng thưa là bị lạc đường. Ông cụ cầm cái gậy chọc vào bụng Trạng một cái và
bảo:
- Muốn chảy kinh, hãy ngồi xuống bóp chân tay cho lão một lát, lão sẽ chỉ đường
cho.
Trạng chịu liền. Bóp chân tay xong, Trạng hỏi:
- Bẩm cụ, thế bây giờ cụ đã bằng lòng chỉ cho cháu đường vào kinh chưa.
Ông lão cười khà khà.
- Ðâu có dễ dàng thế được. Lão hỏi thực,thầy chảy kinh làm gì ?
- Bẩm, để thi lấy Trạng nguyên.
- Tốt lắm. Nhưng muốn đỗ trạng nguyên, phải nghe lời lão.
- Thưa cụ, dạy làm sao ?
- Thầy phải cõng lão vào tới kinh thì thầy đỗ trạng.
Trạng lại chịu liền. Cõng ông lão một lát. Trạng nghe thấy ông lão hỏi:
- Thầy vào kinh đỗ trạng làm gì ? Sao không ở luôn Uyên Ương Ðình làm con rể Bùi
tướng Công có hơn không ?
Trạng giựt nảy mình, quay lại hỏi:
- Ủa, sao cụ biết. Cụ là thần phải không ?
Ông cụ đáp.
- Ta chẳng phải là thần mà cũng chẳng phải là ma. Ta chỉ là một người đối với
thầy có tiền duyên túc hải. Mai sau, ta còn có phen hậu hội. Nhưng ta bảo cho
thầy biết thầy sẽ còn lận đận năm năm nữa, và hai năm nữa mới chiêm được trạng
nguyên. Năm nay muốn đậu cũng chưa được vì kỳ thi hoãn.
Nhưng thầy nhớ lấy điều này: tháng giêng năm tới thầy nhớ ra ngồi ở thành phía
Ðông thấy ai gieo mình từ trên xuống thì chạy lại cứu lấy và cõng chạy ngay đi,
không cần hỏi han gì cả.
Nay lão hãy tạm dạy cho thày phép bói toán để làm kế sinh nhai và cũng là để
tiện bề giao tiếp hầu rộng đường thi thố sau này với đất nước.
Mừng quá. Trạng chấp tay lạy cụ già và tôn làm thầy. Ông cụ dạy cho trạng đủ các
cách tiên tri bói toán. Dạy đến đâu trạng nhớ đến đó. Thì ra từ lúc ông lão cầm
cái gậy chọc và bụng Trạng, Trạng từ một người ngu dốt tối tăm đã hóa ra một
người thông minh, học một biết mười.
Thấy Trạng đã giỏi, ông lão mới chống gậy đi vào rừng mất tích. Còn trạng thì mở
một ngôi hàng bói toán. Tình cờ, lại gặp hai người bạn cũ. Hai người này nhờ
Trạng bói cho một quẻ để biết khoa này có đậu hay chẳng. Trạng gieo quẻ bảo:
"Quẻ này là quẻ quan long vô chủ, kỳ thi phải hoãn không có ai đậu mà cũng không
có ai rớt".
Hai người bạn cho là trạng nói láo. Không ngờ năm ấy hoãn thi thực. Ai cũng xanh
mặt chịu là trạng tiên tri trúng phóc như thần.
Một hôm có quan thượng thư trong triều mất con thiên lý mã, nghe đồn trạng bói
cát hung đúng lắm, cho người ra mời vào dinh xem một quẻ. Thằng kẻ trộm thấy
quan cho người ra xem bói lo lắm, bèn lẻn vào nhà trạng, đứng nghe trộm. Nguyên
trạng thấy ông thượng thư cho người đến bói, lấy làm lo lắm, cả đêm trằn trọc
suy nghĩ không ngủ được. Gần sáng trạng lấy quyển Tam Tự Kinh ra đọc đến câu "Mã
ngửa ngực đương thử lực sức, nhân sở tự" thì đọc to lên.
Tên kẻ trộm tên là Tự, đứng nghe lỏm, thấy thầy đọc trúng tên mình, vội bỏ ra
cắn rơm cắn cỏ lạy thầy đừng nói tên mình với quan thượng thư.
Trạng hét lên:
- Ừ, mày lấy cắp ngựa ngày nào và để đâu. Phải nói ngay thì tao tha tính mạng
cho, không hô danh nữa.
Hôm sau, vào dinh quan thượng thư, Trạng reo quẻ suýt soa khấn vái rồi cứ lời
tên trộm kể lại vanh vạch. quan thượng thư cho người đến nơi, quả thấy ngựa quý
thưởng cho rất nhiều vàng bạc. Từ đó, trạng nổi tiếng như cồn, ai ai cũng phục
trạng là trạng bói.
Một hôm trong cung, công chúa mất đôi vòng ngọc rất quí mang từ bên Tàu về. Nghe
có trạng bói, Công Chúa cho mời Trạng vào xem một quẻ. Bí quá, Trạng "tranh thủ
thời gian" bảo phải làm một cái lầu cao suy nghĩ và lạy trời lạy đất mới xem
được quẻ bói này. Công Chúa cũng chịu. Trạng hẹn nửa tháng thể nào cũng tìm ra
được thủ phạm. Nằm mười ngày ở trên lầu cao mà chẳng tính toán được gì mà cũng
không tìm ra được mưu mẹo gì bịp công chúa Trạng buồn muốn chết, than thân :
"Mình có ngờ đâu lại đến nước này. Một thằng ăn cắp một thằng chịu chết lây,
thực là quýt làm cam chịu.
Bấy giờ tên thị vệ phụ trách canh gác tên là thằng Cam. Nửa đêm thanh vắng, nghe
thấy trạng nói thế Cam sợ cuống lên, sụp xuống lạy trạng mà rằng: "Con cắn rơm
cắn cỏ xin thầy tha cho, con chết dại chơi với thằng Quýt dính líu vào trong vụ
này, nhưng bao nhiêu tội lỗi là do thằng Quýt cả chứ con tuyệt nhiên là chỉ theo
đóm ăn tàn mà thôi. Thầy có trị tội thì trị tội thằng Quýt, chớ phần con, con
xin thề là con không có tội. Thầy hô danh con ra, đức vua mà giết con thì quả là
oan uổng quá.
Cố nhịn cười, Trạng quát lên. "Ừ, mày thú tội thì ta cũng tha cho, nhưng thằng
Quýt nó ăn trộm ra sao, đôi vòng nó dấu ở đâu, mày cứ thực khai ra thì ta tha
tội chết.
Thằng Cam kể vanh vách sự tình đầu đuôi cho Trạng nghe. Hôm sau, Trạng mời Công
chúa lên lầu, reo quẻ rồi cứ lời thằng Cam khai mà thuật lại. Nhà vua cho bắt
thằng Quýt thì nó thú tội, không sai một mảng.
Lấy lại được đôi vòng, công chúa đem vàng bạc thưởng cho Trạng Bói. Từ đó Trạng
Bói thành một vị thần, bàn dân thiên hạ đều lắc đầu lè lưỡi chịu là một vị tiên
xuống hạ giới.
Một hôm có ba người đi thi, nghe thấy danh tiếng của Trạng như thế, rủ nhau sửa
một cái lễ để vào xem. Lúc trò truyện, mới biết ba người ấy là những người nổi
tiếng: một người là Trạng Ăn, một người là Trạng Vật, một người là Trạng Cờ.
Trạng Bói reo quẻ xong, nói: "Bốn chúng ta tuổi còn trẻ, đường bay nhảy còn dài
nhưng số còn lận đận vài năm nữa, phải chờ thời mới được".
Bốn người ở với nhau rất tâm đầu ý hợp. Mùa xuân năm ấy. Trạng Bói nhớ lời thần
dặn, rủ ba trạng kia hằng ngày ra đứng ở cửa thành phía đông. Thì vào một đêm
đông, khoảng canh ba, Hoàng cung tự nhiên bốc cháy, dân chúng nổi làm loạn,
ngoài đường giặc cướp như rươi.
Thấy biến, bốn trạng đang đứng xem thì Trạng Bói trông thấy một người mặc áo
xanh, nhảy từ mặt thành xuống đấy Trạng Bói không nói năng gì hết chạy ngay lại
cõng người mặc áo xanh lên vai. Và chạy không quay đầu trở lại.
Người ấy là Vua Thánh Tôn.
Thấy có người cõng vua Thánh Tôn chạy trốn một bọn người mang võ khí hùa lại
đuổi theo. Trạng Ăn, Trạng Vật và Trạng Cờ xông ra cản lại, thành ra Trạng Bói
chạy thoát về mạn Chùa thầy.
Mấy hôm sau, tình hình lắng dịu. Trạng Bói cắt Trạng Ăn và Trạng Vật túc trực
bên vua Thánh Tôn còn mình và Trạng Cờ thì hoá trang về thành xem xét sự tình.
Ðến lúc bấy giờ mới biết là Nghi Dân tiếm vị và sát hại trung thần, may nhờ hai
ông Nguyễn Sĩ và Ðinh Liệt chiêu binh mãi mã, trừ được Nghi Dân. Hai vị trung
thần bèn tâu với Thư Hậu sai người đi tìm Thánh Tôn nhưng tìm đâu cũng không
thấy.
Trạng Bói nghĩ kế, cho người môi giới với Thái Hậu mời ông vào xem bói. Trạng
nói riêng với Thái Hậu đã cứu được nhà vua và hiện để ở chùa Thầy.
Mừng rỡ, Nguyễn Sĩ và Ðinh Liệt đem binh sĩ về chùa Thầy đón rước.
Vua Thánh Tôn phong thưởng cho hết thảy các công thần, ai cũng cảm ơn, riêng có
Trạng thì cho chức tước gì cũng không lấy, chỉ xin ban cho hai chữ "Trạng
nguyên".
Có quan đại thần quỳ tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, chức Trạng Nguyên chỉ dành riêng cho các bậc văn hay chữ tốt
tài ba xuất chúng. Kẻ có công thì thưởng vàng bạc gấm vóc hay phong cho đến quan
là cùng, không thể phong cho chức Trạng Nguyên.
Vua Thánh Tôn nói :
- Tài giỏi đến như trạng, văn chương nào bằng ? Ngài cứ phong Trạng là Trạng
Nguyên.
Một hôm vua ngự giá đến chùa Thầy lễ tạ và ban cho các vị sư trụ trì rất nhiều
vàng bạc để tu bổ lại chùa. Ðến khi sửa đến gác chuông, nhà vua đọc "Thiên lý
trọng kim chung" rồi hỏi bách quan có ai đối được không. Tất cả đều đứng ra như
phỗng".
Nhớ lại câu của Phấn Khanh tiểu thư, trạng liền đọc: "Bá đao phân mễ phấn". Vua
hết lời ca ngợi Trạng là bực tài học siêu phàm và bảo:
- Ta phong cho trạng chức Trạng Nguyên quả thật là đúng quá.
Sau đó vua ban cho cờ biển, tặng rất nhiều bạc vàng và ba chữ. "Chân Trạng
Nguyên" cho về vinh quy bái tổ.
Ði qua trang trại họ Bùi, Trạng rẽ vào lạy nhạc phụ, làm lễ thành hôn với Phấn
tiểu thư rồi về nhà lạy mẹ. Lúc đó Lương Bà đã già lắm ! Phụng dưỡng mẹ mấy
tháng, Trạng và Phấn tiểu thư cùng rước mẹ vào Kinh vì có chiếu chỉ khẩn cấp.
Ðến nơi mới biết nhà vua cho vời Trạng đi dẹp giặc Xiêm La.
Trạng Lợn - tức Trạng Bói - mời Trạng Vật làm tiên phong trạng Cờ đốc thúc thủy
lộ, Trạng ăn phụ trách bộ binh. Phấn Khanh cũng lĩnh ấn, đeo gươm theo chồng
đánh giặc. Ta thắng trận, hai nước Xiêm Lào chịu hàng phục, năm năm lại mồi lần
triều cống.
Năm ấy vua Tàu sai sứ sang nước ta để phong vương cho vua Thánh Tôn. Như vua Tàu
còn có ý muốn thử xem vua ta ra sao. Một hôm sứ Tàu rủ nhà vua đánh cờ. Vua lo
lắm, gọi Trạng Lợn vào hỏi làm cách gì để thắng cờ. Trạng tâu:
- Bệ hạ cứ cho bầy bàn cờ ra giữa sân rồi sai Trạng Cờ ăn mặc giả làm lính che
lọng đứng hầu. Trên lọng, dùi một lỗ thủng. Hễ Trạng Cờ xoay lọng, ánh nắng
chiếu vào chỗ nào thì bệ hạ cứ nhắc quân đi vào chỗ ấy.
Vua khen phải sai lập bàn cờ. Quả nhiên đánh một lúc sứ Tàu bị dồn vào nước bí
phải chịu thua.
Tuy vậy sứ tàu chưa chịu thôi. Hôm sau y lấy cây gỗ lớn ngầm đem bào nhẵn đầu
đuôi như nhau rồi đố vua Thánh Tôn xem đầu nào là ngọn.
Vua lại hỏi Trạng, Trạng tâu:
- Bệ hạ chớ lo, hạ thần đã có cách.
Ðêm đến bèn sai người ra phóng uế bừa bãi vào mấy cây gỗ,. Sáng, Trạng kêu rầm
lên là dơ bẩn bắt khiêng gỗ ra sông rửa và dặn hễ thả xuống hấy đầu nào chìm thì
đánh dấu. Khi đem gỗ về, trạng ung dung chỉ vào đầu có dấu bảo đó là gốc.
Sứ Tầu lại càng tức, lấy cây gỗ bào nhẵn rồi sơn kín cả đi đề ba chữ "Hồ bất
thực" rồi đố vua biết là cây gỗ gì:
Trạng ứng khẩu tâu vua:
- Hồ bất thực là cáo chẳng ăn, cáo chẳng ăn thì cáo đói, cáo đói thì cáo gầy,
cáo gầy là cây gạo.
Sứ Tàu thua mấy lần than rằng:
- Ai ngờ nước Nam lại có nhiều nhân tài.
Từ đó, không dám dở trò gì nữa.
Về phần ta thì cứ ba năm lại phải cử người đi sứ một lần, Nhà vua cử trạng đi.
Trạng Ăn, Trạng Vật, Trạng Cờ cùng đi theo.
Tới Tam Quan, quân canh không mở cửa, một lát đem ra một cái biển có viết chữ
thập, lấy tay chỉ đông chỉ tây Trạng bực mình quay lại bảo viên phó sứ :
- Nó muốn dọc ngang thì khoanh cho nó một cái vòng tròn.
Thấy cái vòng tròn, quân Tàu giật mình nghĩ rằng: "Ta nói tung hoàng vũ trụ, thế
mà nói biết đối lại là bao quát càn khôn. Giỏi thật !
Qua tam quan rồi, đến một quãng đồng bát ngát, trông thấy một ả con gái đương
vạch quần đái, trạng bảo viên phó sứ:
- Chép đi !
Viên phó sứ thưa "Chép gì".
Trạng chặc lưỡi nói:
- "Nong tay chí bẹn đỏ hân hân".
Viên phó sứ nghễnh ngãng chép ra.
"Ðông Tây chí biện đỏ hân hân".
Khi đến Yên Kinh, quan sở tại ra đón vào rồi viết một vế câu đối. "Nam Bắc lai
triều đố tể tể" rồi xin sứ đối cho. Trạng quay lại bảo viên phó sứ cứ giơ cái
giấy biên lúc nãy đọc lên. Viên phó sứ đọc: "Ðông Tây chí biện đỏ hân hân".
Quan Tầu kinh sợ nói: "Thậy là Thần Ðồng phù thủy" chớ đâu lại có người giỏi đến
thế.
Vua Tầu cùng các sứ dạo vườn ngự đầy hoa thơm cỏ lạ, dưới có hồ bán nguyệt, trên
hồ có đình bác giác bốn bề bỏ trống giữa đình treo hai chữ ngự thi, đó là "chùng
nhị". Vua Tàu hỏi sứ có biết đó là ý gì không. Trạng vô tình ứng khẩu đọc ngay
"Phong nguyệt vô biên".
Vua Tàu có ý tả cái đình này gió trăng vẫn không tường. Thấy Trạng ứng khẩu
nhanh nhẹn và thích ứng, vua Tàu phục sát đất.
Tháng năm năm ấy, trời không mưa, vua Tàu yêu cầu sứ ta lập đàn cầu mưa, Trạng
nhân lời nhưng lo lắm vì không biến cầu bảo cách nào cho có mưa. Chợt nhơ tục
bên ta thường bảo khi nào cỏ lang và rễ si trắng là trời sắp mưa. Trạng bèn bảo
lập một cái chòi cao, trên dán la liệt các thứ bùa, các thứ bát quái, các vị
sao, các vị thần ra trợ, một mặt sai người đi xem hễ thấy rau lang già, rễ si
trắng thì về bảo ngay.
Vài hôm sau có người về báo tin rau lang già rồi, rễ si trắng rồi. Trạng lên đài
xõa tóc chống gươm bài quyết rồi đọc một tràng toàn những tiếng lóng lái heo, ai
nghe cũng không hiểu mô tê gì cả như mộc tinh, thâm tinh cổ tinh, kẹo tinh,
chó... tinh rồi kết cục bằng loạt linh tinh beng, linh tinh beng ma, linh tinh
quỷ... Ðoạn cầm một bình nước lấy mỗi cành lá vẩy lên trời, hét ba tiếng khóc ba
tiếng. Lễ chưa xong thì sấm sét ù, mưa xuống như trút. Vua Tàu và các quan Tàu
khiếp sợ và cho rằng gia cát Vũ Hầu ngày xưa nhất định không thể nào sánh kịp.
Hết hạn đi sứ, trạng được về nhưng vì phục tài của trạng ngài cố nằn nì trạng ở
lại để dạy Hoàng tử. Trạng bèn sai lập một cái chòi thật cao, bắt Hoàng tử phải
trèo lên. Vì sung sướng quen thân, Hoàng Tử mệt muốn chết, trèo lên tới lầu thì
thở hồng hộc.
Trạng hét mắng, dặn Hoàng Tử sao không chào thầy lại đứng thở như bò. Như thế là
hỗn, tiên học lễ nhiên hậu mới học văn. Trạng sai nẹt hoàng tử ra đánh, đánh rồi
mắng, mắng rồi lại đánh, không dạy một chữ nào.
Thấy thầy dữ đòn quá. Hoàng hậu đành phải nói với vua Tàu xin để cho Trạng về
kẻo "sứ Việt Nam nhớ nước nhớ nhà, cáu kỉnh đánh con mình có khi chết mất".
Thế là Trạng thành công trong việc thiết mưu lập kế để được vua Tàu cho về nước.
Về sau, Trạng Lơn được phong làm thượng quốc công, còn Phấn nương được phong làm
Thất phẩm phu nhân, cả hai vợ chồng cùng ngao du sơn thuỷ đàn địch ca hát nay
bến này, mai bến khác.
Trạng Quỳnh - Nguyễn Quỳnh
:::1. Ðầu to
bằng cái bồ:::
Quỳnh khi còn bé độ bảy tám tuổi, chơi nghịch đã khác người, lấy tàu chuối làm
cờ, lá sen làm lọng, Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong làng mắc lừa luôn.
Một hôm trời tháng tám, sáng trăng, Quỳnh chơi với lũ trẻ ở sân, bỗng Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu tao ngồi, rồi tao đưa đi xem một người đầu to bằng cái bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiệu rước Quỳnh đi bảy, tám vòng quanh sân,
mệt thở không ra hơi. Quỳnh thấy thế bảo:
- Ðứng đợi đây, tao đi châm lửa soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám xem, chỉ những đứa lớn ở lại. Quỳnh lấy lửa thắp đèn
xong đâu đấy, rồi thò đầu che ngọn đèn, bảo lũ trẻ:
- Kìa! Trông vào vách kia kìa! Ông to đầu đã ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách to bằng cái bồ
thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đền. Quỳnh chạy vào trong
buồng đóng kín cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm roi chạy ra,
lũ trẻ chạy tán loạn.
:::2. Câu đố:::
Một hôm, nhà có giỗ, làm thịt lợn mời khách khứa đông lắm. Thấy Quỳnh hay
nghịch, ai cũng chòng ghẹo chơi. Ðương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có một ông Tú
tên lá Cát thường tự phụ hay chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối được tao tha cho:
- Lợn cấn ăn cám tốn (1)
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn (2)
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ý tự phụ mình là ông Tú:
- Trời sinh ông Tú Cát (3)
Quỳnh lại đối:
- Ðất nứt con bọ hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. Mọt người cười ầm cả lên.
(1) Cấn là quẻ cấn, Tốn là quẻ tốn trong bát quái. Ðây lấy nghĩa lợn cấn (chửa)
mà ăn tốn cám.
(2) Khôn là quẻ khôn, Càn là quẻ càn cũng trong bát quái, đây lấy nghĩa con chó
khôn chớ cắn càn, cắn bậy.
(3) Cát còn có nghĩa là tốt; hung còn có nghĩa là xấu.
:::3. Dê đực
chửa:::
Quan tư thiên xem thiên văn, thấy về địa phận tỉnh Thanh có một ngôi sao sáng,
chắc ở đấy có người tài, nhưng không biết làng nào, mới tâu vua. Vua giao cho
đinh thần xét. Có một vị tâu:
- Xin tư cho tỉnh thần Thanh Hoá sức mỗi làng phải tiến một con dê đực chửa, hạn
một tháng, không có thì trị tội.
Trát về đến làng, các cụ kỳ lão lo sốt vó, nhất là ông thân sinh ra Quỳnh lại
càng sợ, ông ta là huynh thứ trong làng, tất phải tội trước. Ông ta về phàn nàn
nhà vua đòi những chuyện oái oăm.
Quỳnh thấy bố buồn rầu mới hỏi:
- Hôm nay thầy có việc gì mà không được vui?
Ông bố đương bực mình liền mắng:
- Việc làng, việc nước, trẻ con biết gì mà hỏi?
Quỳnh nhất định hỏi cho ra, ông bố phải kể thực cho nghe. Quỳnh nghe xong, thưa:
- Con tưởng việc gì, chứ việc ấy thì thầy không phải lo! Nhà vua bắt mua một
con, chứ bắt mua mười con cũng có. Xin thầy cứ ra nhận lời với làng, chồng cho
con trăm quan tiền để con đi mua. Không thì mình chịu tội cho cả làng.
Ông bố thấy con nói thế, lạ lắm, nhưng nghĩ bụng: "Ta thử nghe trẻ con xem sao!"
mới đánh liều ra nhận với làng, làm tờ cam đoan, đem tiền về bảo con đi mua.
Sáng sớm, hai bố con khăn gói, cơm nắm, vác chục quan tiền ra Thăng Long mua dê.
Ðến nơi, Quỳnh nói với bố hỏi dò xem hôm nào vua ngự chơi phố. Hôm đó, Quỳnh dậy
thật sớm, lén xuống dưới cổng cửa Ðông nằm chực.
Ðợi đến quá ngọ, nghe tiếng xe ngựa quan quân đi xình xịch trên cổng, Quỳnh liền
khóc oà lên. Vừa lúc xa giá đi qua, vua nghe tiếng trẻ khóc mà không thấy người,
sai lính đi tìm, lôi được Quỳnh ở dưới cống lên. Vua hỏi:
- Sao mày lại chui xuống cống?
Quỳnh giả vờ không biết là vua, nói:
- Thưa ông, tôi thấy xe ngựa đông, sợ chết chẹt nên tránh xuống cống.
- Thế tại sao khóc?
- Thưa ông, mẹ tôi chết đã ba năm nay mà mãi không thấy bố tôi đẻ để có em mà ẵm
nên tôi khóc!
- Thằng này mới dở hơi chứ! Làm gì có đàn ông đẻ bao giờ.
- Thưa ông, mới rồi tôi thấy các cụ làng tôi rủ nhau đi mua dê đực chửa để tiến
vua. Dê đực chửa được thì chắc bố tôi cũng đẻ được.
Vua và các quan đi hộ giá đều bật cười, biết đứa bé này có tài, ứng vào ngôi sao
sáng, liền thưởng tiền và tha cho dân làng không phải cống dê đực chửa nữa.
:::4. Cấy rẽ
ruộng chúa Liễu:::
Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền Sông xin cấy rẽ. Quỳnh khấn và
xin âm dương xem Chúa thuận lấy gốc hay lấy ngọn. Ban đầu chúa thuận lấy ngọn
thì Quỳnh trồng rặt thứ khoai lang. Ðến lúc được ăn, Quỳnh đào lấy củ, còn bao
nhiêu dây ngọn đem nộp chúa
Lần thứ hai, xin âm dương, Chúa thuận lấy gốc để ngọn cho Quỳnh, thì Quỳnh trồng
các thứ lúa. Ðến mùa gặt, Quỳnh cắt lấy bông, còn bao nhiêu gốc rạ đem nộp Chúa.
Chúa hai lần mắt hợm, tức lắm, song đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào
được. Lần thứ ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc, lẫn ngọn, còn khúc giữa
cho Quỳnh, Quỳnh vờ kêu ca:
- Chị lấy thế thì em còn được gì nữa!
Khấn đi khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng rặt ngô, đến kỳ
bẻ ngô, bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn và gốc thì đem nộp Chúa.
Chúa mắc mưa Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ này, Quỳnh đã kiếm
được cái vốn to rồi.
:::5. Vay tiền
chúa:::
Lại một lần Qùynh vào yết đền, thấy chúa có nhiều tiền, trông sướng mắt, định
vay. Quỳnh khấn:
- Em độ này túng lắm, chị có tiền để không, xin cho em vay để em buôn bán, kiếm
ít lời.
Nói rồi, khấn đài âm dương: "Sấp thì chia tư, chị cho em vay một phần, ngửa thì
chia ba, chị cho một phần, chị mà thuận cho một nửa thì xin nhất âm nhất dương."
Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được, mà ý Chúa thì không muốn cho vay, vì biết
được là cho vay, Quỳnh sẽ không trả, liền cứ làm cho hai đồng tiền quay tít,
chẳng sấp mà cũng chẳng ngửa.
Quỳnh thất thế vỗ tay reo:
- Tiền múa Chúa cười, thế là chị bằng lòng cho em vay cả rồi!
Nói xong, vác hết cả tiền về.
:::6. Trả ơn
chúa Liễu:::
Gặp khoa thi, Quỳnh ra ứng thi. Ðường đi qua đền Sông, Quỳnh vào yết Chúa, xin
Chúa phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh qui
về, Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con, đem đến lễ, Quỳnh quỳ xuống lạy,
rồi dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngai mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả
lễ. Xin Chúa nhận cho. Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về
khao dân.
Nói rồi, dắt con bò vè. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm
ngai Chúa đổ lổng chổng, long gẫy cả. Quỳnh cười nói:
- Chị thương em nghèo, trả không lấy, thì em xin đem về vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.
:::7. Dòm nhà
quan Bảng:::
Ðồ rằng Quỳnh xinh cùng thời với Thị Ðiểm
Quan Bảng sinh ra thị Ðiểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem
bình văn, để ngấp nghé cô Ðiểm. học trò biết ý, vào thưa với quan Bản, ngài bắt
vào hỏi.
Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có
phải học trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, dòm nhà bảng Nhãn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn
học. Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc. Từ ngày trường quan Bảng
có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Ðiểm cho, mà cô Ðiểm nghe cũng
thuận.
Quỳnh biết rằng cô Ðiểm vào tay mình rồi, thoả được ước nguyền, song tính tinh
nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Ðiểm đứng đắn, thùy mị không ứa chớt nhả, Quỳnh lại
càng ghẹo dai.
:::8. Quan
trường mắc lỡm:::
Khi vào trường thi, không mấy lúc Quỳnh ngồi yên, trong lều cứ đeo ống quyển đi
vẩn vơ gần đường thập đạo. Quan trường biết Quỳnh hay chữ, thấy đi nhung nhăng
thì hỏi:
- Ðã làm xong được bài chưa, đưa xem?
Quỳnh thưa:
- Mới xong được vài đoạn, nhưng mà thối lắm, không thể ngửi được, xin các ông
đừng xem!
Quan trường thấy Quỳnh muốn giấu, mới bảo:
- Thối thì thối cứ đưa đây!
Quỳnh thưa:
- Quả thối thật, đưa ra sợ các quan bưng mũi không kịp!
Các quan không tin, cho là Quỳnh nhún mình, nhất định đòi xem cho được. Bất đắc
dĩ, Quỳnh phải nói to:
- Tôi nói thật, các quan không nghe, xem xong đừng có trách tôi nhé!
Rồi trao ống quyển cho các quan. Không ngờ Quỳnh hoà cứt vào nước đái để trong
ống, bắt châu chấu bỏ vào từ bao giờ, lúc các quan mở ra, nó bay tung lên bẩn cả
quần áo, chạy không kịp.
Quỳnh cười ầm lên:
- Tôi đã nói thực, lại cứ đòi xem!
Các quan giận lắm, nhưng không lấy lý gì bắt lỗi được Quỳnh.
Ðến kỳ thi Hội, chúa Trịnh cứ ép Quỳnh đi thi để lấy Trạng. Quỳnh không thiết.
Chúa ép mãi, phải nghe. Lúc vào thi, làm văn xong, còn thừa giấy, Quỳnh vẽ ngựa,
vẽ voi vào sau quyển, rồi đề mấy câu thơ rằng:
Văn chương phú lục đã xong rồi,
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi.
Tớ có một điều xin bảo thật
Ai mà cười tớ nó ăn bòi!
Làm thế cốt cho phạm trường quy, không lấy đỗ được.
:::9. Trả nợ anh
lái đò:::
Quỳnh đi đò ngang thường chịu tiền, lâu quá hóa nhiều, không trả được.
Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ đợi đấy, mai ta trả.
Rồi mua tre nứa, lá gồi làm một cái nhà bè ở giữa sông, trong đề một câu:
Ð... mẹ thằng nào bảo thằng nào!
Và phao ầm lên rằng đó là lầu yết thơ của Trạng.
Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô nức kéo nhau đi xem. Ði đò ra đến nơi, thấy độc
một câu như thế, chán quá liền đi đò về. Người khác gặp hỏi thì chỉ trả lời: "Ra
mà xem!"
Thế là thiên hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. Anh lái đò chở hết chuyến nọ
đến chuyến kia không kịp, trong ba bốn ngày, được không biết bao nhiêu tiền.
Ðược mấy hôm, Quỳnh dỡ nhà bè, bán lại cho anh lái đò. Anh lái đò trừ nợ. Quỳnh
mắng:
- Anh còn nợ ta thì có, ai làm cho anh mấy hôm chở được bấy nhiêu tiền?
Anh lái đò mới nhận ra, liền cám ơn Quỳnh rồi rít và xin trả đủ tiền.
:::10. Ông nọ bà
kia:::
Ở làng Quỳnh có mấy người tấp tểnh công danh, nay cầu mai cục nhờ Quỳnh gây dựng
cho, may ra được tý phẩm hàm để khoe với làng nước. Một hôm, Quỳnh ở kinh đô về,
sai người mời mấy anh ấy lại bảo:
- Giờ có dịp may, nào các anh có muốn làm ông nọ bà kia thì nói ngay.
Thấy Quỳnh ngỏ lời như thế, anh nào cũng như mở cờ trong bụng, tranh nhau nhận
trước.
Quỳnh bảo:
- Ðược các anh về nhà thu xếp khăn gói, rồi lại đây uống rượu mừng với ta, mai
theo ta ra kinh đô sớm.
Anh nào anh nấy lật đật về nhà, vênh váo, đắc chí lắm, có anh về đến cổng, thấy
vợ đang làm lụng lam lũ, liền bảo vợ:
- Ít nữa làm nên ông nọ bà kia, không được lam lũ thế mà người ta cười cho.
Vợ hỏi:
- Bao giờ làm quan mà khoe váng lên thế?
- Nay mai thôi, sắp sửa khăn gói để mai đi sớm!
Nói xong, vội vàng lại nhà Quỳnh đánh chén. Anh nào anh nấy uống say tít, rồi
mỗi anh nằm một xó. Ðến khuya, Quỳnh sai người đem võng, võng anh nọ về nhà anh
kia, anh kia về nhà anh nọ, nói dối rằng: Say rượu ngộ cảm phải bôi dầu xoa
thuốc ngay không thì oan gia!
Các "bà lớn" đang mơ màng trong giấc mộng, thấy người gõ cửa mà lại nói những
chuyện giật mình như thế, mắt nhắm mắt mở, tưởng là chồng, ôm xốc ngay vào nhà,
không kịp châm đèn đóm, rồi nào bôi vôi, nào xoa dầu, miệng lẩm bẩm: "Rượu đâu
mà rượu khốn, rượu khổ thế! Ngày mai lên đường mà bây giờ còn say như thế này!
Nhờ phúc ấm có làm được ông nọ bà kia thì cũng lại tiền toi thôi!"
Xoa bóp cho đến sáng, nhìn thì hoá ra anh láng giềng, các bà ngẩn người mà các
anh đàn ông kia lại càng thẹn, cứ cúi gầm mặt xuống cút thẳng. Về nhà thấy vợ
mình cũng đang ngẩn người, đỏ mặt tía tai, vội nói ngay:
- Ai ngờ nó... xỏ thế! Tưởng ông nọ bà kia là thế nào! Thôi kệch đến già!
:::11. Nhặt bã
trầu:::
Một ông quan vào quán ngồi bệ vệ lắm, Quỳnh giả làm học trò xác, mon men đến
đứng bên, hễ thấy quan ăn miếng trầu nào nhả bã ra thì lại cúi xuống nhặt.
Quan hỏi:
- Mày là ai?
- Bẩm, tôi là học trò.
- Học trò sao lại lẩn thẩn thế?
- Bẩm, chúng tôi thấy phương ngôn thường nói: "Miệng kẻ sang có gang có thép!",
chúng tôi nhặt xem gang thép như thế nào.
Quan thấy Quỳnh có ý xược, ra oai thét:
- Ðã xưng là học trò, thì phải đối ngay câu phương ngôn ấy đi, đối được thì tha
cho, không sẽ đánh đòn!
Quỳnh rụt tè thưa:
- Bẩm quan khó lắm!
Quan lại quở:
- Khó thì khó cũng phải đối!
- Bẩm quan con xin đối.
- Nói mau!
Quỳnh mới đọc:
- Ðồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.
Quan ngồi lặng đi rồi đỏ mặt nói:
- Ừ đối cũng chỉnh, nhưng mà xấc lắm.
:::12. Lỡm quan
thị:::
Có một ông quan thị (1) đại nịnh thần, được Chúa Trịnh yêu lắm. Ông ta thường
đến chơi nhà Quỳnh, thấy sách gì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay
ghét đắng, định chơi xỏ một bận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành
quyển sách để sẵn. Một hôm, thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả vờ cầm sách
xem, đợi khi ông ta đến nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách
lạ, đòi xem Quỳnh bảo:
- Sách nhảm có gì mà xem.
Quan thị năn nỉ mãi cũng không được, về tâu với Chúa. Chúa đòi Quỳnh sang hỏi.
Quỳnh đám chắc là đòi về chuyện quyển sách, mới lấy bút viết mấy câu vào sách bỏ
vào tráp khoá lại, rồi sang hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu:
- Không có sách gì lạ, chắc thị thần tâu man với Chúa đó.
Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách lạ, bắt phải đem trình.
Quỳnh sai người vè đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một quyển sách mỏng. Quỳnh
rụt rè không dám đưa. Chúa bảo:
- Cứ đưa ta xem. Nếu sách lạ thì ta thưởng, mà có phải sách can phạm thì ta cũng
xá cho, đừng ngại.
Quỳnh đưa ra. Chúa mở ra xem, chỉ thấy có mấy câu:
"Chúa vị thần viết: Vi cốt tứ địch, vi cốt tứ địch. Thị thần qui nhị tấu viết:
Thần phong chỉ phát, thần phông chỉ phát".
Chúa ngẫm lại không biết nghĩa ra làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh rụt rè
tâu:
- Sách ấy là sách nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra rác
tai Chúa!
Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được.
Quỳnh vâng lệnh tâu với Chúa, câu ấy nghĩa là:
"Chúa hỏi thị thần rằng: làm xương cho sáo, làm xương cho sáo. Thị thần quỳ mà
tâu rằng: "Tôi may ngón tóc, tôi may ngón tóc".
Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa vẫn chưa hiểu ra, lại hỏi:
- Ða đành nghĩa đen là như thế, nhưng ý tứ thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cười không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng hỏi.
Quỳnh mới tâu:
- Xin chúa đọc đảo lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy giờ Chua với quan thị
mới biết Quỳnh lỡm, bảo Quỳnh mang sách về.
Quỳnh ra, quan thị chạy theo trách Quỳnh nhạo cả Chúa, thực là người vô phu, vô
quân.
Quỳnh dáp lại rằng:
- Ngài bảo tôi là vô phu, vô quân thì bọn thưòng thị đời Hậu Hán là gì? Tôi đã
giấu mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai?
Quan Thị tịt mắt.
(1) Tức bọn hoạn quan
:::13. Chọi
gà:::
Bọn quan thị, gà thật không có (1) mà lại cứ hay chọi gà. Nghe nói Quỳnh chọi gà
với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, chọi thử một vài cựa chơi.
Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối, nói là không có gà, nhưng họ nhiễu mãi,
phải ừ và hẹn đến mai di bắt gà về sẽ chọi. Bên láng giềng có một con gà trống
thiến, Quỳnh mượn mang vè.
Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống
thiến đem ra chọi. Vừa giao mỏ được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà
trống thiến một cựa vào bụng vỡ hầu lăn cổ chết ngay. Quan thị vỗ tay reo:
- Thế mà đồ rằng gà của Trạng hay, chọi được gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả!
Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ nói:
- Các ngài nói phải, trước gà tôi chọi hay lắm, nhưng từ khi tối thiến đi, thì
nó đốn đời ra thế!
Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mày, gà ôi! Tao đã bảo thân phận mày không
dái thì chịu trước đi cho thoát đời, lại con ngứa nghề làm gì cho đến nỗi thế!
Thôi mày chết cũng đáng đời, còn ai thương nữa, gà ôi!"
Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng.
(1) ý thỉ bọn hoạn quan
:::14. Ăn trộm
mèo:::
Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích bằng xích vàng và cho ăn những đồ mỹ vị.
Quỳnh vào chầu, trong thấy, bắt trộm về, cất xích vàng đi mà buộc xích sắt, nhốt
một chỗ, đến bữa thì để hai bát cơm, một bát thịt cá, một bát rau nấu đầu tôm.
Mèo ta quen ăn miếng ngon chạy đến bát cơm thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi,
hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn bát rau nấu đầu tôm. Như thế, được hơn nửa
tháng, dạy đã vào khuôn, mới thả ra.
Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con giống hệt,
bắt Quỳnh đem mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi:
- Sao nó giống mèo của trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem về, nói
cho thật!
- Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử
thì biết.
- Thử thế nào? Nói cho trẫm nghe.
- Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì
mèo ăn cơm với đầu tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào
thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch.
Quỳnh nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú quý thì ăn cao lương mỹ vị, bần tiện thì cơm
hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
Rồi lạy tạ đem mèo về.
:::15. Tương,
muối cũng ngon:::
Chúa Trịnh quanh năm ăn toàn sơn hào, hải vị, chả thiếu thức gì, mà vẫn không
thấy ngon miệng.
Môt hôm, Quỳnh túc trực, Chúa bảo:
- Ta ăn đủ của thơm vật lạ, mà không biết ngon. Ngươi có biết thứ gì ngon thì
nói cho ta hay?
- Tâu Chúa, Chúa đã xơi mầm đá chưa ạ?
- Vị ấy ngon lắm à?
- Dạ, ngon lắm.
- Thật như thế thì làm để ta nếm thử xem?
Quýnh sai người lập tức đi lấy "mầm đá" về ninh nhừ để làm đồ ngự thực, còn mình
thì lủi về nhà lấy một lọ tương ngon, một đĩa muối trắng. Lọ tương thì bịt thật
kỹ ngoài đề hai chữ "Ðại phong" đem sang giấu một chỗ.
Chúa đợi lâu, thấy đói bụng, hỏi:
- Mầm đá đã chín chưa?
Quỳnh thưa: Chưa được.
Chốc chốc, Chúa lại hỏi, Quỳnh tâu:
- Thứ ấy phải cho thật chín, không thì lâu tiêu.
Khuya, Chúa lại hỏi. Quỳnh biết Chúa đói lắm rồi, mới tâu:
- Xin Chúa hãy xơi tạm vài thứ dã vị này, còn mầm đá xin dâng sau.
Rồi truyền dọn cơm tương với muối dâng lên. Chúa đang đói, ăn ngon miệng. Trông
thấy lọ đề hay chữ "Ðại phong" lấy làm lạ. Chúa hỏi:
- Mầm Ðại phong là mầm gì mà ngon thế?
- Bẩm là đò dã vị thường dùng.
- Là gì, nói lên cho ta biết?
- Bẩm tương ạ?
- Ngươi đề hai chữ Ðại phong là nghĩa là sao?
- Bẩm Ðại phong là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng lo, tuợng lo
là lọ tương.
- Lâu nay ta không ăn, quên mất cả vị, sao ngon thế?
- Tâu Chúa, quả không sai. Lúc đói thì ăn gì cũng ngon, no thì không thấy gì vừa
miệng!
Chúa cười bảo:
- Ngươi nói phải. Thế ra ngươi làm cho ta thật đói để ăn cho biết ngon, chứ đợi
mầm đá thì biết đến bao giờ cho chín.
:::16. Bà Chúa
mắc lỡm:::
Một bà Chúa có nhan sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý
là sai lính bắt đánh liền. Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có
cái ao bèo. Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đứng đá nước chơi.
Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi:
- Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi!
Chúa đỏ mặt tía tai, bỏ đi.
:::17. Tiên sư
thằng Bảo Thái:::
Một hôm, Quỳnh cho người ra bảo các hàng thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc thết
các quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân, nhưng phải thái sẵn cho đỡ mất công
người nhà. Các hàng thịt mừng rỡ, sáng hôm sau đã thái thịt đầy nhà chờ người
nhà Trạng đến lấy. Ai ngờ đợi mãi đến trưa mà cũng chẳng thấy ai, họ bèn tới nhà
Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có khách khứa gì cả. Hỏi Trạng thì Trạng bảo
không biết: "Chắc là có đứa nào muốn lỡm bà con đây. Cứ gọi thằng nào bảo thái
mà chửi".
Bọn hàng thịt tức mình về réo gọi thằng bảo thái mà chửi:
- Tiên sư thằng bảo thái! Tiến sư thằng bảo thái!
Bảo thái là niên hiệu vua Lê Dụ Tông (1720-1726). Thành thử vua bị chửi một bữa
inh cả phố.
:::18. Hút chết
vì quả đào:::
Quỳnh cậy tài, đùa cả với chúa, không từ ai. Một hôm, lúc túc trực trong cung,
có người đem đâng vua một mâm đào, gọi là "đào trường thọ", Quỳnh thủng thỉnh
lại gần, lấy một quả, ngồi ăn, giữa đông đủ mặt vua quan, mà làm như không trông
thấy ai cả. Vua quở, giao xuống cho các quan nghi tội. Các quan chiếu theo luật
"mạn quân" tâu nghị trảm. Quỳnh quỳ xuống tâu rẳng:
- Ðinh thần nghị tội hạ thần như vậy, thạt là đúng luật, không oan, song xin
Hoàng thượng rộng dung cho hạ thần được nói vài lời rồi chết cho thỏa!
Vua phán: - Ừ, muống nói gì cho nói!
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh, sợ số chết non, thấy quả gọi là quả
"trường thọ" thèm quá tưởng ăn vào được sống lâu như Bánh Tổ, để được thờ nhà
vua cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồm mà chết đã đến cổ! Hạ thần trộm
nghĩ nên đề tên quả ấy là quả "đoản thọ" thì phải hơn, và xin nhà vua trị tội
đứa dâng đào đẻ trừ kẻ xu nịnh.
Vua nghe Quỳnh tâu phải, bật cười tha tội cho.
:::19. Chúa ngủ
ngày:::
Một buổi trưa, Quỳnh vào hầu Chúa, không thấy Chúa ở cung, hỏi thị vệ, thì ra
Chúa đương giấc. Quỳnh không được tiếp, sẵn bút nghiên, đề ngay hai chữ vào
tường rồi giở ra về.
Lúc Chúa dậy ra công đường, thấy ở tường có hai chữ "ngọa sơn" nét mực hãy còn
ướt, không biết ai đề và cũng không biết nghĩa làm sao, hỏi thị vệ mới hay Quỳnh
đề. Ðến buổi hầu chiều, đông đủ các quan, Chúa hỏi, không ai tán được, phải
triệu Quỳnh đến.
Quỳnh đến, Chủa hỏi. Quỳnh thưa:
- Hai chữ ấy có nghĩa gì sâu sắc đâu, hạ thần cứ lấy nghĩa đen mà viết, không
dám có ý tứ gì hiểm hóc cả.
- Cứ cắt nghĩa cho ta nghe, không hề chi mà ngại.
Quỳnh ngập ngừng mãi, mới nói:
- Chữ "ngọa" nghĩa là "nằm", "nằm" hẳn không ai nằm không, tất phải ngáy, chữ
"sơn" nghĩa là "núi", "núi" ắt phải có đèo, vậy hợp hai chữ làm một thì nghĩa là
"ngáy đèo".
Cả triều thần ai cũng cười. Chúa cũng bật cười. Tan hầu, các quan trách Quỳnh:
- May mà Chúa rộng lượng, chứ không thì hôm nay ông mất đầu!
Quỳnh cười không nói gì.
:::20. Cây nhà
lá vườn:::
Quỳnh nhiều lần thất lễ với chúa, nên trước Chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại
ghét bấy nhiêu. Quỳnh thấy Chúa ghét, lại càng trêu tợn.
Một lần, Chúa sai lính đến kéo đổ nhà Quỳnh. Quỳnh thấy lính đến thì bảo:
- Chúa sai các anh đến kéo đổ nhà ta thì các anh cứ việc kéo, không được reo,
được cười, ai mà reo cười thì ta cắt lưỡi,
Nghề kéo nặng thì phải reo hò, không dô ta, không hò khoan đố ai kéo được. Bọn
lính phải chịu về không.
Lại một lần nữa, Chúa sai lính đến ỉa giữa nhà Quỳnh. Quỳnh cầm dao ra bảo lính:
- Chúa sai các anh đến ỉa giữa nhà ta, thì cứ việc ỉa, nhưng cấm đái, anh nào mà
đái ta cắt dái đi.
Ỉa ai mà nhịn đái được, bọn lính phải cắp đít về. Có một vài anh láo, nghe thấy
thế, đái ở trước nhà, rồi mới đến ỉa, lại đem gáo dừa đề phòng. Quỳnh thấy nó
lập mưu trước, đành chịu nhưng trong bụng căm lắm, bèn kiếm cách xược lại Chúa.
ít lâu sau, Quỳnh đi mua một cây cải thật to sai người đem dâng, làm cơm chúa
xơi. Khi Quỳnh vào hầu, Chúa hỏi cải đâu mà to lạ thế và khen ngon.
Quỳnh thưa:
- Cải nhà trồng, trước nó không to mấy, nhờ độ nọ Chúa sai lính đến ỉa nhà thần,
thần đem phân ấy bón cho, nên lớn bổng lên thế. Cây nhà lá vườn đem dâng để chúa
xơi.
Chúa Trịnh tái mặt lại.
:::21. Trạng
chết Chúa cũng băng hà:::
Từ ngày ấy Chúa có bụng ghét Quỳnh. Ðược mươi hôm, Chúa đòi Quỳnh vào thị yến,
định đánh thuốc độc cho chết. Quỳnh biết Chúa căm về mấy chuyện trước, lần này
đòi vào thị yến chắc là có chuyện. Lúc đi dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào hầu yến Chúa, lành ít, dữ nhiều. Ta có mệnh hệ nào, thì không
được phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng, cắt hai đứa quạt hầu, rồi gọi nhà
trò về hát, đợi bao giờ phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang.
Dặn xong, lên võng đi.
Quỳnh vào đến cung, đã thấy Chúa ngồi đấy rồi. Chúa bảo:
- Lâu nay không thấy mặt, lòng ta khát khao lắm. Vừa rồi, có người tiến hải vị,
ta nhớ đến ngươi, đòi vào ăn yến, ngươi không được từ.
Quỳnh biết Chúa thù về cây cải hôm nọ, không ăn không được. Vừa nếm một miếng
thì Chúa hỏi:
- Bao giờ Quỳnh chết?
Quỳnh thưa:
- Bao giờ Chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết.
Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khang khác, cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt
hơi. Vợ con cứ theo lời Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai người dò xem Quỳnh có việc gì
không, thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà người nhà thì đi lại vui
vẻ như thường, về tâu với Chúa. Chúa liền đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc thế
nào mà Quỳnh không việc gì.
Chúa ăn thử, được một chốc thì Chúa lăn ra chết.
Nhà Quỳnh nghe thất trong dinh Chúa phát tang, thì ở nhà cũng phát tang. Chúa và
Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh chết đến cổ còn lừa được Chúa mới
nghe.
Người đời về sau có câu thơ:
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn.