Tuyển tập truyện TRẠNG QUỲNH
1. Ðầu to
bằng cái bồ
Quỳnh khi còn bé độ bảy tám tuổi, chơi nghịch đã khác
người, lấy tàu chuối làm cờ, lá sen làm lọng, Quỳnh lại tinh ranh; trẻ con trong
làng mắc lừa luôn.
Một hôm trời tháng tám, sáng trăng, Quỳnh chơi với lũ
trẻ ở sân, bỗng Quỳnh bảo:
- Chúng bay làm kiệu tao ngồi, rồi tao đưa đi
xem một người đầu to bằng cái bồ.
Lũ trẻ tưởng thật, tranh nhau làm kiệu
rước Quỳnh đi bảy, tám vòng quanh sân, mệt thở không ra hơi. Quỳnh thấy thế bảo:
- Ðứng đợi đây, tao đi châm lửa soi cho mà xem.
Lũ trẻ sợ quá, không dám
xem, chỉ những đứa lớn ở lại. Quỳnh lấy lửa thắp đèn xong đâu đấy, rồi thò đầu
che ngọn đèn, bảo lũ trẻ:
- Kìa! Trông vào vách kia kìa! Ông to đầu đã
ra đấy!
Anh nào cũng nhìn nhớn nhơ nhớn nhác, thấy bóng đầu Quỳnh ở vách
to bằng cái bồ thật. Lũ trẻ biết Quỳnh xỏ, quay ra bắt Quỳnh làm kiệu đền. Quỳnh
chạy vào trong buồng đóng kín cửa lại, kêu ầm lên. Ông bố tưởng là trẻ đánh, cầm
roi chạy ra, lũ trẻ chạy tán loạn.
2. Câu đố
Một hôm,
nhà có giỗ, làm thịt lợn mời khách khứa đông lắm. Thấy Quỳnh hay nghịch, ai cũng
chòng ghẹo chơi. Ðương lúc Quỳnh xem làm thịt lợn, có một ông Tú tên lá Cát
thường tự phụ hay chữ chạy đến béo tai, bảo:
- Tao ra một câu đối, đối
được tao tha cho:
- Lợn cấn ăn cám tốn (1)
Quỳnh đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn (2)
Ông Tú lại ra một câu nữa, câu này có ý tự
phụ mình là ông Tú:
- Trời sinh ông Tú Cát (3)
Quỳnh lại đối:
- Ðất nứt con bọ hung
Ông Tú phải lỡm, tịt mắt. Mọt người cười ầm cả
lên.
(1) Cấn là quẻ cấn, Tốn là quẻ tốn trong bát quái. Ðây lấy nghĩa
lợn cấn (chửa) mà ăn tốn cám.
(2) Khôn là quẻ khôn, Càn là quẻ càn cũng
trong bát quái, đây lấy nghĩa con chó khôn chớ cắn càn, cắn bậy.
(3) Cát còn
có nghĩa là tốt; hung còn có nghĩa là xấu.
3. Dê đực chửa
Quan tư thiên xem thiên văn, thấy về địa phận tỉnh Thanh có một ngôi sao sáng,
chắc ở đấy có người tài, nhưng không biết làng nào, mới tâu vua. Vua giao cho
đinh thần xét. Có một vị tâu:
- Xin tư cho tỉnh thần Thanh Hoá sức mỗi
làng phải tiến một con dê đực chửa, hạn một tháng, không có thì trị tội.
Trát về đến làng, các cụ kỳ lão lo sốt vó, nhất là ông thân sinh ra Quỳnh lại
càng sợ, ông ta là huynh thứ trong làng, tất phải tội trước. Ông ta về phàn nàn
nhà vua đòi những chuyện oái oăm.
Quỳnh thấy bố buồn rầu mới hỏi:
- Hôm nay thầy có việc gì mà không được vui?
Ông bố đương bực mình liền
mắng:
- Việc làng, việc nước, trẻ con biết gì mà hỏi?
Quỳnh nhất
định hỏi cho ra, ông bố phải kể thực cho nghe. Quỳnh nghe xong, thưa:
-
Con tưởng việc gì, chứ việc ấy thì thầy không phải lo! Nhà vua bắt mua một con,
chứ bắt mua mười con cũng có. Xin thầy cứ ra nhận lời với làng, chồng cho con
trăm quan tiền để con đi mua. Không thì mình chịu tội cho cả làng.
Ông
bố thấy con nói thế, lạ lắm, nhưng nghĩ bụng: "Ta thử nghe trẻ con xem sao!" mới
đánh liều ra nhận với làng, làm tờ cam đoan, đem tiền về bảo con đi mua.
Sáng sớm, hai bố con khăn gói, cơm nắm, vác chục quan tiền ra Thăng Long mua dê.
Ðến nơi, Quỳnh nói với bố hỏi dò xem hôm nào vua ngự chơi phố. Hôm đó, Quỳnh dậy
thật sớm, lén xuống dưới cổng cửa Ðông nằm chực.
Ðợi đến quá ngọ, nghe
tiếng xe ngựa quan quân đi xình xịch trên cổng, Quỳnh liền khóc oà lên. Vừa lúc
xa giá đi qua, vua nghe tiếng trẻ khóc mà không thấy người, sai lính đi tìm, lôi
được Quỳnh ở dưới cống lên. Vua hỏi:
- Sao mày lại chui xuống cống?
Quỳnh giả vờ không biết là vua, nói:
- Thưa ông, tôi thấy xe ngựa đông,
sợ chết chẹt nên tránh xuống cống.
- Thế tại sao khóc?
- Thưa
ông, mẹ tôi chết đã ba năm nay mà mãi không thấy bố tôi đẻ để có em mà ẵm nên
tôi khóc!
- Thằng này mới dở hơi chứ! Làm gì có đàn ông đẻ bao giờ.
- Thưa ông, mới rồi tôi thấy các cụ làng tôi rủ nhau đi mua dê đực chửa để tiến
vua. Dê đực chửa được thì chắc bố tôi cũng đẻ được.
Vua và các quan đi
hộ giá đều bật cười, biết đứa bé này có tài, ứng vào ngôi sao sáng, liền thưởng
tiền và tha cho dân làng không phải cống dê đực chửa nữa.
4. Cấy
rẽ ruộng chúa Liễu
Lúc Quỳnh còn là học trò nhà nghèo, phải ra đền
Sông xin cấy rẽ. Quỳnh khấn và xin âm dương xem Chúa thuận lấy gốc hay lấy ngọn.
Ban đầu chúa thuận lấy ngọn thì Quỳnh trồng rặt thứ khoai lang. Ðến lúc được ăn,
Quỳnh đào lấy củ, còn bao nhiêu dây ngọn đem nộp chúa
Lần thứ hai, xin
âm dương, Chúa thuận lấy gốc để ngọn cho Quỳnh, thì Quỳnh trồng các thứ lúa. Ðến
mùa gặt, Quỳnh cắt lấy bông, còn bao nhiêu gốc rạ đem nộp Chúa.
Chúa hai
lần mắt hợm, tức lắm, song đã trót hứa rồi, không biết làm thế nào được. Lần thứ
ba, Quỳnh đến xin thì Chúa bảo lấy cả gốc, lẫn ngọn, còn khúc giữa cho Quỳnh,
Quỳnh vờ kêu ca:
- Chị lấy thế thì em còn được gì nữa!
Khấn đi
khấn lại mãi, Chúa nhất định không nghe, Quỳnh về trồng rặt ngô, đến kỳ bẻ ngô,
bao nhiêu bắp Quỳnh giữ lại, còn ngọn và gốc thì đem nộp Chúa.
Chúa mắc
mưa Quỳnh ba lần, đòi lại ruộng, song trong ba vụ này, Quỳnh đã kiếm được cái
vốn to rồi.
5. Vay tiền chúa
Lại một lần Qùynh vào
yết đền, thấy chúa có nhiều tiền, trông sướng mắt, định vay. Quỳnh khấn:
- Em độ này túng lắm, chị có tiền để không, xin cho em vay để em buôn bán, kiếm
ít lời.
Nói rồi, khấn đài âm dương: "Sấp thì chia tư, chị cho em vay một
phần, ngửa thì chia ba, chị cho một phần, chị mà thuận cho một nửa thì xin nhất
âm nhất dương."
Thấy đằng nào Quỳnh cũng vay được, mà ý Chúa thì không
muốn cho vay, vì biết được là cho vay, Quỳnh sẽ không trả, liền cứ làm cho hai
đồng tiền quay tít, chẳng sấp mà cũng chẳng ngửa.
Quỳnh thất thế vỗ tay
reo:
- Tiền múa Chúa cười, thế là chị bằng lòng cho em vay cả rồi!
Nói xong, vác hết cả tiền về.
6. Trả ơn chúa Liễu
Gặp
khoa thi, Quỳnh ra ứng thi. Ðường đi qua đền Sông, Quỳnh vào yết Chúa, xin Chúa
phù hộ cho, đỗ thì xin trả lễ. Quỳnh ra thi, quả nhiên đỗ thật. Vinh qui về,
Quỳnh mua một con bò mẹ, một con bò con, đem đến lễ, Quỳnh quỳ xuống lạy, rồi
dắt con bò mẹ đến buộc vào tay ngai mà khấn rằng:
- Chúa có lòng thương
phù hộ cho Quỳnh được đỗ, nay gọi là có một con bò để trả lễ. Xin Chúa nhận cho.
Chúa là chị, xin lễ con lớn, còn con nhỏ, em xin đem về khao dân.
Nói
rồi, dắt con bò vè. Con bò mẹ thấy dắt mất con đi, lồng lên chạy theo, làm ngai
Chúa đổ lổng chổng, long gẫy cả. Quỳnh cười nói:
- Chị thương em nghèo,
trả không lấy, thì em xin đem về vậy.
Nói rồi dắt cả hai mẹ con bò về.
7. Dòm nhà quan Bảng
Ðồ rằng Quỳnh xinh cùng thời với Thị Ðiểm
Quan Bảng sinh ra thị Ðiểm, dạy học trò đông lắm. Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem
bình văn, để ngấp nghé cô Ðiểm. học trò biết ý, vào thưa với quan Bản, ngài bắt
vào hỏi.
Quỳnh thưa:
- Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình
văn, tôi đến nghe trộm.
Quan Bảng nói:
- Ta biết hết rồi, anh
đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra
cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!
Quỳnh vâng.
Quan
Bảng ra một câu:
- Thằng quỷ ôm cái dấu, đứng cửa khôi nguyên
Quỳnh ứng khẩu đối ngay:
- Con mộc dựa cây bàng, dòm nhà bảng Nhãn
Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn
học. Quỳnh học tấn tới lắm, kỳ nào văn cũng được đọc. Từ ngày trường quan Bảng
có Quỳnh, bao nhiêu học trò danh sĩ đều phải nhận Quỳnh tài giỏi hơn cả.
Quan Bảng thấy Quỳnh học giỏi, có ý muốn gả cô Ðiểm cho, mà cô Ðiểm nghe cũng
thuận.
Quỳnh biết rằng cô Ðiểm vào tay mình rồi, thoả được ước nguyền,
song tính tinh nghịch, cứ đùa cợt luôn. Cô Ðiểm đứng đắn, thùy mị không ứa chớt
nhả, Quỳnh lại càng ghẹo dai.
8. Quan trường mắc lỡm
Khi vào trường thi, không mấy lúc Quỳnh ngồi yên, trong lều cứ đeo ống quyển đi
vẩn vơ gần đường thập đạo. Quan trường biết Quỳnh hay chữ, thấy đi nhung nhăng
thì hỏi:
- Ðã làm xong được bài chưa, đưa xem?
Quỳnh thưa:
- Mới xong được vài đoạn, nhưng mà thối lắm, không thể ngửi được, xin các ông
đừng xem!
Quan trường thấy Quỳnh muốn giấu, mới bảo:
- Thối thì
thối cứ đưa đây!
Quỳnh thưa:
- Quả thối thật, đưa ra sợ các quan
bưng mũi không kịp!
Các quan không tin, cho là Quỳnh nhún mình, nhất
định đòi xem cho được. Bất đắc dĩ, Quỳnh phải nói to:
- Tôi nói thật,
các quan không nghe, xem xong đừng có trách tôi nhé!
Rồi trao ống quyển
cho các quan. Không ngờ Quỳnh hoà cứt vào nước đái để trong ống, bắt châu chấu
bỏ vào từ bao giờ, lúc các quan mở ra, nó bay tung lên bẩn cả quần áo, chạy
không kịp.
Quỳnh cười ầm lên:
- Tôi đã nói thực, lại cứ đòi xem!
Các quan giận lắm, nhưng không lấy lý gì bắt lỗi được Quỳnh.
Ðến kỳ thi
Hội, chúa Trịnh cứ ép Quỳnh đi thi để lấy Trạng. Quỳnh không thiết. Chúa ép mãi,
phải nghe. Lúc vào thi, làm văn xong, còn thừa giấy, Quỳnh vẽ ngựa, vẽ voi vào
sau quyển, rồi đề mấy câu thơ rằng:
Văn chương phú lục đã xong rồi,
Thừa giấy làm chi chẳng vẽ voi.
Tớ có một điều xin bảo thật
Ai mà cười
tớ nó ăn bòi!
Làm thế cốt cho phạm trường quy, không lấy đỗ được.
9. Trả nợ anh lái đò
Quỳnh đi đò ngang thường chịu tiền, lâu quá hóa
nhiều, không trả được.
Lúc anh lái đò đến đòi, Quỳnh bảo:
- Ừ
đợi đấy, mai ta trả.
Rồi mua tre nứa, lá gồi làm một cái nhà bè ở giữa
sông, trong đề một câu:
Ð... mẹ thằng nào bảo thằng nào!
Và phao
ầm lên rằng đó là lầu yết thơ của Trạng.
Thấy nói thơ Trạng, thiên hạ nô
nức kéo nhau đi xem. Ði đò ra đến nơi, thấy độc một câu như thế, chán quá liền
đi đò về. Người khác gặp hỏi thì chỉ trả lời: "Ra mà xem!"
Thế là thiên
hạ càng thấy lạ, càng xô nhau ra xem. Anh lái đò chở hết chuyến nọ đến chuyến
kia không kịp, trong ba bốn ngày, được không biết bao nhiêu tiền.
Ðược
mấy hôm, Quỳnh dỡ nhà bè, bán lại cho anh lái đò. Anh lái đò trừ nợ. Quỳnh mắng:
- Anh còn nợ ta thì có, ai làm cho anh mấy hôm chở được bấy nhiêu tiền?
Anh lái đò mới nhận ra, liền cám ơn Quỳnh rồi rít và xin trả đủ tiền.
10. Ông nọ bà kia
Ở làng Quỳnh có mấy người tấp tểnh công danh, nay
cầu mai cục nhờ Quỳnh gây dựng cho, may ra được tý phẩm hàm để khoe với làng
nước. Một hôm, Quỳnh ở kinh đô về, sai người mời mấy anh ấy lại bảo:
-
Giờ có dịp may, nào các anh có muốn làm ông nọ bà kia thì nói ngay.
Thấy
Quỳnh ngỏ lời như thế, anh nào cũng như mở cờ trong bụng, tranh nhau nhận trước.
Quỳnh bảo:
- Ðược các anh về nhà thu xếp khăn gói, rồi lại đây uống rượu
mừng với ta, mai theo ta ra kinh đô sớm.
Anh nào anh nấy lật đật về nhà,
vênh váo, đắc chí lắm, có anh về đến cổng, thấy vợ đang làm lụng lam lũ, liền
bảo vợ:
- Ít nữa làm nên ông nọ bà kia, không được lam lũ thế mà người
ta cười cho.
Vợ hỏi:
- Bao giờ làm quan mà khoe váng lên thế?
- Nay mai thôi, sắp sửa khăn gói để mai đi sớm!
Nói xong, vội vàng lại
nhà Quỳnh đánh chén. Anh nào anh nấy uống say tít, rồi mỗi anh nằm một xó. Ðến
khuya, Quỳnh sai người đem võng, võng anh nọ về nhà anh kia, anh kia về nhà anh
nọ, nói dối rằng: Say rượu ngộ cảm phải bôi dầu xoa thuốc ngay không thì oan
gia!
Các "bà lớn" đang mơ màng trong giấc mộng, thấy người gõ cửa mà lại
nói những chuyện giật mình như thế, mắt nhắm mắt mở, tưởng là chồng, ôm xốc ngay
vào nhà, không kịp châm đèn đóm, rồi nào bôi vôi, nào xoa dầu, miệng lẩm bẩm:
"Rượu đâu mà rượu khốn, rượu khổ thế! Ngày mai lên đường mà bây giờ còn say như
thế này! Nhờ phúc ấm có làm được ông nọ bà kia thì cũng lại tiền toi thôi!"
Xoa bóp cho đến sáng, nhìn thì hoá ra anh láng giềng, các bà ngẩn người mà các
anh đàn ông kia lại càng thẹn, cứ cúi gầm mặt xuống cút thẳng. Về nhà thấy vợ
mình cũng đang ngẩn người, đỏ mặt tía tai, vội nói ngay:
- Ai ngờ nó...
xỏ thế! Tưởng ông nọ bà kia là thế nào! Thôi kệch đến già!
11.
Nhặt bã trầu
Một ông quan vào quán ngồi bệ vệ lắm, Quỳnh giả làm học
trò xác, mon men đến đứng bên, hễ thấy quan ăn miếng trầu nào nhả bã ra thì lại
cúi xuống nhặt.
Quan hỏi:
- Mày là ai?
- Bẩm, tôi là học
trò.
- Học trò sao lại lẩn thẩn thế?
- Bẩm, chúng tôi thấy
phương ngôn thường nói: "Miệng kẻ sang có gang có thép!", chúng tôi nhặt xem
gang thép như thế nào.
Quan thấy Quỳnh có ý xược, ra oai thét:
-
Ðã xưng là học trò, thì phải đối ngay câu phương ngôn ấy đi, đối được thì tha
cho, không sẽ đánh đòn!
Quỳnh rụt tè thưa:
- Bẩm quan khó lắm!
Quan lại quở:
- Khó thì khó cũng phải đối!
- Bẩm quan con xin
đối.
- Nói mau!
Quỳnh mới đọc:
- Ðồ nhà khó vừa nhọ vừa
thâm.
Quan ngồi lặng đi rồi đỏ mặt nói:
- Ừ đối cũng chỉnh,
nhưng mà xấc lắm.
12. Lỡm quan thị
Có một ông quan
thị (1) đại nịnh thần, được Chúa Trịnh yêu lắm. Ông ta thường đến chơi nhà
Quỳnh, thấy sách gì cũng mượn xem, mà ít khi trả. Quỳnh ghét cay ghét đắng, định
chơi xỏ một bận cho chừa. Quỳnh bèn lấy giấy trắng đóng thành quyển sách để sẵn.
Một hôm, thấy bóng quan thị đằng xa, Quỳnh giả vờ cầm sách xem, đợi khi ông ta
đến nơi thì giấu đi. Quan thị thấy Quỳnh giấu, ngỡ là sách lạ, đòi xem Quỳnh
bảo:
- Sách nhảm có gì mà xem.
Quan thị năn nỉ mãi cũng không
được, về tâu với Chúa. Chúa đòi Quỳnh sang hỏi. Quỳnh đám chắc là đòi về chuyện
quyển sách, mới lấy bút viết mấy câu vào sách bỏ vào tráp khoá lại, rồi sang
hầu. Quả nhiên như thế. Quỳnh tâu:
- Không có sách gì lạ, chắc thị thần
tâu man với Chúa đó.
Chúa thấy Quỳnh chối, lại càng tin là Quỳnh có sách
lạ, bắt phải đem trình. Quỳnh sai người vè đem tráp sang, mở ra, chỉ thấy có một
quyển sách mỏng. Quỳnh rụt rè không dám đưa. Chúa bảo:
- Cứ đưa ta xem.
Nếu sách lạ thì ta thưởng, mà có phải sách can phạm thì ta cũng xá cho, đừng
ngại.
Quỳnh đưa ra. Chúa mở ra xem, chỉ thấy có mấy câu:
"Chúa
vị thần viết: Vi cốt tứ địch, vi cốt tứ địch. Thị thần qui nhị tấu viết: Thần
phong chỉ phát, thần phông chỉ phát".
Chúa ngẫm lại không biết nghĩa ra
làm sao, bảo Quỳnh cắt nghĩa thì Quỳnh rụt rè tâu:
- Sách ấy là sách
nhảm nhí của tiểu thần chỉ xem khi buồn, sợ cắt nghĩa ra rác tai Chúa!
Chúa nhất định không nghe, bắt Quỳnh cắt nghĩa cho được.
Quỳnh vâng lệnh
tâu với Chúa, câu ấy nghĩa là:
"Chúa hỏi thị thần rằng: làm xương cho
sáo, làm xương cho sáo. Thị thần quỳ mà tâu rằng: "Tôi may ngón tóc, tôi may
ngón tóc".
Quỳnh cắt nghĩa, nhưng chúa vẫn chưa hiểu ra, lại hỏi:
- Ða đành nghĩa đen là như thế, nhưng ý tứ thế nào?
Quỳnh tủm tỉm cười
không dám nói. Chúa và quan thị đứng hầu bên càng gặng hỏi. Quỳnh mới tâu:
- Xin chúa đọc đảo lại thì ra nghĩa, nhưng mà tục lắm. Bấy giờ Chua với quan thị
mới biết Quỳnh lỡm, bảo Quỳnh mang sách về.
Quỳnh ra, quan thị chạy theo
trách Quỳnh nhạo cả Chúa, thực là người vô phu, vô quân.
Quỳnh dáp lại
rằng:
- Ngài bảo tôi là vô phu, vô quân thì bọn thưòng thị đời Hậu Hán
là gì? Tôi đã giấu mà ngài cứ nịnh để đòi ra cho được thì lỗi tại ai?
Quan Thị tịt mắt.
(1) Tức bọn hoạn quan
13. Chọi gà
Bọn quan thị, gà thật không có (1) mà lại cứ hay chọi gà. Nghe nói Quỳnh chọi gà
với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, chọi thử một vài cựa chơi.
Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối, nói là không có gà, nhưng họ nhiễu mãi,
phải ừ và hẹn đến mai di bắt gà về sẽ chọi. Bên láng giềng có một con gà trống
thiến, Quỳnh mượn mang vè.
Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà
lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến đem ra chọi. Vừa giao mỏ được một vài
nước, thì gà quan thị đá cho gà trống thiến một cựa vào bụng vỡ hầu lăn cổ chết
ngay. Quan thị vỗ tay reo:
- Thế mà đồ rằng gà của Trạng hay, chọi được
gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả!
Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ nói:
-
Các ngài nói phải, trước gà tôi chọi hay lắm, nhưng từ khi tối thiến đi, thì nó
đốn đời ra thế!
Rồi ôm gà mà than thở: "Khốn nạn thân mày, gà ôi! Tao đã
bảo thân phận mày không dái thì chịu trước đi cho thoát đời, lại con ngứa nghề
làm gì cho đến nỗi thế! Thôi mày chết cũng đáng đời, còn ai thương nữa, gà ôi!"
Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng.
(1) ý thỉ bọn hoạn quan
14. Ăn trộm mèo
Nhà vua có một con mèo quý lắm, xích bằng xích vàng
và cho ăn những đồ mỹ vị.
Quỳnh vào chầu, trong thấy, bắt trộm về, cất
xích vàng đi mà buộc xích sắt, nhốt một chỗ, đến bữa thì để hai bát cơm, một bát
thịt cá, một bát rau nấu đầu tôm. Mèo ta quen ăn miếng ngon chạy đến bát cơm
thịt cá chực ăn. Quỳnh cầm sẵn roi, hễ ăn thì đánh. Mèo đói quá, phải ăn bát rau
nấu đầu tôm. Như thế, được hơn nửa tháng, dạy đã vào khuôn, mới thả ra.
Vua mất mèo, tiếc quá, cho người đi tìm, thấy nhà Quỳnh có một con giống hệt,
bắt Quỳnh đem mèo vào chầu. Vua xem mèo, hỏi:
- Sao nó giống mèo của
trẫm thế? Hay khanh thấy mèo của trẫm đẹp bắt đem về, nói cho thật!
-
Tâu bệ hạ, bệ hạ nghi cho hạ thần bắt trộm, thật là oan, xin bệ hạ đem ra thử
thì biết.
- Thử thế nào? Nói cho trẫm nghe.
- Muôn tâu bệ hạ, bệ
hạ phú quý thì mèo ăn thị ăn cá, còn hạ thần nghèo túng thì mèo ăn cơm với đầu
tôm, rau luộc. Bây giờ để hai bát cơm ấy, xem nó ăn bát nào thì biết ngay.
Vua sai đem ra thử. Con mèo chạy thẳng đến bát cơm rau, ăn sạch.
Quỳnh
nói:
- Xin bệ hạ lượng cho, người ta phú quý thì ăn cao lương mỹ vị, bần
tiện thì cơm hẩm rau dưa. Mèo cũng vậy, phải theo chủ.
Rồi lạy tạ đem
mèo về.
15. Tương, muối cũng ngon
Chúa Trịnh quanh
năm ăn toàn sơn hào, hải vị, chả thiếu thức gì, mà vẫn không thấy ngon miệng.
Môt hôm, Quỳnh túc trực, Chúa bảo:
- Ta ăn đủ của thơm vật lạ, mà không
biết ngon. Ngươi có biết thứ gì ngon thì nói cho ta hay?
- Tâu Chúa,
Chúa đã xơi mầm đá chưa ạ?
- Vị ấy ngon lắm à?
- Dạ, ngon lắm.
- Thật như thế thì làm để ta nếm thử xem?
Quýnh sai người lập tức đi lấy
"mầm đá" về ninh nhừ để làm đồ ngự thực, còn mình thì lủi về nhà lấy một lọ
tương ngon, một đĩa muối trắng. Lọ tương thì bịt thật kỹ ngoài đề hai chữ "Ðại
phong" đem sang giấu một chỗ.
Chúa đợi lâu, thấy đói bụng, hỏi:
- Mầm đá đã chín chưa?
Quỳnh thưa: Chưa được.
Chốc chốc, Chúa
lại hỏi, Quỳnh tâu:
- Thứ ấy phải cho thật chín, không thì lâu tiêu.
Khuya, Chúa lại hỏi. Quỳnh biết Chúa đói lắm rồi, mới tâu:
- Xin Chúa
hãy xơi tạm vài thứ dã vị này, còn mầm đá xin dâng sau.
Rồi truyền dọn
cơm tương với muối dâng lên. Chúa đang đói, ăn ngon miệng. Trông thấy lọ đề hay
chữ "Ðại phong" lấy làm lạ. Chúa hỏi:
- Mầm Ðại phong là mầm gì mà ngon
thế?
- Bẩm là đò dã vị thường dùng.
- Là gì, nói lên cho ta
biết?
- Bẩm tương ạ?
- Ngươi đề hai chữ Ðại phong là nghĩa là
sao?
- Bẩm Ðại phong là gió lớn, gió lớn thì đổ chùa, đổ chùa thì tượng
lo, tuợng lo là lọ tương.
- Lâu nay ta không ăn, quên mất cả vị, sao
ngon thế?
- Tâu Chúa, quả không sai. Lúc đói thì ăn gì cũng ngon, no thì
không thấy gì vừa miệng!
Chúa cười bảo:
- Ngươi nói phải. Thế ra
ngươi làm cho ta thật đói để ăn cho biết ngon, chứ đợi mầm đá thì biết đến bao
giờ cho chín.
16. Bà Chúa mắc lỡm
Một bà Chúa có nhan
sắc mà tính kiêu ngạo, đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai lính bắt đánh
liền. Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu Chúa. Gần đấy có cái ao bèo. Quỳnh vội
vàng chạy xuống cầu ao đứng đá nước chơi.
Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn
thẩn như thế mới hỏi:
- Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩng lên thưa:
- Tôi ở nhà buồn quá, ra ao đá bèo chơi!
Chúa đỏ mặt tía tai, bỏ đi.
17. Tiên sư thằng Bảo Thái
Một hôm, Quỳnh cho người ra bảo các hàng
thịt là ngày mai Trạng đặt tiệc thết các quan, cần mỗi hàng bán cho mấy cân,
nhưng phải thái sẵn cho đỡ mất công người nhà. Các hàng thịt mừng rỡ, sáng hôm
sau đã thái thịt đầy nhà chờ người nhà Trạng đến lấy. Ai ngờ đợi mãi đến trưa mà
cũng chẳng thấy ai, họ bèn tới nhà Trạng thì nhà vắng tanh, chẳng có khách khứa
gì cả. Hỏi Trạng thì Trạng bảo không biết: "Chắc là có đứa nào muốn lỡm bà con
đây. Cứ gọi thằng nào bảo thái mà chửi".
Bọn hàng thịt tức mình về réo
gọi thằng bảo thái mà chửi:
- Tiên sư thằng bảo thái! Tiến sư thằng bảo
thái!
Bảo thái là niên hiệu vua Lê Dụ Tông (1720-1726). Thành thử vua bị
chửi một bữa inh cả phố.
18. Hút chết vì quả đào
Quỳnh cậy tài, đùa cả với chúa, không từ ai. Một hôm, lúc túc trực trong cung,
có người đem đâng vua một mâm đào, gọi là "đào trường thọ", Quỳnh thủng thỉnh
lại gần, lấy một quả, ngồi ăn, giữa đông đủ mặt vua quan, mà làm như không trông
thấy ai cả. Vua quở, giao xuống cho các quan nghi tội. Các quan chiếu theo luật
"mạn quân" tâu nghị trảm. Quỳnh quỳ xuống tâu rẳng:
- Ðinh thần nghị tội
hạ thần như vậy, thạt là đúng luật, không oan, song xin Hoàng thượng rộng dung
cho hạ thần được nói vài lời rồi chết cho thỏa!
Vua phán: - Ừ, muống nói
gì cho nói!
- Muôn tâu bệ hạ, hạ thần có bụng tham sinh, sợ số chết non,
thấy quả gọi là quả "trường thọ" thèm quá tưởng ăn vào được sống lâu như Bánh
Tổ, để được thờ nhà vua cho tận trung. Không ngờ nuốt chưa khỏi mồm mà chết đã
đến cổ! Hạ thần trộm nghĩ nên đề tên quả ấy là quả "đoản thọ" thì phải hơn, và
xin nhà vua trị tội đứa dâng đào đẻ trừ kẻ xu nịnh.
Vua nghe Quỳnh tâu
phải, bật cười tha tội cho.
19. Chúa ngủ ngày
Một
buổi trưa, Quỳnh vào hầu Chúa, không thấy Chúa ở cung, hỏi thị vệ, thì ra Chúa
đương giấc. Quỳnh không được tiếp, sẵn bút nghiên, đề ngay hai chữ vào tường rồi
giở ra về.
Lúc Chúa dậy ra công đường, thấy ở tường có hai chữ "ngọa
sơn" nét mực hãy còn ướt, không biết ai đề và cũng không biết nghĩa làm sao, hỏi
thị vệ mới hay Quỳnh đề. Ðến buổi hầu chiều, đông đủ các quan, Chúa hỏi, không
ai tán được, phải triệu Quỳnh đến.
Quỳnh đến, Chủa hỏi. Quỳnh thưa:
- Hai chữ ấy có nghĩa gì sâu sắc đâu, hạ thần cứ lấy nghĩa đen mà viết, không
dám có ý tứ gì hiểm hóc cả.
- Cứ cắt nghĩa cho ta nghe, không hề chi mà
ngại.
Quỳnh ngập ngừng mãi, mới nói:
- Chữ "ngọa" nghĩa là
"nằm", "nằm" hẳn không ai nằm không, tất phải ngáy, chữ "sơn" nghĩa là "núi",
"núi" ắt phải có đèo, vậy hợp hai chữ làm một thì nghĩa là "ngáy đèo".
Cả triều thần ai cũng cười. Chúa cũng bật cười. Tan hầu, các quan trách Quỳnh:
- May mà Chúa rộng lượng, chứ không thì hôm nay ông mất đầu!
Quỳnh cười
không nói gì.
20. Cây nhà lá vườn
Quỳnh nhiều lần
thất lễ với chúa, nên trước Chúa quý trọng bao nhiêu thì sau lại ghét bấy nhiêu.
Quỳnh thấy Chúa ghét, lại càng trêu tợn.
Một lần, Chúa sai lính đến kéo
đổ nhà Quỳnh. Quỳnh thấy lính đến thì bảo:
- Chúa sai các anh đến kéo đổ
nhà ta thì các anh cứ việc kéo, không được reo, được cười, ai mà reo cười thì ta
cắt lưỡi,
Nghề kéo nặng thì phải reo hò, không dô ta, không hò khoan đố
ai kéo được. Bọn lính phải chịu về không.
Lại một lần nữa, Chúa sai lính
đến ỉa giữa nhà Quỳnh. Quỳnh cầm dao ra bảo lính:
- Chúa sai các anh đến
ỉa giữa nhà ta, thì cứ việc ỉa, nhưng cấm đái, anh nào mà đái ta cắt dái đi.
Ỉa ai mà nhịn đái được, bọn lính phải cắp đít về. Có một vài anh láo, nghe thấy
thế, đái ở trước nhà, rồi mới đến ỉa, lại đem gáo dừa đề phòng. Quỳnh thấy nó
lập mưu trước, đành chịu nhưng trong bụng căm lắm, bèn kiếm cách xược lại Chúa.
ít lâu sau, Quỳnh đi mua một cây cải thật to sai người đem dâng, làm cơm chúa
xơi. Khi Quỳnh vào hầu, Chúa hỏi cải đâu mà to lạ thế và khen ngon.
Quỳnh thưa:
- Cải nhà trồng, trước nó không to mấy, nhờ độ nọ Chúa sai
lính đến ỉa nhà thần, thần đem phân ấy bón cho, nên lớn bổng lên thế. Cây nhà lá
vườn đem dâng để chúa xơi.
Chúa Trịnh tái mặt lại.
21.
Trạng chết Chúa cũng băng hà
Từ ngày ấy Chúa có bụng ghét Quỳnh.
Ðược mươi hôm, Chúa đòi Quỳnh vào thị yến, định đánh thuốc độc cho chết. Quỳnh
biết Chúa căm về mấy chuyện trước, lần này đòi vào thị yến chắc là có chuyện.
Lúc đi dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào hầu yến Chúa, lành ít, dữ
nhiều. Ta có mệnh hệ nào, thì không được phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng,
cắt hai đứa quạt hầu, rồi gọi nhà trò về hát, đợi bao giờ phủ Chúa phát tang thì
ở ngoài hãy phát tang.
Dặn xong, lên võng đi.
Quỳnh vào đến
cung, đã thấy Chúa ngồi đấy rồi. Chúa bảo:
- Lâu nay không thấy mặt,
lòng ta khát khao lắm. Vừa rồi, có người tiến hải vị, ta nhớ đến ngươi, đòi vào
ăn yến, ngươi không được từ.
Quỳnh biết Chúa thù về cây cải hôm nọ,
không ăn không được. Vừa nếm một miếng thì Chúa hỏi:
- Bao giờ Quỳnh
chết?
Quỳnh thưa:
- Bao giờ Chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết.
Ăn xong, Quỳnh thấy trong người khang khác, cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt
hơi. Vợ con cứ theo lời Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai người dò xem Quỳnh có việc gì
không, thấy Quỳnh đương nằm võng nghe nhà trò hát, mà người nhà thì đi lại vui
vẻ như thường, về tâu với Chúa. Chúa liền đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc thế
nào mà Quỳnh không việc gì.
Chúa ăn thử, được một chốc thì Chúa lăn ra
chết.
Nhà Quỳnh nghe thất trong dinh Chúa phát tang, thì ở nhà cũng phát
tang. Chúa và Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh chết đến cổ còn lừa được
Chúa mới nghe.
Người đời về sau có câu thơ:
Trạng chết Chúa cũng
băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn