HUYỀN QUANG Thiền sư (1254-1334)Thiền sư và nhà thơ Việt Nam đời Trần. Tên thật là Lý Ðạo Tái (có sách chép Trần Ðạo Tái; Lý Tái Ðạo). Pháp danh Huyền Quang, tổ thứ ba phái Thiền học Trúc Lâm (tổ thứ nhất là Ðiều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân tông; tổ thứ hai là Pháp Loa tôn giả Ðồng Kiên Cương). Quê làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang; nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1274, ông đỗ khoa thi Hương. Năm sau đỗ đầu khoa thi Hội, được bổ làm việc ở Viện Nội Hàn; từng ứng tiếp sứ Trung Quốc, nổi tiếng văn học. Nhưng chẳng bao lâu ông từ chức đi tu. (Tương truyền rằng: khi ông còn trẻ, nhà nghèo, sống vất vả, thường bị bà con, bạn bè xa lánh. Ðến khi ông đỗ Trạng, tấp nập bạn bè lui tới hàng ngày. Ông ngao ngán tình người có hai câu thơ cảm xúc:"Khó khăn thì chẳng ai nhìnÐến khi đỗ Trạng chín nghìn anh em"Vì thế, khi công danh thành đạt, ông cũng bỏ cả mà đi tu.)Thiền sư Pháp Loa tận tình gíup đỡ ông. Về sau khi Pháp Loa mất (1330), ông nối tiếp làm vị tổ thứ ba dòng Thiền Trúc Lâm. Ðạo hạnh và tài thơ ông khiến sĩ phu kính phục. Ông mất năm 1334, thọ 80 tuổi. Tác phẩm chính: "Chư phẩm kinh" "Công văn tập" "Ngọc tiên tập" (tập thơ) Hiện nay tất cả đều đã thất lạc. Chỉ còn khoảng hơn 20 bài thơ in trong "Việt Âm thi tập"; "Trích diễm thi tập" mà thôi.