Ông Dài Ông Cộc, Truyện
Cổ Tích
Ngày xưa, ở vùng sông Tranh thuộc về tỉnh Đông có hai vợ chồng một nhà nọ, gia
tư cũng vào hạng khá, nhưng tuổi già mà chưa có con. Thường ngày họ cầu trời có
một đứa con cho vui tuổi già. Một hôm trong khi ra đồng phát ruộng, người chồng
nhặt được hai quả trứng to bằng nắm tay, bèn đưa cho vợ xem. Xem xong, chồng
định vứt đi, nhưng người vợ ngăn lại: - "Đừng vứt, cứ để cho nó nở xem thử con
gì". Bèn đưa vè bỏ vào vò đặt bên cạnh bếp. Chỉ trong mấy ngày, trứng nở thành
một cặp rắn nhỏ trên đầu có mào đỏ rất xinh. Thấy vậy, người chồng định đánh
chết, nhưng vợ ngăn lại: - "Đừng đánh tội nghiệp. Cứ để mặc tôi, tôi nuôi chúng
làm con". Hai con rắn rất khôn, từ đó quấn quít với người, đi đâu cũng đi theo.
Chúng chóng lớn, mới bằng chiếc đũa, chẳng bao lâu đã to bằng ngón tay. Một hôm
người chồng cuốc vườn, cặp rắn bò theo sát nút để kiếm cái ăn trong đất mới lật.
Vô tình một nhát cuốc bổ xuống làm đứt đuôi một con. Con rắn quằn quại. Người vợ
kêu lên: - "Chà, tội nghiệp! Mày cứ quẩn bên chân ông lão làm gì cho khổ thân
thế này!". Từ đó con rắn bị đứt đuôi ngày một trở nên hung dữ hơn con kia.
Hai con càng lớn càng ăn khỏe. Chúng thường bò vào chuồng gà các nhà lân cận tìm
bắt gà con. Bị xóm giềng chửi bới luôn canh, một hôm chồng bảo vợ: - "Thôi! Ta
đem thả chúng xuống sông cho chúng kiếm ăn, kẻo để lại có ngày mang họa". Hai vợ
chồng bèn mang cặp rắn đến bờ sông thả xuống và nói:
- Bớ các con! Các con hãy ở đây tự kiếm lấy cái nuôi thân, đừng có trở về, bố mẹ
không đủ sức nuôi các con nữa!
Cặp rắn vừa thả xuống nước, lập tức sóng gió nổi lên ầm âm, các loài thủy tộc ở
các nơi về tụ hội bơi lượn đông đảo. Hai vợ chồng rất kinh ngạc. Đêm lại, chúng
về báo mộng cho họ biết là chúng đã được vua Thủy cho cai quản khu vực sông
Tranh.
Từ đó hai con rắn làm oai làm phúc suốt cả một khúc sông rộng. Người ta lập đền
thờ chúng bên sông, gọi chúng là Đức ông tuần Tranh, cũng gọi là Ông Dài, ông
Cộc. Tuy mọi thứ cần dùng đã có bộ hạ cung đốn đầy đủ, nhưng chúng vẫn thỉnh
thoảng bắt súc vật và người qua lại trên sông. Duy ông Cộc bản tính dữ tợn, ngày
một trở nên ngang ngược, lại tỏ ra hiếu sắc. Thuyền bè đi qua đó, nó thường xoáy
nước nổi sống dữ dội làm cho bị đắm để bắt người lấy của. Mỗi lần nghe tin có
xảy ra tai nạn, hai vợ chồng bố mẹ nuôi ông Dài ông Cộc vẫn thường ra bờ sông
hết lời van vái con, để mong chúng đỡ phá phách. Chúng cũng có nghe, nhưng rồi
chứng nào vẫn tật ấy.
* * *
Một hôm, có hai vợ chồng một người họ Trịnh có việc đi thuyền qua đấy đỗ lại.
Người vợ là Dương thị vốn người xinh đẹp làm cho ông Cộc mê mẩn. Đêm lại, bỗng
dưng từ dưới nước có hai người con gái bước lên thuyền, mỗi người đầu đội một
mâm lễ vật. Chúng đặt mâm xuống trước mặt anh học trò và nói: - "Đây là lễ vật
của ông Cộc. Đức ông chẳng bao giờ hạ mình làm những việc như thế này, nhưng chỉ
muốn nhà thầy vui lòng nhường lại chỗ cho người vợ". Người học trò chưa bao giờ
nghe có chuyện trắng trợn thế ấy, bèn quát: - "Về báo với đức ông chúng mày hãy
mau mau bỏ thói ngang ngược. Ta là người đọc sách thánh hiền, không bao giờ ta
lại sợ loài quỷ quái". Chưa dứt lời đã không thấy hai người con gái đâu nữa.
Người học trò tuy nói cứng, nhưng vốn từng nghe những câu chuyện về ông Dài, ông
Cộc nên cũng có ý sợ. Bèn bảo vợ cầm lấy tay nải rồi cả hai từ giã chủ thuyền
bước lên bờ. Nhưng không kịp nữa rồi. Ông Cộc đã nói là làm. Thấy con mồi đã lên
bộ, ông bèn đuổi theo, hóa làm một trận mưa bão kinh khủng làm cho họ không thể
tiếp tục đi được. Người học trò đành đưa vợ vào trú ở một ngôi đền gần đó. Mưa
bão kéo dài suốt đêm. Sáng dậy bão tạnh, người học trò tỉnh dậy đã thấy vợ mình
biến đi đâu mất. Anh theo dấu đến bờ sông chỉ còn thấy quần áo của vợ trút bỏ
lại đó.
Đau xót vì mất người vợ yêu, anh chàng học Trịnh bèn đi lang thang khắp nơi tìm
cách trả thù. Trải qua bao nhiêu ngày tháng. Một hôm qua một cái chợ, anh bỗng
gặp một ông thầy bói hình dung cổ quái đang ngồi đón khách. Anh ngồi xuống xin
một quẻ về gia sự. Thầy bói gieo quẻ, nói: - "Nhà ngươi đang có sự lo buồn". Anh
đáp lời: - "Xin thầy cứ cho biết". - "Vợ nhà ngươi bị một kẻ có quyền cướp mất".
- "Chịu thầy. Xin cho biết vợ tôi hiện nay ở đâu?" và có cách gì cứu được vợ tôi
không? " - "Không giấu gì nhà ngươi, ta vốn là Bạch Long hầu vốn có phận sự làm
mưa ở vùng này. Thấy việc tác quái, ta muốn giúp nhà ngươi trả được mối thù. Ta
đợi nhà ngươi ở đây đã lâu. Kẻ kia tuy quyền thế nhưng không thể làm loạn chính
pháp. Vậy nhà ngươi hãy theo ta. Trước hết hãy dò tìm tung tích vợ ngươi để nắm
được chứng cớ đầy đủ".
Người học trò tưởng không còn gì mừng hơn thế nữa, bèn sụp lạy Bạch Long hầu,
rồi bước theo bén gót. Đến bờ biển, Bạch Long hầu bảo anh nhắm mắt, đoạn rẽ nước
đưa anh đi mãi, đi mãi đến một hòn đảo xa tít ngoài biển Đông. Sáng hôm sau, ông
hỏi: - "Ngươi có mang theo vật gì của vợ để nàng làm tin không?" Người học trò
đáp: - "Có". Nói rồi đưa ra một cành thoa của vợ. Bạch Long hầu cầm lấy đi ngay.
Chỉ hai hôm sau, ông đã về kể cho chàng nghe tất cả mọi việc và nói:
- Vợ người vẫn một lòng một dạ với người. Đó là một người thủy chung. Vậy mai
đây ta sẽ đưa nhà ngươi đến triều đình đánh trống "đăng văn", khi đưa nàng ra
đối chất, tự nàng sẽ tố cáo kẻ thù. Nhưng ngươi cũng phải viết sẵn một lá đơn
kiện mới được.
Chưa đầy ba ngày, vụ kiện của người học trò đã xử xong. Ông Cộc không ngờ Dương
thị lại vạch tội hắn trước tòa án vua Thủy, tuy rằng nàng đã sinh với hắn một
đứa con. Vua Thủy khi thấy chứng cớ sờ sờ về hành động gian ác của bộ hạ mình
thì đùng đùng nổi giận. Vua thét: - "Hãy bắt nó đày đi thật xa cho đến tận cùng
của đất nước!". Dương thị được đưa trở về cõi trần với họ Trịnh, hai vợ chồng
lại đoàn tụ. Còn đứa bé do Dương thị đẻ ra với ông Cộc thì giao cho ông Cộc
nuôi.
Ngày ông Cộc đi đày, tôm cá rắn rết náo động cả một khúc sông Tranh. Quân lính
áp giải ông Cộc ra biển rồi đi ngược lên phía bắc. Trải đã nhiều ngày, một hôm
họ đến một vùng nhìn vào thấy rừng cây mịt mù, không hề có khói lửa. Ông Cộc hỏi
một số người địa phương: - "Đây là đâủ" Họ đáp: - "Nơi đây đã sắp đến địa phận
nước Việt rồi. Đi qua nữa là sang nước khác". Ông Cộc bảo quân lính áp giải: -
"Vậy là đã đến chốn kỳ cùng rồi đó. Theo lệnh nhà vua, ta sẽ ở đây". Cả đoàn bấy
giờ rẽ sóng kéo vào cửa sông. Nhưng ở khúc sông này từ lâu vốn có một con thuồng
luồng trấn trị. Hắn rất không muốn chia sẻ quyền hành với kẻ mới đến. Cho nên
khi thấy ông Cộc tới, lập tức một cuộc giao phong diễn ra dữ dội từ cửa sông vào
cho đến thượng nguồn. Nước bắn tung tóe, tôm cá chết như rạ. Hai bên bờ lở sụp,
sinh mệnh tài sản của dân ven sông bị thiệt hại rất nhiều. Hai bên đánh nhau mấy
ngày không phân thua được. Ông Cộc bị thương tích đầy người, nhưng thần thuồng
luồng cũng bị toạc da chảy máu và bị đứt mất một bên tai. Thấy thế, những quân
lính áp giải vội chạy về báo cho vua Thủy biết. Cuối cùng việc lại đưa đến tòa
án cho vua Thủy. Vua bắt hai bên phải chia đôi khu vực, định lại ranh giới rõ
ràng, và từ nay về sau không được xâm lấn của nhau. Ông Cộc bèn cho đưa một tảng
đá lớn như hình một cái đầu đặt ở ven sông. Bên phía thuồng luồng cũng làm phép
hiện ra một cái chuông úp ở bờ bên này làm giới hạn.
Nhưng thần thuồng luồng vẫn chưa hết giận, vì cho rằng bỗng tự dưng vô cớ bị
chia sẻ quyền hành là do ông Cộc mà ra. Bởi vậy thuồng luồng ta thỉnh thoảng lại
gây sự đánh nhau với ông Cộc. Dân chúng hai bên bờ sông mỗi lần nghe tiếng
chuông, tiếng nước sôi động ầm ầm thì biết rằng sẽ có cuộc giao tranh kịch liệt.
Về sau vua Thủy giận thuồng luồng "bất tuân thượng lệnh", bèn sai quân kéo tới
bắt sống, xích lại, giao cho thần Núi địa phương canh giữ, còn ông Cộc từ đấy
được cai quản cả hai khu vực.
Ngày nay, bên bờ nam sông Kỳ Cùng, chỗ chân cầu tỉnh lỵ Lạng Sơn còn có một hòn
đá lớn như hình cái đầu. Còn bờ bên kia, trong một ngôi chùa cổ còn có cái
chuông bị xích, nhưng đã đứt mất một bên tai. Người ta nói cái đầu bằng đá là do
ông Cộc đặt làm mốc, còn cái chuông là hiện thân của thuồng luồng bị thần Núi
xích tại đây. Cái tên sông Kỳ Cùng cũng xuất phát từ cuộc đày ải ông Cộc mà có.