Năm 1957, sau khi đăng rải trên tạp chí Văn nghệ Quân đội nhiều tập ghi chép có cái tựa đề chung là Xung đột, tên của hắn bắt đầu được các tiền bối trong nghề lưu ý. Ông thầy của hắn là cụ Nguyễn Tuân nhìn hắn một cách ưu ái rồi bảo: " Xem ra cậu cũng biết nhiều nhỉ?", cũng có thể hiểu có nhiều chuyện ở một vùng nông thôn theo đạo Thiên Chúa cụ chưa được biết, nhờ đọc hắn mà biết. Lời khen của giáo chủ văn xuôi đâu phải lời nói đãi bôi, nói cho có nói. Hắn bắt đầu nhen nhóm lại lòng tin, là rồi ra hắn cũng có thể viết được. Lại một tin vui khác nhưng buộc hắn phải cân nhắc, tính toán, vì trước mắt là được, về lâu dài có khi lại không được. Ấy là cấp trên muốn hắn được theo học khoa lý luận văn học của trường dạy viết văn nổi tiếng Gorki, thời gian cũng dài, khoảng bảy, tám năm gì đó. Cùng đi với hắn có anh Nguyễn Minh Tấn, là cán bộ của Ban Tuyên giáo Trung ương. Hắn muốn đi học xa trong một thời gian dài để tiện nói lời hoãn hôn hoặc thoái hôn với cô gái mà hắn đã để ý, đã thương yêu, đã hứa hẹn. Người yêu của hắn sẽ là một người vợ rất lý tưởng nếu hắn gặp cô sớm hơn dăm năm, đất nước vẫn còn chiến tranh, người vợ ở nhà nuôi mẹ, nuôi con, trong trường hợp của hắn còn làm chỗ dựa cho em trai nữa để hắn yên tâm đi kháng chiến. Vả lại ở làng quê trong thời kháng chiến thì vợ hắn thuộc loại xinh đẹp, lại thông minh, nói năng cũng duyên dáng, cái duyên dáng thơ ngây, mộc mạc của đồng quê, của cách mạng, của đời sống mới. Còn bây giờ người yêu của hắn lại sống giữa một Hà thành hoa lệ, giữa cả mấy chục người đẹp được tuyển chọn từ nhiều địa phương của cả nước về để múa, để hát, để diễn kịch và làm người giới thiệu. Từ sáng đến tối ở các đoàn nghệ thuật ấy người ta chỉ bàn về các vai diễn, các giọng ca, các điệu múa; về quần áo và phấn son, về cái đẹp và cái duyên của người này người nọ; và cả về những người đàn ông và các mối tình khi vui khi buồn giữa họ. Hết nói chuyện nghệ thuật trong nước lại nói chuyện nghệ thuật từ nhiều nước anh em sang Hà Nội biểu diễn trong mấy năm đầu hoà bình. Trong cái thế giới son phấn, nghệ thuật, trí thức, dầu tất cả mới chỉ là học đòi, làm ra vẻ của đám lính tráng mới tạm buông tay súng để sống trong các thành phố của hoà bình, người yêu của hắn đứng tách riêng hẳn một mình, ngây ngô, ngơ ngác như của lạ. Bao nhiêu cái duyên khi còn ở quân khu liền bị tước sạch lúc bước vào Hà Nội, thành người thừa, nói cười thừa, đứng đâu cũng thừa, làm gì cũng thừa, vừa thương tâm vừa khó chịu. Thế là hắn bắt đầu chán, bắt đầu ghét, tránh gặp mặt và rất khổ tâm khi phải đi với nhau ngoài phố, cùng ngồi với nhau ở một quán hàng hoặc cùng đi xem một phim nghe nói là hay hoặc một vở kịch mới công diễn. Bạn gái hắn nghe hắn báo tin sẽ sang Liên Xô học bảy, tám năm cũng sững sờ nhưng không phản đối, vì đi học là một vinh dự, là đã được cấp trên tin cậy tuyển vào đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo chính quy để mai này đảm nhiệm những trách nhiệm lớn hơn. Một lần khác hắn lại nói chưa nên tổ chức cưới xin vội, lúc về cả hai mới trong ngoài ba mươi, còn trẻ chán, vả lại thời nay đâu cần nhiều con, chỉ một hai đứa là đủ. Bạn gái hắn vẫn không nói gì. Ðến lần thứ ba lại bàn về việc hoãn tổ chức đám cưới, bạn gái hắn mới nói, cưới nhau trước khi đi học lại hoá hay, lúc trở về con đã lên bảy lên tám mà người chồng không phải bận bịu gì, không phải mó tay vào tã lót cứt đái mà vẫn được con, con lại đã lớn, đi trẻ đi học cả ngày, nhà ở có chật chội cũng chả ảnh hưởng gì đến công việc nếu phải làm việc ở nhà. Ơ hay, cái cô này ngây ngô vậy mà tính toán cũng hay nhỉ! Hắn vốn là thằng lười, muốn có cả vợ đẹp lẫn con khôn mà không phải tốn công sức nên nghe thấy phải quá. Vả lại bảy, tám năm ở nước ngoài, sống độc thân thì thiếu gì người đẹp ở trong nước sang học đủ các ngành nghề, có mèo mỡ chim chuột nhau cũng chẳng ai để ý, nước người ta văn minh, chuyện trai gái yêu đương là chuyện thường tình, miễn là không để lại dấu vết. Ở nước ngoài trong tuổi thanh xuân lúc về nước đã ngót nghét bốn chục, lao đầu vào sự nghiệp là vừa đẹp, lại đã có một gia đình yên ấm, cùng một lúc được cả việc công lẫn việc tư, còn mong gì hơn, nhưng chả lẽ mọi chuyện khó khăn ở nhà lại dồn hết lên vai vợ? Nhưng cái người tình nguyện sẽ là vợ hắn, dầu hắn phải đi học xa và dài ngày, nghe những băn khoăn của hắn đã cười rất dễ dãi: "Một mình sinh con nuôi con rồi nuôi cả mẹ chả có gì là vất vả với em cả. Như chị em ấy, cũng nuôi con một mình trong suốt tám năm anh ấy đi kháng chiến, lại còn chạy giặc, giặc đốt nhà mấy lần còn làm lại nhà, vay ăn từng bữa mà lúc chồng về vẫn có nhà, có thóc, có cả con, có sao đâu!" Ờ nhỉ, bạn gái hắn là một cô gái nông thôn quen sống trong vất vả, thiếu thốn, lại có tính hy sinh cho chồng cho con như mẹ, như chị, như những người đàn bà khác trong làng, chứ có như các cô gái ở thành phố đâu, ở nhà cha mẹ nuôi, lấy chồng chồng nuôi, chồng hầu, biến mình thành mèo cảnh, chó cảnh, nũng nịu hờn dỗi, lúc gù lúc gừ, vớ phải thằng chồng vừa lười vừa có máu nghệ sĩ thì tan cửa nát nhà ngay. Thế là hắn quyết định sẽ lấy vợ, và vợ sẽ có mang trước ngày hắn lên đường ra nước ngoài. Nhưng cũng còn một chút tính toán nữa, hắn đang viết được, các tập ghi chép có tên là Xung đột đang được bạn trong nghề khen và bạn đọc yêu văn chương đón đợi từng số tạp chí, sau nhiều năm gò gẫm chữ nghĩa ý tứ mà vẫn chẳng đâu vào đâu. Thêm nữa hắn lại sống trong cái không khí náo nức sáng tác của ngôi nhà số 4 Lý Nam Ðế. Hắn ở một phòng với Ngô Thông, nguyên thư ký báo Quân đội Nhân dân khu 5, cạnh phòng của Phùng Quán, Tạ Hữu Thiện, rồi đến phòng của Minh Giang và Phác Văn, phòng ngoài cũng là của Hữu Mai và Nguyễn Ngọc Tấn. Tấn là người Nam Ðịnh nhưng vào Sài Gòn kiếm sống từ năm 13, 14 tuổi. Sau cách mạng tháng Tám, Tấn tòng quân tham gia kháng chiến ở trong đó suốt 9 năm, viết báo, làm thơ. Nào dè anh lại trở thành một cây bút viết truyện ngắn hết sức đặc sắc, vừa có chất thơ nhưng vẫn trĩu nặng những ý tứ thâm trầm. Vào những năm ấy Hữu Mai có truyện ngắn Mất hết đang gây bàn luận sôi nổi cùng với truyện Ðẹp của Xuân Cang. Phùng Quán sau Vượt Côn Ðảo có trường ca Võ Thị Sáu. Nguyên Ngọc vẫn cái mạch sống của Ðất nước đứng lên, viết tiếp nhiều truyện ngắn, truyện nào cũng đẹp như một bài thơ bằng văn xuôi. Hồ Phương có Cỏ non, Phù Thăng ở dưới đơn vị gửi lên truyện ngắn Con những người du kích... Có tối đã khuya lắm, dọc đường Phan Ðình Phùng chỉ còn nghe có tiếng rao buồn nản kéo dài của hàng phở gánh: "Phở...ở...ở....", thì Tấn đến gõ của từng phòng kéo mọi người lại phòng anh để nghe anh đọc một truyện ngắn vừa mới đặt dấu chấm hết cách đó dăm phút. Ðó là truyện ngắn Im lặng. Học lý luận có thể dành cả đời, nhưng khoảng thời gian để viết ra văn có khi chỉ dăm năm. Bỏ quên hoặc đánh mất hoặc tiêu phí năm năm trời cho, nghề cho coi như thành người khác, làm nghề khác chứ không thể trở lại tìm kiếm đoạn đường đã lạc. Nó đã là cái hư ảo, cái thoáng chốc mất hút mãi mãi rồi... Thế là lại có một quyết định mới, ở lại, lấy vợ, sinh con và làm nghề theo kinh nghiệm, theo bạn bè, theo cái nghiệp ông trời đã buộc, bỏ ngoài các thứ lý luận, các thứ vinh dự, vui thú khác. Cái sự tính toán tầm thường, ích kỷ lúc mới vào nghề nào ngờ sẽ là lối sống một đời văn của hắn. Trước hết hắn là một tên ích kỷ không thể cứu chữa, bất kể cái gì không liên quan đến sáng tạo nghệ thuật hắn đều gạt bỏ sang một bên, không nuối tiếc gì cả. Nhưng để lỡ một cơ hội hiểu thêm một nhân vật, một cảnh ngộ, một tình huống là hắn khắc khoải mãi, vì biết đâu từ những thứ vớ vẩn đó lại chả vật lên một cái gì đó rất lạ, rất đẹp thì sao? Hắn đã để lỡ nhiều dịp may lắm, cái cơ hội lớn nhất đã để mất đi mãi mãi là tám năm kháng chiến chống Pháp. Những năm ấy hắn đã trong ngoài hai mươi tuổi rồi, đâu còn trẻ con nữa. Ông Chế Lan Viên năm 16, 17 tuổi đã có tập thơ Ðiêu tàn gây chấn động trong làng thơ thuở ấy. Ông Nguyên Hồng cũng khoảng tuổi ấy đã có Bỉ Vỏ được giải thưởng của nhóm Tự lực Văn đoàn. Ông Vũ Trọng Phụng năm ngoài hai mươi tuổi đã viết được cuốn tiểu thuyết hoạt kê Số Ðỏ, các nhân vật của ông còn gây cười cho tới tận bây giờ. Nguyên Ngọc năm 23 tuổi viết tiểu thuyết Ðất nước đứng lên, là vốn sống chắt lọc của một nghệ sĩ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp ở Tây Nguyên. Hắn vào nghề báo từ năm 19 tuổi, làm báo tỉnh, làm báo mặt trận, rồi báo quân khu, sáu năm làm báo trong kháng chiến mà hồn nhiên, thơ ngây như đứa trẻ. Cái sự thơ ngây đáng trách ấy, cái thứ nước lã trong veo ấy đã gột nên hai cuốn sách nhạt như nước ốc, là truyện Xây dựng (cũng được giải khuyến khích của Hội Văn nghệ Việt Nam vì đề tài) và truyện Người con gái quang vinh, viết về nữ liệt sĩ anh hùng Mạc Thị Bưởi. Chả có một tí từng trải nào, chiêm nghiệm nào trong kháng chiến ẩn hiện trên các trang sách, chữ nghĩa cứ bạc phếch, trống hoác như văn của thằng học trò sống trong Thành, nghe chuyện của kháng chiến ngồi viết lại. Giả thử khôn ngoan như bây giờ, ngày ấy cứ ghi chép lại những chuyện tai nghe mắt thấy ở Hà Nội năm 1945, 1946, ở Hưng Yên năm 1947, ở Thái Bình năm 1950, rồi ở các cơ quan lãnh đạo kháng chiến cấp khu những năm 1951, đến 1954, vùng địch hậu nam Nam Ðịnh vừa được giải phóng năm 1952, vùng du kích Thanh Liêm và các cơ quan huyện xã của Hà Nam chạy sang Bồng Lạng để chỉ đạo cuộc chiến tranh du kích các xã bên kia sông Ðáy. Những năm ấy ngôn ngữ thường dùng ra sao, chuyện vui, chuyện tếu kháng chiến ra sao, những dãy phố bất thần mọc lên, bất thần mất đi ở mọi nẻo đường kháng chiến, những thị trấn nổi tiếng một thời Quỳnh Côi, Ðống Năm, Cống Thần, Sêu Tiết, Hậu Hiền, Rừng Thông... Có hàng trăm chuyện, hàng ngàn chuyện ghi đậm những dấu vết không bao giờ phai nhoà của một thời. Cái pho sách biết sao chép ấy chắc phải dầy cả ngàn trang, chỉ như thế thôi rồi chết hoặc gác bút cũng đủ làm nên một sự nghiệp và những trang sách ấy chắc chắn phải hay hơn những tập ký sự nói chuyện dông dài của các cụ ở những thế kỷ trước. Từ ngày hắn biết làm nghề, tức là từ năm 30 tuổi (cùng trạc tuổi trong ngoài ba mươi, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam đã hoàn thành một sự nghiệp bất hủ và đã chết rồi, Nguyễn Tuân đang thời rực rỡ nhất của một đời văn, Nam Cao đã có Chí Phèo và Lão Hạc. Thì họ là những thiên tài, hắn bì thế nào được!) cho tới bốn chục năm sau hắn không để phí một giờ nào không dỏng tai, không giương mắt, sống gấp hai gấp ba lần so với những người cùng thời làm các nghề khác để nghe cho rõ, nhìn cho tinh và ngẫm nghĩ về mọi sự mọi việc đang diễn ra quanh hắn. Nghĩ được điều gì hay là viết liền, được là văn thì tốt, không được là văn thì cũng là tài liệu lưu giữ cho đời sau. Truyện dài mở đầu thời kỳ này hắn gọi là ghi chép cũng từ cái ý không để mất đi bất cứ cái gì hắn đã ngẫm nghĩ và ghi nhận được. Có truyện được khen, có truyện bị chê, chê thì chê hắn đã bắt tay vào viết truyện khác rồi. Năm 1962 hắn in cuốn tiểu thuyết Một chặng đường, sách ra bị bạn đọc chê dữ quá. Họ đang đón đợi ở tác giả Xung đột và Mùa lạc một cái gì hơn thế, nào ngờ phải đọc những trang văn quá nhạt nhẽo. Hắn chỉ buồn một chút vì nhân vật Nam của nông trường Ðiện Biên đã lờ mờ xuất hiện, nghĩ là nó sẽ nhanh chóng qua đi vì thời gian này hắn đang phải theo học một khoá chính trị cho cán bộ trung cao cấp kéo dài một năm tại Quần Ngựa. Nào ngờ cái anh chàng thợ mộc ấy càng ngày càng hoá ra lắm lời, thì thào với hắn mỗi đêm và cả mỗi ngày, ngay cả giờ lên lớp hắn ta vẫn tiếp tục trò chuyện. Thế là hắn viết liền, ngay tại giảng đường, giáo viên thì giảng giải về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, còn hắn thì bắt đầu cuộc trò chuyện dài ngày với nhân vật chính có tên là Nam, trong cái truyện vừa Hãy đi xa hơn nữa, truyện in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội được bạn đọc khen ngay. Người khen đầu tiên là ông Phạm Lê Văn tức Thợ Rèn, là người bạn vong niên của hắn từ thời kháng chiến chống Pháp ở khu 3. Ông Thợ Rèn nói: "Mấy ông viết văn trẻ chỉ được một, hai cuốn sách đầu là đáng đọc, còn về sau, đã có nghề hẳn hoi thì ngay đến một câu văn viết cũng không thành, sao thế nhỉ?" Rồi ông nắm tay hắn, nhìn hắn rất ưu ái: "Nhưng Hãy đi xa hơn nữa thì được lắm đấy, chính mình cũng mê cái thằng Nam của cậu". Sau khoá học hắn lại ba lô lên đường về Phú Thọ, theo lời mời của người bạn cùng cơ quan, phục viên về xã đã mấy năm, nay là chủ nhiệm một hợp tác xã nông nghiệp tiếng tăm lừng lẫy khắp miền Bắc. Cuối năm 1963, truyện vừa Tầm nhìn xa in liền hai số tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhân vật nửa chánh nửa tà Tuy Kiền xuất hiện với bộ mặt ngây ngô ăn người và cái nháy mắt tinh quái của ông ta có sức quyến rũ bạn đọc ngay lập tức hơn nhân vật chính phải có tên là Nam nhiều. Những năm 60 là những năm mãn nguyện của đời văn nhưng vất vả về đời người. Năm 1961 vợ hắn sinh đứa con trai thứ hai sau thằng anh sinh năm 1958 và một con chị sinh năm 1960. Nhưng con bé nhẹ nghiệp, không phải làm con một thằng văn nghệ sĩ, nên mất ngay sau khi sinh do bị dây nhau quấn quanh cổ. Mặt con bé ra sao hắn không biết, chôn con bé ở đâu cũng không biết vì bệnh viện nhận lo lắng cho tất cả. Hắn có tính lười nên bằng lòng ngay chỉ hơi buồn một tí, vợ chồng hắn còn trẻ muốn đẻ lúc nào chẳng được. Ngay đêm hôm đó vợ vẫn nằm khóc ở khoa sản, hắn đã thản nhiên ngồi viết đoạn kết của truyện Người tổ trưởng máy kéo! Thế là hắn đã phạm tội bất từ, ở đời này có gan dám phạm luật trời thì ông trời sẽ bắt một đời phải chuộc cái lỗi đã phạm. Ðứa con trai sau nặng có 2 ký 8, bị hen suyễn từ ba tháng tuổi, hắn phải hầu hạ đứa con bệnh tật đó trên ba mươi năm, theo nó vào bệnh viện khi hắn đã sáu chục tuổi, phải giúp đỡ nó cho tới tận bây giờ khi nó đã bốn mươi tuổi còn hắn đã là ông già ngoài bảy chục. Chưa hết, mười hai năm sau vợ chồng hắn còn phải chôn đứa con trai đầu khoẻ mạnh, tháo vát, học giỏi khi nó vừa tròn 15 tuổi. Hắn giẫy giụa than khóc mất mười năm, vợ hắn ứa sữa non, đái ra máu, thành người ngớ ngẩn mất vài năm. Năm đó hắn đã 43 tuổi, so với cái khổ bị hắt hủi lúc còn niên thiếu thì cái khổ mất con vào tuổi trung niên còn đau đớn hơn cả trăm lần. Từ đó hắn bắt đầu biết sợ luật quả báo, luật bù trừ của ông trời, rất hãi cái ngông nghênh của sự được thời, cái lấn sân lấn phần của kẻ hãnh tiến, chỉ xin nhận phần thiếu chứ không dám tranh phần dôi, thích đứng phía sau hơn chen ngồi phía trước, thích nhường nhịn, thích rút lui, vì tin rằng cái hụt cái thiếu của mình sẽ được bù lại cho con cho cháu. Trong những năm 60 hắn có hai chuyến đi rất thú vị. Một chuyến ra biển vào giữa năm 1965 sống với một đơn vị đang chiến đấu trên đảo Cồn Cỏ trong những tháng đầu của cuộc chiến tranh phá hoại. Và một chuyến đi vào cuối năm 1967 đến một đại đội công binh phụ trách một tuyến đường chiến lược trên nước bạn Lào. Chuyến ra đảo Cồn Cỏ lúc ở Hà Nội thì nghĩ sẽ được đi bằng tầu ngầm từ quân cảng Vinh, nghe đồn thế chứ chẳng ai nói rõ với hắn là đi bằng phương tiện nào. Tới bờ biển xã Vĩnh Kim hắn mới được biết là bọn hắn sẽ đi bằng thuyền theo những chuyến tiếp tế hàng tuần ra đảo. Người không biết bơi lại ra đảo bằng thuyền, chuyến đi nào cũng có thuyền đắm, hàng chìm và thuỷ thủ bơi như cá trên biển, nghe kể lại cũng đủ sợ. Sợ thì sợ nhưng vẫn cứ phải đi, chả ai ép cả nhưng cái nghề viết nó ép, cả nước vào cuộc chiến, người viết văn không có mặt ở nơi đầu sóng ngọn gió thì biết viết gì về đồng đội, về nhân dân đang dốc toàn lực cho cuộc chiến đó. Chuyến đi sang Lào cũng mất đúng bảy đêm, ngồi trên xe tải của anh em hậu cần công binh, đêm xe chạy, ngày lại lùi xe vào các cánh rừng nấu ăn và ngủ. Chiều khoảng 4, 5 giờ lại đưa xe ra đường 7 nhắm những dãy núi phía Tây lao tới. Xe chạy qua những đồng cỏ rồi lại leo dần lên các mép núi, leo cao mãi, một bên là vực, một bên dốc núi thẳng đứng, xe chạy bằng đèn gầm, nhiều đoạn xe chạy như leo dây, người hàng nếu không chằng buộc kỹ là tuột hết xuống vực. Trước mặt là sương mù, vén một mảnh bạt ở thùng xe nhìn ra phía mép vực mây đùn lên từng mảng nhạt nhoà, nhễ nhại ánh trăng, mây phủ kín thân xe, trườn vào lòng xe, nhìn người đối diện bên kia các thùng hàng cũng không rõ mặt. Mấy đêm đầu còn sợ, mấy đêm sau quen dần rồi hết cả sợ. Ðã đi chiến trường, dầu là một chiến trường ít bom đạn, hiền lành cũng có thể hy sinh lắm, có lắm thứ tai nạn chết người chứ chả phải cứ giáp mặt với kẻ thù hoặc bom vương đạn lạc. Nên mỗi lần khoác ba lô lên đường coi như một chuyến đi vĩnh biệt, về được thì tốt, không về được cũng chẳng có gì bất ngờ, mình biết thế, vợ con cũng biết thế. Cái năm ra Cồn Cỏ ở ngoài đó một tháng rồi trở về đất liền, đêm đầu tiên nằm lại ở xã Vĩnh Kim, bao quanh lại vẫn là những tiếng động quen thuộc của một vùng dân cư ở đất liền mới cảm thấy hết cái sung sướng, cái khoan khoái của sự được trở về với cuộc sống bình thường, dầu vẫn là cuộc sống trong chiến tranh nhưng xung quanh đã là dân, là những nẻo đường, đi bộ, đi xe, đi mãi mãi cũng chưa thể tới chỗ tận cùng, cuộc sống là mông mênh, những cơ hội để sống cũng mông mênh, nghĩ lan man một lúc rồi ngủ thiếp tới gần trưa, tiếng máy bay đã vang động từng tốp trên bầu trời, rồi lại nghe những tiếng nổ nhưng xa lắm, mờ nhạt lắm, như đã không còn chiến tranh nữa. Nằm lại một ngày rồi nằm lại đến gần một tuần cho giãn xương cốt mới lên xe đủng đỉnh chạy về Hà Nội. Năm ngày sau khi qua thị xã Ninh Bình, qua Gián Khuất, qua Phủ Lý, cứ bồi hồi như đã xa cách các địa danh này từ lâu lắm. Trời lại mưa to, từ Thường Tín về Hà Nội trời đã ngớt mưa nhưng mặt đường vẫn ngập nước lấp loáng ánh điện. Xe đỗ ở nhà số 4 Lý Nam Ðế vào khoảng nửa đêm. Phòng làm việc của anh Thanh Tịnh vẫn còn sáng đèn, hắn đứng ở ngoài cổng sắt gọi với lên: "Anh Thanh Tịnh, em đã về đây!" Tiếng gọi sung sướng trong đêm vắng vang lên suốt một đoạn đường. Anh Thanh Tịnh mở cửa chớp ngó đầu nhìn xuống: "K. phải không? K. về rồi đấy à?" Giọng anh lạ lắm, như chưa tin hẳn hắn đã về, đã lên tiếng gọi ở dưới đường kia! Rồi anh nói ngay: "Hai mẹ con cô ấy mới từ chỗ sơ tán về lúc chiều". Thế là hắn xốc lại ba lô đi bộ về nhà hắn ở mép sông Hồng, cách tạp chí chưa đầy một cây số. Trời lại mưa nhỏ, từ mặt đê vào khu tập thể K.95 phải qua một quãng đường đất lầy lội, hắn tụt đôi dép lốp cầm tay, bấm ngón chân lên mặt đường trơn, bước rất nhanh gần như chạy, một bên là hồ, một bên là bãi trồng mía, gió thổi hun hút, lá mía đập vào nhau rào rào, trong lòng hắn chưa bao giờ rạo rực như thế, nhiệm vụ với tạp chí đã hoàn thành, tài liệu để viết trong một chuyến đi vào những ngày đầu của chiến tranh xem ra phải viết được vài trăm trang, lại vẫn còn sống, lại vẫn được về với vợ với con. Cả hãy nhà tối đen, im lặng trong giấc ngủ, hắn ra vòi nước rửa chân, vặn nước rất nhỏ, cọ chân rất khẽ, rồi bước lên hè nhà, kéo rộng cánh cửa sổ hé mở, vợ con hắn đang ngủ trong nhà, hắn khẽ gọi, gọi tới lần thứ hai hơi lớn tiếng, thế là vợ hắn vùng dậy nói từ trong màn: "Anh vẫn còn sống về với vợ con đấy à?" Vợ hắn bật đèn nhìn hắn chằm chằm, có vẻ như còn ngờ con người thật của chồng đang đứng trước mặt, có thể là một giấc mơ, cũng có thể là hồn ma, chết trẻ là thiêng lắm. Thằng con trai thứ hai cũng từ trong giường nhảy ra ôm chặt lấy một bên chân: "Bố về rồi à?" Thì ra theo lời vợ hắn kể, từ một tháng nay cả cơ quan đều biết tin chuyến thuyền ra đảo tám chiếc đã bị bão và tàu địch đánh bật ra biển Ðông, thuỷ thủ và khách ra đảo chết trên tám chục người, chỉ còn có dăm người sống sót (thật ra là chuyến trở lại đất liền vào đêm sau của tám cái thuyền đã đưa bọn hắn ra đảo). Tin nói nhỏ nhưng chắc chắn lắm, chỉ còn đợi thông báo chính thức sẽ làm lễ truy điệu. Vợ hắn nói mẹ và thằng con lớn đang ở trại trẻ chưa được biết nhưng bà cụ đã ngờ rồi vì những cái nhìn không thẳng thắn của các bà cụ khác cũng theo cháu đi sơ tán và những lời hỏi thăm nhiều ý tứ của bố mẹ những đứa trẻ tới trại thăm nuôi con mỗi tuần. Và bà đã khóc với con dâu. Nếu hắn chết thật thì vợ hắn nuôi nổi làm sao hai đứa con, rồi nó cũng còn trẻ chả lẽ ở vậy nuôi con tới già, thời xưa là thế, nhưng thời bây giờ đàn bà goá sống với đàn ông con trai trong một cơ quan, nói đùa nói tục từ sáng tới tối, giữ được thân còn khó hơn đi trên chông nhọn. Trong một gia đình mất một người đàn ông là mất tất cả. Con dâu đi lấy chồng, con cái về với bà nội, một nồi cơm trộn với mì sợi, một đĩa rau muống luộc và bát nước chấm là nước rau đánh cà chua pha muối, mắt hắn đã từng được chứng kiến, nên sự trở về của hắn gần như một phép lạ, trong một thoáng tất cả lại trở về cái trật tự bình yên như trước đây. Ðêm ấy hắn lại nghĩ những người bạn trong cơ quan lên đường vào chiến trường B2 từ năm 1962, thấm thoắt đã ba năm. Trường hợp của Nguyễn Ngọc Tấn gần như là một biểu tượng của sự chia ly thời chiến. Năm 1955, Tấn tập kết ra Bắc vẫn để lại một người vợ ở Sài Gòn hoạt động nội thành và một đứa con gái do ông bà ngoại nuôi. Bảy năm sau Tấn lại trở vào Nam, để lại một người vợ ở Hà Nội (vì Tấn đã ly hôn với vợ cũ do thiếu những tin tức chính xác về một trường hợp nếu Tấn còn sống chắc anh sẽ rất ân hận) và anh cũng phải một lần nữa nghiến răng dứt áo lên đường, không dám nhìn lâu đứa con trai mới được vài tháng tuổi. Và con nhiều bạn hữu khác nữa, cả ông Nguyễn Văn Bổng, anh ấy vào chiến trường tuổi cũng đã lớn, anh hơn bọn hắn cả chục tuổi, để lại ở Hà nội một gia đình cũng đông đảo. Cho nên cái vui đã thoát chết một lần, lại được về với vợ với con thêm một thời gian nữa, gần như là một tội lỗi khi nghĩ tới những người đang ở xa và chưa biết đến bao giờ mới trở về. Năm 1967, hắn tới một đại đội công binh anh hùng chốt giữ một đoạn đường chiến lược trên đất bạn, khi xe dừng lại ở một đoạn đường heo hút, không còn nhìn thấy gì ngoài một biển mây và sương sáng trắng ánh trăng, tham mưu phó trung đoàn ở trong buồng lái mở cửa xe nhảy xuống, nhìn vào thùng xe có hắn ngồi trong đó, hét to: "Anh K., đến rồi đấy!" Hắn choàng tỉnh dụi mắt xách ba lô nhảy xuống, cặp chân cứng đơ như chân giả, hỏi lại: "Ðã đến rồi hả?" Người kia rút một điếu thuốc Ðiện Biên châm lửa cho hắn hút, nói thì thào: "Chúc mừng chuyến đi an toàn, tất cả chúng ta đều khoẻ mạnh, an toàn". Hắn rít một hơi thuốc quá ngon, đáp hững hờ: "Ðã vào chiến trường bất cứ lúc nào mà chả gặp nguy hiểm". Tham mưu phó cười mỉm, vẻ bí mật: "Chuyến đi này cái nguy hiểm dính chặt vào mỗi chúng ta từng giây kia". Hắn hỏi, giọng đã tỉnh hẳn: "Có gì đặc biệt hả anh?" Tham mưu phó nhe răng cười, chỉ thấy hàm răng mờ trắng trong đám râu: "Cái thùng xe của ta chở toàn kíp mìn. Anh ngồi trên những thùng kíp mìn cả tuần nay đấy chứ!" Người hắn như đột ngột hạ nhiệt độ, lạnh toát và bắt đầu run, nhưng mọi sự đã thuộc về những đêm trước rồi. Sau này mỗi lần nhớ tới chuyến đi hắn lại nghĩ ngay đến cuốn phim nghẹt thở của Pháp được xem vào cuối những năm 50, Salaire de la peur (Ðồng lương khủng khiếp), một cái xe tải chở những thùng chứa đầy một chất lỏng chỉ cần va mạnh là nổ, lại thấy đầu ngón chân, đầu ngón tay buốt lạnh. Hắn về đến Hà Nội khoảng 6 giờ chiều ngày chủ nhật, xe dừng ở cuối phố Lò Ðúc có căn hộ của thằng em ruột, vì các gia đình ở chân cầu Long Biên phải sơ tán cả phố. Ðứa con trai sau bị suyễn nên không gửi trại trẻ được, ngày ngày theo mẹ lên cơ quan sơ tán ở nhà Ngân hàng trung ương, là một khối nhà xây bằng đá đồ sộ, có một tầng hầm dài rộng như một dãy phố. Hắn chỉ buồn con hắn đã lên bẩy mà chưa nhận được mặt chữ. Ðường phố buổi tối đông người dần, đèn đường đã bật sáng nhưng vàng tối như đèn dầu. Con hắn đứng ở cửa, cổ đeo dây chìa khoá, nó chờ mẹ từ chỗ sơ tán thăm bà nội và anh về chứ không nghĩ là bố sẽ về. Nó bước lại nắm chặt lấy tay bố nó, mặt rạng rỡ: "Bố về! Bố có mua gì không?" Hắn cười: "Ở chỗ các chú bộ đội chỉ có mìn với bộc phá chứ có gì mà mua. À, có rất nhiều kíp mìn nữa, nhưng trẻ con không được chơi kíp mìn".