Nói rồi bà cầm chung trà tung lên, kình lực phát ra vo vo. Tự-Mai kinh hoảng vội lộn xuống dưới ránh. Chung trà trúng xà nhà đến bốp một tiếng, vỡ tan tành ra thành những miếng nhỏ. Thấp thoáng, Lưu hậu nhảy tới phóng chưởng tấn công nó. Chưởng lực của bà cực kỳ hùng hậu, trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Tự-Mai vội vận khí ra ba kinh dương tấn công, ba kinh âm thủ. Phương pháp này của bố nó chế ra, dùng để phá Chu-sa ngũ độc chưởng. Vô tình nó đẩy ra chiêu Phong-ba hợp bích. Binh một tiếng. Nó cảm thấy khí huyết nhộn nhạo cực kỳ khó chịu. Trong khi Lưu hậu bật lên tiếng ủa: - Mi là ai mà giả thái giám đột nhập cấm cung? Thì ra mi thuộc phái Thiếu-lâm. Mi trúng Chu-sa ngũ độc chưởng của ta rồi. Mi mau bỏ khăn che mặt ra, ta muốn xem mặt mi một chút. Mi còn trẻ, mà đỡ được chưởng của ta kể cũng thuộc loại hiếm có. Tự-Mai cười nhạt, nó tấn công liền ba chưởng bằng tất cả bình sinh công lực. Lưu hậu thấy chưởng của nó hùng hậu kỳ lạ, bà không dám coi thường, phát chưởng đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai lảo đảo lui lại. Vốn cực kỳ thông minh, Tự-Mai biết chậm một chút, thị vệ xuất hiện thì tính mạng khó bảo toàn. Nó chĩa ngón tay phóng liền ba Lĩnh-Nam chỉ vào ba ngọn đèn. Ba tiếng lốp bốp vang lên, trong phòng tối om. Nó điểm một chỉ về phía Lưu hậu. Bà đâu biết lợi hại của chỉ? Trong bóng tối, thấy kình lực ập tới, bà vung chưởng đỡ. Chỉ xuyên qua chưởng trúng người bà. Bà ối lên một tiếng. Rồi quát lớn: - Quân to gan. Có thích khách! Bên ngoài vang lên tiếng thanh la báo động. Tự-Mai kinh hãi, nó lượm mấy cuốn sách ném vào Lưu hậu. Lợi dụng bà mải đỡ, nó vọt qua cửa sổ. Ngơ ngác chưa biết trốn đâu. Trong lúc nguy cấp, nó nhớ lại trong Dụng-binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên nói rằng: Tìm chỗ sống ở chỗ chết. Nay nó đụng với Lưu thái hậu, thì chỗ chết là nơi bà cư ngụ. Nó cần trốn ở cung bà mới an toàn. Hôm Triệu Huy cho nó xem bản đồ cấm thành. Ngọc-thanh Chiếu-ứng Cảnh-linh cung là nơi thái hậu ở về phía Tây. Nó hướng phía Tây chạy. Trong cấm thành, đèn đuốc sáng lòa. Phía trước mấy thị vệ đang chặn đường. Kinh hoàng, thấy bên cạnh có căn phòng tối mò, nó nhảy qua cửa sổ vào trong. Đây là một phòng ngủ trang trí rất thanh nhã. Nhanh nhẹn nó chui ngay vào gầm dường ẩn thân. Bên ngoài người đi lại rầm rập. Có tiếng đàn ông nói: - Bọn thần thực có tội, để thích khách phạm giá. Mong Thái-hậu đại xá. Tiếng Lưu hậu nói: - Khiếu Tam-Bản đấy ư? Người cho thị vệ giải tán ngay. Gian nhân lĩnh của ta ba chưởng. Dù cho gan bằng trời, đêm nay y cũng đau đớn đến chết đi sống lại. - Tuân chỉ Thái-hậu. Cấm thành trở lại yên tĩnh. Tự-Mai đang định chui ra khỏi gầm dường, có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một người khoan thai đi vào. Nó ghé mắt nhìn trộm, thì ra Lý thái phi. Thái-phi đến tấm bồ đoàn ngồi xuống, chắp hai tay vào nhau, mắt từ từ nhắm lại. Bà đang luyện công. Trí nhở Tự-Mai trở về: Hôm ở Khúc-giang, Định-vương căn dặn nó phải cẩn thận, vì võ công Lưu thái hậu cao thâm không thua gì bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Nguyên trước đây bà theo học phái Hoa-sơn. Từ khi nhập cung bà vẫn tiếp tục luyện tập. Sau bang Nhật-hồ khống chế bà, rồi Trường-giang song ưng, Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản cũng khống chế bà, rồi bị bà khống chế lại, rút cục chúng phải qui phục. Vì vậy bà luyện thêm Hồng-thiết công cùng Chu-sa ngũ độc chưởng. Còn Lý thái phi xuất thân từ phái Nga-mi. Trước kia võ công bà cao hơn Lưu hậu. Sau bại dưới tay Lưu hậu về độc chưởng. Từ đấy bà phải khuất phục Lưu hậu để có thuốc giải hằng năm. Tự-Mai thấy lối luyện công của Thái-phi giống phái Tiêu-sơn. Lúc đầu nó hơi bỡ ngỡ. Nhưng lát sau nó nhớ lại lời bố dạy: Võ công Tiêu-sơn, Thiếu-lâm, Nga-mi đều phát xuất từ kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã, nên giống nhau đến bẩy tám phần. Thái-phi luyện công hơn giờ, rồi đóng cửa lại. Bà ngồi lên chiếc ghế, tay mở cuốn sách ra đọc. Thình lình bà ngừng đọc, lên tiếng: - Thiếu hiệp nằm dưới gầm dường mãi như vậy e mất phẩm giá đi. Ra đây mau. Tự-Mai kinh hãi từ từ chui ra. Lý Thái-phi chỉ cái ghế gần đó: - Người ngồi đi! Hừ, người còn trẻ thế, mà võ công đã đến trình độ kinh nhân. Người chịu ba độc chưởng của Thái-hậu mà không việc gì ư? - Nhật-hồ độc chưởng không hại nổi vãn bối. Lý Thái-phi nhắm mắt lại suy nghĩ rồi nói: - Lúc người nhảy ở xà nhà xuống dường như là thức Vô sắc vô tướng của Thiếu-lâm. Còn ba chiêu chưởng của người phảng phất giống Kim-cương chưởng của Thiếu-lâm nhưng sát thủ cực kỳ ghê gớm. Người dùng thứ chỉ pháp gì huyền ảo vô cùng. Ta thực không nhận ra. Người là đệ tử của cao nhân nào? - Vãn bối không có sư phụ. Vãn bối học nghệ với phụ thân. - Người đột nhập vào cung làm gì? Người thực to gan lớn mật. Ta không như Lưu Thái-hậu đâu. Người cứ nói thực, ta sẽ giúp người thoát khỏi nơi đây, bằng không, dù người có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng mất mạng. - Vãn bối có người bạn gái bị bắt làm cung nữ. Vãn bối vào tìm nàng. Vì vậy dù biết vào cấm thành nguy hiểm, vãn bối không từ nan. Vãn bối nghĩ dù chết vãn bối cũng phải tìm ra nàng. - Người thực chí tình. Cung nữ đó họ gì? Người đã tìm thấy chưa? Tự-Mai sợ đưa tên Thuận-Tường ra e nguy cho nàng. Nó nói dối: - Tiểu bối không rõ nàng họ gì, chỉ biết tên mà thôi. Tiểu bối biết;'>
- Kế hoạch hành quân này do chính sư phụ tôi soạn thảo rất chi tiết. Nay tôi xin truyền lại. Cánh quân của sư thúc Lê Văn sẽ xuất phát từ Điền-đông, thình lình tiến lên vượt sông Giang-thủy đánh Liễu-châu. Liễu-châu là châu trị của toàn vùng Quảng-Tây. Tại Liễu-châu, Tống có khoảng năm nghìn quân. Nhưng ta đổ quân vào như sét nổ, ắt chúng không chuẩn bị kịp. Sau khi chiếm Liễu-châu, thì tiến lên chiếm Quế-châu sau đó chiếm Linh-lăng. Sư thúc chỉ đánh ba thành lớn thôi. Còn những thành, đồn nhỏ thì bỏ qua. Khi tới Ngũ-lĩnh thì sư thúc toàn quyền quyết định vượt lĩnh đánh Trường-sa hay án binh bất động. Lê Văn cau mày: - Lệnh của sư phụ con bắt ta thi hành hơi mạo hiểm. Ta tiến nhanh như vậy, dọc đường có tới chín thành nhỏ. Chúng chặn đường tiếp tế lương thảo thì ta ắt gặp hung hiểm. Thường-Kiệt cung tay: - Sư thúc cẩn thận như vậy thực phải. Nhưng giờ này các đội đệ tử Đông-a đang ẩn thân ngoài những kho chứa lương thảo của Tống. Khi sư thúc chiếm thành lớn rồi bỏ lại thành nhỏ thì công chúa Trường-Ninh với phò mã Hà Thiện-Lãm tiến theo sau, thanh toán các đồn này. Đệ tử Đông-a sẽ làm nội ứng giúp công-chúa với phò-mã chiếm các kho lương thảo. Đại sư bá Trần Phụ-Quốc thân chỉ huy tế tác giúp sư thúc. Lê Văn hỏi: - Tất cả những đồn nhỏ dọc đường từ đây đến Ngũ-lĩnh ta không sợ cho lắm. Duy hai châu Điền-đông, Liên-thủy, mỗi nơi Tống có ba nghìn quân trấn đóng, với viên huyện lệnh và viên chỉ huy sứ, là ta ngại nhất. - Thưa sư thúc, sư phụ cháu định sẵn: Trấn-võ đại tướng quân, Vũ-dương hầu Tôn Quý cùng phu nhân Phùng Kim-Thanh đồng xuất phát với sư thúc. Ngay buổi sáng sớm, hầu đánh úp Điền-đông, rồi để cho phu nhân tổ chức cai trị. Còn hầu tiến cùng sư thúc. Đến Liên-thủy, trong khi hầu đánh huyện này, sư thúc vẫn cứ tiến quân. Dư Phi thêm vào: - Khi đi sứ, cháu chú ý, thấy quân sĩ của Liễu-châu đóng làm ba khu vực ở trong thành. Thường ngày một phần ba về làm ruộng. Hai phần ba canh gác. Nhưng thực tế họ ở lẫn với dân, rất khó tập hợp. Thường-Kiệt nói với công chúa Trường-Ninh: - Công chúa cùng Hà phò mã đem quân đi sau đạo của Lê sư thúc, tiếp quản, trấn nhậm Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng, cùng đánh chiếm những đồn ải nhỏ, mà sư thúc Lê Văn bỏ qua. Chàng đưa mắt cho Trí-Cao: - Nhiệm vụ của đạo Hoa-sen, Thượng-oai coi như phên dậu che cho các đạo quân đánh Lưỡng-Quảng. Bây giờ tới đạo chính binh của Trường-sinh. Sư đệ Trí-Cao dùng quân Trường-sinh tỏa về phía Đông, dọc Tả-giang, Hữu-giang đánh thành Hoành-châu, Quý-châu, Ung-châu, Củng-châu, Tầm-châu, Đằng-châu, Thương-ngô, Phong-châu, Đoan-châu, Khang-châu. Tới đây sẽ gặp đạo binh của công chúa Kim-Thành đánh từ Đông về Tây. Trí-Cao hỏi: - Đệ đánh như vậy, thì hông phải còn hàng chục đồn, chúng cắt ngang đường về thì sao? - Sư phụ đã ước tính rồi. Khi sư đệ tiến như vậy thì phía Nam, quân của Lạng-châu, Phong-châu sẽ đánh chiếm tất cả các đồn hông phải, hông trái cho sư đệ. Hai đạo này vượt biên chiếm Khâm-châu, Liêm-châu, Khúc-giang, Quảng-châu. Thường-Kiệt nói với Thiệu-Cực: - Bây giờ tới đạo binh đánh Quảng-Đông. Sư phụ định rằng sư bá tổng chỉ huy quân Phong-châu, Lạng-châu vượt biên đánh Khâm-châu, Liêm-châu lên Quảng-châu, rồi chiếm Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn. Sư phụ dạy: sư bá là túi khôn thiên hạ thêm tài dùng binh của sư thúc Tôn Đản, sư thẩm Cẩm-Thi, sư bá thiết kế lấy. Vua Bà tiếp lời Thường-Kiệt: - Tóm lại chúng ta có năm đạo binh khác nhau. Một là đạo Hoa-sen đánh chiếm Ngũ-lĩnh. Hai là đạo Thượng-oai đi sau đạo Hoa-sen để chiếm các châu quận mà đạo Hoa-sen vượt qua, cùng trấn nhậm, tổ chức cai trị vùng Liễu-châu, Quế-châu, Linh-lăng. Đạo thứ ba là Trường-sinh hành động độc lập, đánh từ Tây sang Đông. Đạo này hai sư huynh Bảo-Dân, Trung-Đạo cùng Trí-Cao chỉ huy. Tôi với triều đình Bắc-cương sẽ lĩnh nhiệm vụ an dân. Thường-Kiệt đi theo tôi. Vua Bà ngừng lại đưa mắt cho Thân Thiệu-Cực; Tôn Đản, Cẩm-Thi; Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên; Lưu Tường. Thiệu-Cực nói: - Tôi phụ trách, đánh Quảng-Đông gồm đạo thứ năm là Lạng-châu vượt biển, đánh úp Khâm-châu, Liêm-châu. Tôn Đản, Cẩm-Thi tổng chỉ huy. Trấn Bắc đại tướng quân Tản-viên hầu Tôn Mạnh và phu nhân Trần Thanh-Nguyên đánh úp Liêm-châu. Tả-thiên ngưu vệ thượng tướng quân Lưu Tường đánh úp Khâm-châu. Quốc-công đưa mắt nhìn Kim-Thành, Thuận-Tông: - Đạo thứ năm là Phong-châu, do Kim-Thành, Trường-Ninh chỉ huy vượt biên bằng đường bộ, đánh tất cả những đồn bên hông phải cho đạo Trường-sinh, rồi chi viện cho đạo Lạng-châu. Sau khi chiếm Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo Phong-châu khoẻ mạnh tiến lên chiếm Quảng-châu, đạo Lạng-châu ngược lại đi sau tiếp ứng. Tôn Đản, Cẩm-Thi đánh Khúc-giang, Triều-dương, Đông-sơn, rồi trấn Chương-giang, không cho quân Tống từ Ngô-Việt đánh xuống. Vua Bà tiếp lời Quốc-công Thiệu-Cực: - Mỗi đạo đều có đội ưng binh. Sau một biến cố thì chuyển thư về Bắc-tiến tổng hành doanh mã-bộ-quân cho công-chúa Bảo-Hòa, nhưng cũng báo cho các đạo khác biết để phối hợp hành động. Công-chúa Bảo-Hòa cũng sẽ dùng chim ưng ban những chỉ dụ, cùng báo về Khu-mật viện. ... Vì tầm mức quan trọng, nên tất cả lục bộ thượng thư của Bắc-biên cùng thư lại, ký lục đều đặt tại Bắc-tiến tổng hành doanh hầu giúp công chúa Bảo-Hòa. Riêng triều đình Đại-Việt, Đại-lý, Xiêm-quốc, mỗi nơi đều cử đến tổng hành doanh một số quan lại để giúp đỡ. ... Thôi, Thường-Kiệt tiếp đi. Thường-Kiệt nói với Trí-Cao: - Sư phụ phụ dạy, tất cả các đạo binh đều là phụ. Đạo Trường-sinh là chính. Sau này sư đệ là Đại-Nam hoàng đế kia mà. Vậy sư đệ hãy điều quân đi, để có các vị cao minh hiện diện góp ý giúp sư đệ. Trí-Cao suy nghĩ một lúc rồi đứng lên nói: - Tấu vua bà. Thưa các vị sư bá, sư thúc, sư huynh, sư tỷ. Cùng các sư đệ. Cao này vốn tài thô trí thiển. May được sư phụ thương yêu dạy dỗ, rồi lại được tiên cô nhân cảnh côi cút mà ban ơn thu làm đệ tử. Hôm nay được các vị trưởng thượng ưu ái tin tưởng trao cho nhiệm vụ lớn, thực lấy làm hổ thẹn. Nhưng nghĩ lại: Nghĩa lớn của tộc Việt là đòi lại đất tổ, vì vậy dù tài hèn trí thiển, nhưng Cao cũng xin cố gắng hết sức mình. Sư phụ trao cho Cao này nhiệm vụ đánh cắt dọc Quảng-Tây, Quảng-Đông làm hai. Nay xin đưa ra phương án như sau. Quần hào tuyệt không ngờ một thiếu niên sơn cước, mà có lời nhún nhường nhưng lại đầy chính khí như thế. Nhưng thoáng một cái, họ đều hiểu ngay rằng Trí-Cao được Hoàng-Giang cư-sĩ vừa dạy văn, vừa dạy võ. Gần đây được tiên cô dạy thêm nữa. Trí-Cao chỉ lên bản đồ: - Các đạo Trường-sinh, Phong-châu, Thượng-oai, Lạng-châu phát xuất một lúc, cùng đánh thực mạnh như sét nổ, tất toàn thể Lưỡng-Quảng rúng động, đám quan quân Tống kinh hồn táng đởm. Toàn Lưỡng Quảng thì trị sở là Quế-châu, Liễu-châu bị sư thúc Lê Văn đánh. Còn trị-sở các thành dọc Nam-biên là Ung-châu thì do Trường-sinh đảm trách. Trị sở các thành phía Quảng-Đông thì đặt ở Quảng-châu, mặt này do Lạng-châu, Phong-châu đảm trách. Vậy cần tiến công Ung-châu trước. Có như thế lệnh từ Quế, Ung không tới các thành khác. Ngược lại cấp báo các thành khác không tới được Quế, Ung. Chính Cao sẽ đảm trách công Ung. Nhưng Ung là hư, chỉ đánh cầm chừng. Còn thực là các thành khác. Khi chiếm xong các thành khác thì Ung biến thành thực. Y hướng Thiệu-Cực: - Phía Đông, đạo Phong-châu, Lạng-châu đánh Khâm-châu, Quảng-châu, trấn mặt Đông cho Trường-sinh. Nay Trường-sinh xin ra quân như sau. Trí-Cao hướng Thuần-Anh: - Hoành-châu ở gần nhất, ta cần ra quân chớp nhoáng. Trong thành đã có anh em đệ tử Đông-a chờ đợi. Vậy chính mẫu thân, âm thầm xuất quân trong đêm, sao cho đúng giờ Dần thấy trong thành có tiếng reo hò, có khói bốc lên là lúc anh em đệ tử võ phái đánh phá dinh trấn-thủ, kho lương, mở cổng thành. Ta ập vào chiếm lấy. Sau khi chiếm Hoành-châu, mẫu thân bắt dân binh Tống theo phục dịch binh mình, rồi tiến lên đánh Quý-châu (Ninh-châu). Xin mẫu thân cho biết cần bao nhiêu quân? Thuần-Anh nói: - Trong thành Hoành-châu có ba nghìn quân, gồm một nghìn kỵ, hai nghìn bộ, cùng năm nghìn dân phu. Nếu ta đánh sớm, chúng còn ngủ. Dù chúng có thức dậy cũng mất một giờ tập hợp cùng phản ứng. Vì vậy không cần nhiều quân. Ta chỉ xin cho ba nghìn nữ binh, một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói. Không cần voi. Về thành Quý trong thành có ba nghìn quân toàn bộ binh. Sau khi Hoành-châu mất Quý-châu rung động, chỉ cần dùng hư binh cũng khiến cho chúng kinh hồn bỏ chạy. Có điều tướng trấn thủ là Đức Quang, hữu dũng vô mưu, nhưng võ công y cực kỳ cao thâm, mụ già này không thể là đối thủ của y. Thuần-Anh chỉ vào tuổi năm mươi, nhưng bà xưng là gìa, làm mọi người đều mỉm cười. Tuy tiếng nói ôn nhu, nhưng với một thành ba nghìn quân, năm nghìn dân phu, mà bà chỉ xin có ba nghìn nữ binh, thì ai cũng phục bà can trường. Trí-Cao hỏi Bảo-Dân: - Sư thúc, võ công sư thúc so với Đức Quang thế nào? - Ta chưa đấu với y. Nghe đâu y đấu ngang tay với Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh thì phải. Nghe Bảo-Dân với Trí-Cao đối thoại, Lê Văn ôm gối ngửa mặt lên trời mà cười. Thường-Kiệt thấy vậy, y hỏi: - Sư thúc! Xin sư thúc cho phương thuốc trừ tên Đức Quang. Lê Văn đưa ra bình thuốc nhỏ trao cho Bảo-Dân: - Sư huynh phải dự cuộc đánh chiếm Ung-châu, Tân-châu, e không thể hiện diện dùng võ công giết tên Đức Quang, thì bình thuốc này sẽ trị được y. Trí-Cao hỏi: - Nghĩa là??? Lê Văn cười tủm tỉm: - Trong thành hiện có người của phái Đông-a, y là chủ quán ăn. Quán của y nổi tiếng về món chả cá Thăng-long phải không? Trí-Cao tỉnh ngộ: - Phải rồi, Đức Quang là tên thích rượu ngon, thích gái đẹp, thì đêm Nhâm-Thìn sang ngày Quý-Tỵ chủ quán chỉ việc làm chả cá mời y, rồi bỏ thuốc nhuyễn-cân vào rượu thì hôm sau mẫu thân bắt y như bắt rùa. Trí-Cao đưa mắt nhìn vợ: - Kế tiếp là Củng-châu. Trong thành Củng có năm nghìn binh, gồm ba nghìn bộ, hai nghìn kỵ. Thành Củng ta cũng ra binh như thành Hoành, trong thành anh em đệ tử Mê-linh đã tiềm ẩn, đúng giờ Dần họ chiếm đinh trấn thủ, kho lương, chuồng ngựa, rồi mở cổng thành cho quân ngoài vào. Vậy Thuần-Anh hãy lĩnh năm nghìn nữ binh, cùng một trăm hổ, một trăm báo, một trăm sói tiến đánh. Thuần-Khanh có ý kiến gì không? Thuần-Khanh hỏi: - Tướng trấn thủ Củng-châu là ai? Tài trí y ra sao? - Y tên Toàn Huy, nguyên y có tên là Phạm Đình-Huy, khi ứng thí tiến sĩ mới đổi ra là Toàn-Huy. Y xuất thân là người đọc sách, thi đậu tiến sĩ năm mười chín tuổi. Tuy y đỗ cao, nhưng không được triều đình trọng dụng. Mãi sau nhờ Yến Thù, y mới được làm tham quân trong đạo binh của Tần-vương Tự-Mai. Khi vương rời Bắc-biên về triều, có đề bạt cho y làm huyện lệnh Củng-châu. Võ công y bình thường, tài dụng binh bình thường, nhưng y là người có tài cai trị. Sau này toàn vùng Lưỡng-Quảng phải trao cho y. Thuần-Khanh hỏi: - Sau khi chiếm Củng-châu rồi, thì tiểu muội làm gì? - Dân Củng nửa nói tiếng Quảng, nửa nói tiếng Việt. Sau khi chiếm xong, Thuần-Khanh cho tổ chức cai trị, an dân, cùng trấn đóng tại đây. Khanh đắp lại thành, bố trí cung nỏ thực nhiều, bởi tuy ta ra quân lần này cầm chắc cái thắng trong tay, nhưng cũng cần bảo vệ con đường rút lui. Nếu như các đạo quân khác thất thố, ta lấy thành Củng làm địa đầu. Trí-Cao quay lại nhìn thấy Tĩnh-Ninh ngồi cạnh Trần Anh; Đào Phương-Hồng ngồi cạnh Tôn Trọng, thì cung kúu phải dùng binh lực, thì chỉ đối đầu với tộc Nùng, mà tránh đối đầu với Đại-Việt. Khi tấu về triều, các khanh tấu thẳng cho trẫm, không cần qua Nhị-phủ cùng Khu-mật viện. Trẫm ban chỉ cho các khanh, cũng ban mật chỉ trực tiếp. (TS, Nhân-tông kỷ) Thế rồi Địch- Thanh thống lĩnh Tam-anh, Ngũ-hổ xuống miền Nam. Y được phái Thiếu-lâm cử một đoàn cao thủ hơn nghìn người, do ba đại cao tăng chưởng môn Minh-Hiển, thủ tọa La-hán đường Minh-Đức, thủ tọa Đạt-ma đường Minh-Thiên theo giúp. Nhà vua lại viết chiếu thỉnh Hoa-sơn tứ lão cùng Thất-hùng đem hai nghìn cao thủ trợ chiến. Khi y tới Kinh-châu thì các đạo quân tộc Việt đã chiếm trọn lưỡng Quảng. Địch Thanh sai Trương Trung di chuyển quân ở Đàm-châu (Trường-sa) tiến xuống trấn ở Bắc Ngũ-lĩnh, hư trương thanh thế, nhờ phái Thiếu-lâm trợ chiến mặt này. Một mặt y cho hạm đội Kinh-châu vận chuyển toàn bộ hai mươi vạn quân, cùng các cao thủ bang Hoàng-Đế, Hoa-sơn xuôi giòng ra biển, rồi thình lình đổ lên đánh úp Quảng-châu, Khâm-châu, Liêm-châu, Kỳ-châu. Để lừa Đại-Việt, ra cái điều y đang có mặt ở Trường-sa, y cho Tôn Tiết thống lĩnh việc chuyển quân đường thủy. Còn y, y đến chân núi Ngũ-lĩnh họp chư tướng. Vương Duy-Chính, Trần Thự thấy Thanh còn trẻ, có ý khinh thường, tới trễ. Khi Thanh bàn bạc, chúng ngồi ngáp ngáp tỏ ra lơ đãng. Thanh biết rằng mình ra quân kỳ này rất khó thắng, mà quân tướng không nghiêm thì còn hy vọng gì? Y cần phải giết một tướng, để các tướng khác kinh sợ, nhưng chưa có cớ. Vừa lúc đó có sứ giả của Lê Văn, giả xưng là của Trí-Cao tới, đòi trị tội Trần Thự. Trương Trung hiến kế: - Đại ca, khi ban chỉ dụ, hoàng thượng ngỏ ý ta hòa được thì nên hòa. Vậy sẵn dịp này, ta chém đầu tên Trần Thự, giảng hoà với Trí-Cao. Nhược bằng chém Thự rồi, mà Trí-Cao còn tiến quân, bấy giờ y không còn chính nghĩa, mà ngược lại ta có chính nghĩa. Thanh trì nghi: - Chủ trương việc này là do hoàng thượng cùng các đại thần, Thự chỉ là Thiên-lôi mà thôi, chém y thì oan cho y quá. - Đại ca ơi, ta chém Thự với mục đích chạy tội cho triều đình, hầu tạ lỗi với quốc dân là cái cớ. Mà ví dù không có cớ đó, ta vẫn phải chém một tướng để thị uy kia mà! Thanh tỉnh ngộ, hôm sau trong cuộc hội quân, Thanh bèn đứng lên kể tội Trần Thự: - Hoàng thượng cùng Yên-vương chủ trương hòa Nam, trấn Bắc, cho nên bấy lâu Nam-thùy yên ổn. Nay không có lệnh, ngươi tự tiện sai tế tác hành sự, giết đại thần của Đại-Việt đó là tội phải chém cả nhà. Hành sự bất cẩn, bị bắt, ngươi không dám nhận tội, lại cung khai với Khu-mật viện Đại-Việt rằng việc ngươi làm là do chỉ dụ của hoàng thượng cùng lệnh của Tuyên-vũ sứ Vương Duy-Chính đó là hai tội. Khi được tha về, ngươi im lặng, thành ra triều đình không biết trước mà đề phòng. Nay xẩy ra binh biến rung động thiên hạ, người chết có hàng vạn vạn đều do ngươi cả. Đó là ba tội. Với ba tội đó, đáng chu di tam tộc, nhưng nay ta chỉ chém đầu ngươi mà thôi. Thanh sai võ sĩ đem Trần Thự ra chém đầu, rồi sai đóng thùng đưa đến dinh Lê Văn xin giảng hoà. Lê Văn vội sai viết thư báo cho công chúa Bảo-Hòa sự kiện. Công chúa triệu Trí-Cao, Thường-Kiệt, Đình-Huy thương nghị. Đình-Huy hiến kế: Cao gửi thư cho Địch, đồng y rút quân, nhưng phải giết cả bẩy tên chủ xướng chứ không phải mình Trần-Thự. Địch Thanh tuy được toàn quyền, nhưng y chỉ có quyền chém Trần Thự là cấp cao nhất, y không thể chém bọn Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miễn, Ky Mân, Tiêu Chú. Vì vậy y âm thầm dùng thuyền nhỏ, vượt Trường-giang, đuổi theo hạm đội Kinh-châu xuống đánh phía sau quân Đại-Việt. Y thành công ở Khâm, Liêm, Kỳ, thất bại tại Quảng-châu. Đáng lẽ y thừa lúc bên Đại-Việt chưa kịp phản ứng mà tiến về phía Tây, thì ít ra cũng tiến tới Ung-châu. Nhưng vì y sợ quân Đại-Việt từ Nam vượt biên đánh phía sau, nên y tiến rất chậm. Khi y đang trì nghi, không biết nên đánh xuống Nam hay tiến về Tây, thì nhận được mật chỉ giả của công chúa Bảo-Hòa chuyển đến. Trong mật chỉ truyền rằng: lương thảo của đạo quân đánh Quảng-Đông để cả ở Như-hồng, Cổ-vạn. Vậy Thanh nên tiến quân chiếm năm khê động phía giáp biển, rồi tiến vào Đại-Việt. Như vậy Đại-Việt phải rút quân ở Quế-châu, Linh-lăng về giữ nhà. Bấy giờ Trương Trung sẽ đem quân vượt Ngũ-lĩnh xuống Nam. Hai mũi dùi đánh ép lại. Địch Thanh được mật chỉ thì mừng vô hạn, Y đem quân chiếm năm trại phía giáp biển dọc biên giới Đại-Việt dễ dàng, vì thổ binh chỉ chống cự qua loa rồi bỏ chạy. Khi y tiến vào vùng Tiên-yên, đang cho quân nghỉ, thì được tin kho lương Kỳ-châu thất thủ. Y không sợ cho lắm, bởi y mới chiếm được lương thảo ở Như-hồng, Cổ-vạn. Vì chủ quan, y cho rằng quân Đại-Việt kéo sang cướp phá lưỡng Quảng, trong nước không còn binh trừ bị. Bao nhiêu dân chúng người Việt trốn hết, chỉ còn lại mấy chục gia đình người Hoa. Họ nói rằng tổ tiên họ bị tội vào thời vua Thái-tông, bị đầy sang đây. Nay thấy quân Thiên-triều sang, họ can đảm ở lại để làm hướng đạo. Thanh sai chư tướng an ủi họ, cho họ ở lẫn trong quân giúp việc cơm nước. Họ đem dâng trâu, bò khao quân. Thanh cho quân nghỉ một ngày, dự bị tiến về chiếm Thăng-long. Quân hạ trại, thì chư tướng đến báo cho Thanh biết một chuyện kinh hoàng: trong các khu vực đóng quân rải rác dưới gốc cây, trong bụi cỏ, quanh suối, chỗ nào cũng thấy đầu lâu, xương chân, xương tay người. Khi hỏi cư dân người Hoa xung quanh, thì họ cho biết nơi đây là chiến trường cũ giữa Tống, Việt vào thời vua Thái-Tông. Vua sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Trần Khâm-Tộ, Triệu Phụng-Huân, Quách Quân-Biện mang quân sang đánh. Tống bị bại ở chỗ này, nên xương cốt còn rải rác trong rừng. (TS, Thái-tông kỷ) Thanh sai lượm xương cốt đó đem chôn. Đám Hoa-dân kể cho quân tướng rõ rằng chỗ này, đêm đêm oan hồn binh tướng Tống bị phiêu bạt không ai thờ cúng, thường kêu khóc thảm thiết. Binh tướng nghe thuật đều kinh hãi. Thanh dặn chư tướng phải dùng lời lẽ mà trấn an chư quân. Chiều hôm sau Địch Thanh khám phá ra toàn thể binh tướng đều bải hoải như người đau mới khỏi, người nào chân tay cũng không cất lên nổi, mắt lại nặng chĩu cứ muốn nằm ngủ. Y cho rằng họ bị lam chướng. Nhưng những Hoa-dân cho biết không phải vậy, mà chắc do thánh Chèm tức Vạn-tín hầu Lý Thân; thánh Gióng tức Phù-Đổng thiên vương; cùng chư thần thời vua Trưng bắt hồn. Quân sĩ đều tin như vậy. Qua một ngày yên tĩnh, nhưng trong quân, những lời đồn đại về ma quỷ tử sĩ lan tràn rất mau. Trời vừa về khuya, quân tắt đèn đi ngủ, doanh trại chìm vào bóng đêm. Địch Thanh đang ngon giấc, thình lình có hàng ngàn tiếng rú kinh hồn, rồi tiếp theo tiếng khóc âm ỉ từ xa vọng về: Khuông-Nghĩa, Khuông-Nghĩa, Tham địa, tham ngọc, Lịnh ngã Nam xâm, Bách niên u uẩn, Cô hồn bất di, Cơ ngạ tha hương, Băng giá u minh, Thống tai, thống tai. (Bia Như-hồng ký)Tạm dịch:Hỡi Triệu Khuông-Nghiã, Tham đất, tham ngọc, Bắt ta Nam xâm, Chết oan trăm năm, Hồn chưa siêu thoát, Đói khổ quê người, Lạnh lẽo âm u, Hỡi ơi! Hỡi ơi. Rồi những tiếng khóc lóc thê lương của hàng ngàn âm hồn vọng lại. Quân tướng vì bị trúng độc, chân tay bải hoải không lực, thần chí mơ hồ, thấy cảnh này đều run sợ, mạnh ai người ấy quỳ gối hướng nơi có tiếng khóc của đội âm binh lạy lục, khấn khứa. Người theo đạo Phật thì tụng kinh cầu Quán-thế-âm che chở, kinh vãng sinh. Kẻ theo Lão thì cầu Thái-Thượng lão quân, chư tiên phò hộ. Cũng có người biết chút phù thủy, vung tay bắt ấn trừ ma. Nhưng đoàn âm binh cứ tiếp tục khóc lóc. Địch Thanh vội mời Đặng Đại-Bằng, cùng Hoa-sơn thất hùng lại thương nghị. Chu Chiếu-Anh nói: - Này Địch sư điệt, dường như chúng ta bị lam chướng hành thì phải, tất cả chư quân tướng đều mề mệt buồn ngủ, chân tay cất lên không nổi. Nhưng họ lại tin rằng họ bị thần Tản-viên, bị thánh Phù-Đổng thiên vương, bị Vạn-tín hầu sai âm binh ám. Nếu đại địch đến thì làm sao bây giờ? Đại-Bằng nói: - Từ chiều đến giờ tôi thấy toàn quân như bị trúng độc. Tôi chưa rõ độc chất gì. Nhưng chúng đầu độc bằng cách nào? Tôi dùng nội công Hồng-thiết trục độc trị thử, thấy có kết quả. Tôi ra lệnh cho đệ tử bản bang trị bệnh cho chư quân, nhưng số thuốc mang theo không được làm bao, trị hơn nghìn người là hết. Khổ một điều, sáng trị khỏi, chiều lại bị lại. Hoà-thượng Vạn-Quang nói: - Tôi, thì tôi nghĩ rằng quân ta lâu ngày không luyện tập, nay trải qua hơn tháng hải hành say sóng chưa tỉnh, lại phải viễn hành, nên khi lam chướng nhập, thì không còn sức chống bệnh. Xin bang trưởng khẩn thư về cho chư huynh đệ quý bang tải thực nhiều thuốc xuống mới xong. Trời về khuya, tiếng khóc mới tạm dứt. Địch cùng chư tướng cho đánh trống ra lệnh tắt đằn đi ngủ. Mọi người vừa riu riu thì khu chuồng ngựa trại kị binh có tiếng reo hò, lửa cháy, tiếng ngựa hí, doanh trại náo loạn. Địch Thanh không kịp mặc giáp trụ, nhảy lên ngựa đến nơi, thì thấy một đoàn báo đang tung hoành, vồ, chụp, cắn cấu ngựa, khiến ngựa chạy lung tung. Thoát một cái, đoàn báo đã biến mất vào đêm tối. Y kiểm điểm lại, hơn ba trăm ngựa bị chết, bị thương. Trong khi y được báo cáo rằng bên địch chưa quá năm mươi người, với hơn trăm báo, lợi dụng binh canh ngủ, đã đột nhập vào doanh trại khuấy phá. Địch Thanh ra lệnh cho binh sĩ canh phòng cẩn thận, rồi cho tắt đèn đi ngủ. Mọi người vừa riu riu thì có tiếng pháo nổ, rồi tiếng quân reo, tiếng trống thúc. Xa xa, cách doanh trại vài dặm, một cảnh tượng làm y cũng như binh sĩu Tầm-châu, đang giao chiến với ta thì đánh phá cạn bó đuốc, mờ mờ trong làn khói, một đoàn voi hơn trăm con đi trước. Ba toán đầu, mỗi toán mười con, trên có những tướng mặt đen như nhọ chảo, đỏ như máu, vàng như nghệ, xanh như lá, tay cầm đại đao, trường thương. Xung quanh, một đoàn báo lông đen như nhung gầm gừ đi hộ vệ. Hai lá cờ, một lá phất phới với hàng chữ Anh linh thần Nam-nhạc hộ quốc, một lá có hàng chữ Tru Tống tặc Nam xâm. Hai toán kế tiếp, mỗi toán mười thớt voi, trên toàn nữ tướng xinh đẹp, tay cầm cờ xanh, đỏ, trắng, tím vàng đủ mầu phất liên tiếp. Xung quanh, một đoàn hổ lông vằn vàng, đen, gầm gừ tiến theo. Một lá cờ có hàng chữ Thần-võ Trưng hoàng đế truy hồn Bắc quân. Lá thứ nhì trên đề Bình Ngô đại tướng quân, công chúa Thánh-Thiên, thảo Tống tặc. Toán thứ ba gồm năm đội voi, mỗi đội mười thớt, trên có những binh quỷ đầu sừng dài, danh nhọn hoắt, mặt đen như nhọ chảo, hoặc trắng như vôi, miệng ú ớ những âm thanh quái dị. Xung quanh một đoàn chó sói hộ tống. Cứ mỗi hồi thanh la đánh lên, đoàn sói lại tru những hồi dài thê lương, não nùng. Một lá cờ có hàng chữ Âm binh Nam-thiên hộ quốc. Đạo âm binh đi một vòng quanh doanh trại. Địch Thanh biết rõ đây là do Đại-Việt bầy ra để cướp tinh thần quân Tống. Y muốn sai kị binh ra đánh, nhưng người, ngựa đều vô lực, lại khiếp sợ không ai dám xuất trại. Khi đạo âm binh biến mất thì trời vừa sáng. Qua một đêm không ngủ, người ngựa trúng độc, bị ma trêu, quỷ ám, không ai còn tính thần tiến binh. Giữa lúc đó, thì đạo Thiên-tử binh Đằng-hải, Ngự-long, Bổng-nhật thiện chiến bậc nhất Đại-Việt, do Dương Bình tổng chỉ huy Lý Nhân-Nghĩa, Lê Phụng-Hiểu, Quách Thịnh, tiến lên phản công. Quân của Tống là quân thời bình không quen chiến trận, bệnh hoạn, sợ ma, sợ chết, ngồi trong trại run lật bật, không ai đủ tinh thần chiến đấu. Còn sáu đạo Ngự-long, Đằng-hải, Bổng-nhật từng đánh dẹp quanh năm, rồi mới đây bình Chiêm về, kinh nghiệm có thừa. Sau mấy giờ đụng nhau, quân Tống bị cắt làm đôi, Đông, Tây không cứu ứng được nhau. Tuy nhiên hai tướng Đại-Việt là Lý Nhân-Nghĩa, Lê Phụng-Hiểu b>
- Vậy Tráng-tiết tướng quân, Tiên-yên hầu Hoàng Tích hãy theo hầu tiên cô. Nhớ mang theo trăm chim ưng để thông tin với các đạo quân. Giờ Dần, ngày Quý-Tỵ. Công chúa Bảo-Hòa đứng trên đỉnh ngọn núi cao nhất Trường-sinh. Cạnh công chúa có đại sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử, Lưu Tường cùng một số đệ tử Tản-Viên. Bốn nàng Mai, Lan, Cúc, Trúc theo hầu bên cạnh. Vừa đúng giờ Dần, công chúa truyền đánh lửa rồi châm vào phong hỏa đài. Phút chốc lửa bốc lên cao tận mây, ánh sáng đỏ tươi chiếu rực bầu trời. Quốc-sư Huệ-Sinh hỏi: - Tiên cô! Kế hoạch tiến quân của đạo Trường-sinh, Hoa-sen, Thượng-oai bần tăng đã biết rồi. Không biết giờ cuối cùng, tiên cô có thay đổi gì không? Bảo-Hòa đáp: - Kính Quốc-sư không có gì thay đổi cả. Đúng kế hoạch, thì đội võ sĩ phái Đông-a đã ẩn trong thành Liễu-châu từ trước, do chính chưởng môn Phụ-Quốc chỉ huy. Khi họ thấy ánh lửa phong hỏa đài, lập tức nhanh chóng đốt dinh Kinh-lược an vũ sứ, chuồng ngựa, mở bốn cổng thành ra cho đạo kị mã Hoa-sen với đội thú xung vào làm nát lòng quân Tống. Sau đó đạo kị mã, bộ binh tiến vào sau. Đám năm nghìn quân bộ, ba nghìn kị Tống sẽ bị bắt hết. Lê Văn dùng đám quân đó là phu khuân vác lương thảo cùng dụng cụ cho đạo Hoa-sen, rồi tiến lên Quế-châu. Tôi độ chừng khi Văn đệ tới Quế-châu thì Vương Duy-Chính mới biết. Nếu y tập hợp được binh sĩ thì Văn đệ phải đánh thành. Còn trường hợp y không tập trung được quân thì sẽ bỏ chạy về Linh-lăng. Văn đệ sẽ đuổi theo. Nùng-Sơn tử là vai sư thúc chưởng môn Bảo-Hòa. Rất giỏi về khoa tướng mệnh, ông nói: - Chưởng-môn trao nhiệm vụ chiếm núi Ngũ-lĩnh cho Lê vương gia thực đúng. Bần đạo coi tướng vương gia, là người trung hậu, bác học, đa năng, suốt cuộc đời tắm trong y đạo. Cứ việc sang Xiêm thì rõ. Nếu muốn, vương có thể đem công chúa về Đại-Việt ở. Nhưng vương nghĩ, tục lệ Xiêm định rằng con trai lấy vợ, phải giúp gia đình nhà vợ. Vì vậy vương đồng ý, đem ngay trăm y sinh sang Xiêm truyền y đạo. Rồi bây giờ ta đem quân đòi cố thổ, vương đi tiên phong. Bảo-Hòa ghé vào tai đạo sư nói nhỏ: - Tại đền thờ Quốc-tổ ở đỉnh Thiên-đài còn.... vì vậy đệ tử phải để Văn đệ lên đó. Vả đạo quân của Văn đệ có thể gặp đạo quân của Kinh-Nam vương Tự-Mai. Hai người này thân với nhau như tay phải với tay trái. Nên nếu binh tướng hai đạo lỡ đụng nhau, cũng dễ hóa giải. Công chúa tiếp: - Ưu điểm của ta là đánh thình lình, khiến chúng choáng váng không biết đâu mà phòng, mà chống. Các đạo khác thì đệ tử thiết kế. Còn đạo Phong-châu, Lạng-châu thì do nhị huynh Thiệu-Cực với Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy. Tài dùng binh của Tôn Đản e thế gian này chỉ Tự-Mai là bì kịp. Tài cai trị dân thì Kim-Thành, Cẩm-Thi e không thua công chúa Phùng Vĩnh-Hoa thời vua Trưng. Nhị huynh tài trí tuyệt vời, nên đệ tử để ảnh tự thiết kế. Hôm trước họp xong, lúc trở về chính ảnh vượt biên đến Liêm-châu, Khâm-châu nghiên cứu tình hình. Ảnh cho biết tại Khâm-châu Tống có một hạm đội, khoảng vạn rưỡi người. Ban ngày họ chia làm bốn thủy đội đi tuần tiễu, một thủy đội giữ cảng. Ban đêm thì tất cả về bến đậu. Binh sĩ lên bờ hết. Mỗi chiến thuyền chỉ để lại một, hai người canh gác. Thường đêm, chúng ngủ hết. Trong Liêm-châu có đạo binh 331, 332. Thường binh lính ở lẫn với dân. Sáng điểm danh một lần rồi cho về. Đêm có bốn đội, mỗi đội mười người canh bốn cổng thành. Vì vậy anh ấy quyết định đánh úp Khâm-châu, Liêm-châu. Huệ-Sinh hỏi: - Tướng trấn thủ Khâm-châu, Liêm-châu là ai? Bảo-Hòa hỏi Bảo-Dân: - Xin sư huynh cho biết. - Trấn Khâm-châu là viên Huyện-lệnh Tiêu Chú. Y xuất thân là nho sinh, đậu tiến sĩ, văn mô, vũ lược, tài trí khó ai bằng. Nhưng hiện y đang lên Tuyền-châu coi việc đóng thuyền, nên tại Khâm-châu chỉ có viên Đề-điểm hình ngục trông coi. Còn tướng trấn thủ Liêm-châu là Tô Giám. Tô Gíam là người đọc sách, xuất thân tiến-sĩ, tuổi y còn trẻ, nhưng tài trí tuyệt vời. Vì y là người Quảng nên triều Tống không trọng dụng, bổ y coi châu Liêm. Kế hoạch thì anh Thiệu-Cực với Tôn Đản định như sau: chia quân làm hai đạo. Đạo đi đường bộ và đạo đi đường biển. Đạo đường bộ do anh Thiệu-Cực chỉ huy. Đạo đường biển do Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy. Huệ-Sinh bằng lòng: - Cặp Tôn Đản, Cẩm-Thi thực ngàn năm mới có một. Hồi đi sứ, tuổi họ còn trẻ, mà hành sự như những người già. Huống hồ bây giờ tuổi họ đã trung niên. Năm trước, trong cuộc Nam chinh, tiếng rằng Hoàng- thượng thân chinh, chứ thực ra hoàn toàn do Tôn đại hiệp tổng chỉ huy cả. - Đản đã định rằng: đêm qua y đem tất cả thú rừng của Phong-châu, Lạng-châu xuống chiến thuyền. Thuyền vượt biển suốt đêm, sao cho sớm hôm nay tới cửa biển Khâm-châu. Trong khi đó Kim-Thành, Thuận-Tông chuẩn bị sẵn. Khi thấy Phong-hỏa đài cháy thì đội Tế-tác Tây-vu bên trong thành Khâm, Liêm mở tung cửa thành ra, đạo binh Lưu Tường, Tôn Mạnh ào vào chiếm thành. Còn Tôn Đản, Cẩm-Thi đánh úp chiếm hạm đội đậu trên bến. Đạo Phong-châu vượt biên tiếp ứng. Đạo Lạng-châu thì tiến thẳng về thành Quảng-châu. Anh Thiệu-Cực ước tính, sau khi chiếm thành Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo binh Tôn Đản chia quân làm hai. Một cánh tiến về Tây tao ngộ với cánh của Trường-sinh, một cánh tiến về đánh Quảng-châu. Công chúa phải ngừng lại, vì tín hiệu pháo thăng thiên tại Hoành-sơn, Củng-châu vọt lên trời, rồi toả ra mầu tím. Đám đệ tử Tản-viên reo lớn: - Thành công rồi. Đã chiếm được Hoành-sơn, Củng-châu. Từ xa xa, ánh lửa Phong hỏa đài bốc lên ngút trời. Đám đệ tử Tản-viên lại reo: - Phong hỏa đài Tầm-châu cháy rồi, chắc Bình Nam đại tướng quân và quận chúa Đào Phương-Hồng đang công thành, nên Tống đốt phong hỏa đài cầu cứu. Trời dần sáng, ánh nắng chứa chan chiếu trên đỉnh núi, chim hót líu lo. Những con chim ưng từ khắp mặt trận liên tiếp đưađất lạy bốn lậy: - Cô cô. - Điệt nhi. Hai người lại ôm lấy nhau. Lý Thái-phi nói: - Ta được một điệt nhi như cháu, thực không gì vui bằng. Hai người nói chuyện một lúc rồi thái phi trao chiếc hộp cho Tự-Mai, bà nói nhỏ: - Điệt nhi phải rời đây ngay đêm nay. Ta vờ sang cung Lưu hậu thăm bà. Điệt nhi theo ta, khi tới chân cấm thành, thì vượt tường ra ngoài. Bà mở cửa hầm, cùng Tự-Mai ra ngoài. Bà đi trước. Tự-Mai chắp tay giả theo sau hướng phía Tây. Vừa đi được một quãng, thì hai tên thị vệ đứng chắn đường: - Tâu Thái-phi! Đêm khuya, trong cấm thành mới có thích khách. Xin Thái-phi trở về cho. Tự-Mai biết hai thị vệ này có nhiệm vụ canh Thái-phi. Thái-phi đáp: - Ta thăm Thái-hậu. Nói rồi bà thản nhiên bước đi. Hai tên thị vệ bàn với nhau mấy câu, rồi một tên theo sau Lý Thái-phi với Tự-Mai. Khi tới chân cấm thành, Lý Thái-phi bảo Tự-Mai: - Mai-Tự, đã có thị vệ theo hầu ta. Người lui thôi. Tự-Mai khom lưng, quay trở về. Tên thị vệ theo Lý Thái-phi đi. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Tự-Mai tung người lên tường cấm thành, rồi nhẹ nhàng đáp xuống. Nó hướng cửa Đông hoàng thành mà đi. Ngửa mặt nhìn lên trời, thấy cặp chim ưng đang bay theo, nó yên tâm. Vừa tới cửa Đan-phượng, tiếng chim ưng ré trên không. Tự-Mai giật mình, vì nó biết chim ưng báo cho biết có người theo dõi. Nó thản nhiên như không biết, tìm chỗ thấp, tung mình leo lên mặt hoàng thành ra ngoài. Nó vờ bước đi, nhưng lắng tai nghe, thấy có tiếng chân người, biết mình vẫn bị theo dõi. Thình lình nó quay lại, thấy thấp thoáng có bóng người núp vào bụi cây phía sau. Nó tung mình tới xử dụng ưng trảo chụp người kia. Người ấy lạng mình tránh khỏi. Nó chĩa nhón tay điểm vào huyệt Á-môn. Người kia ngã lăn xuống đất. Tự-Mai nhắc người đó lên, nó kinh ngạc vì thấy người đó nhẹ quá. Dưới ánh sáng lờ mờ, nó nhận ra đó là một thiếu nữ. Nếu như Thiệu-Thái, Lê Văn, chắc chắn sẽ tỵ hiềm nam nữ, không dám đụng vào người nàng. Tự-Mai là con Côi-sơn đại hiệp, người ngang tàng không hai trên đời. Ông thường công kích những lề thói hủ lậu của luân lý Khổng, Lão, Phật. Cho nên nó nhiễm lối giáo dục của bố. Không nề hà nó cặp thiếu nữ vào nách, rồi hướng phủ Định-vương, dùng khinh công chạy tới. Nó vừa tới nơi, đã thấy cổng mở sẵn. Lê Văn đang chờ nó: - Em thấy chim ưng bay hướng này, biết anh về, nên mở cổng chờ. Thấy Tự-Mai cặp nách một cô gái, nó hỏi: - Ai thế này? - Không rõ. Y thị theo dõi ta. Ta điểm huyệt đem về đây. Viên thị vệ gác cổng thấy Tự-Mai ngang nhiên bắt một thiếu nữ, y trố mắt nhìn. Tự-Mai nói: - Thị là gian tế. Ta bắt về trao cho vương gia. Hai thiếu niên đem thiếu nữ vào sảnh đường. Tự-Mai nói với nàng: - Ta điểm huyệt làm cho mi không nói được, chân tay mi tê liệt. Bây giờ ta giải khai huyệt đạo cho mi. Bằng mi la lên một tiếng, ta lại làm cho mi câm. Nếu mi tuân lệnh thì chợp mắt ba cái liền. Thiếu nữ chợp mắt ba cái. Tự-Mai giải khai huyệt đạo. Nàng nhảy phắt dậy. Bấy giờ Tự-Mai mới nhận ra thiếu nữ tuổi khoảng mười lăm, mười sáu, đôi mắt to đen, mũi cao, không giống người Hán, người Việt. Đầu nàng cài một bông lan bằng vàng, trên dát bẩy viên kim cương lóng lánh. Cổ đeo chuỗi ngọc trai đến năm vòng sáng rực. Hai cổ tay, mỗi bên ba cái vòng, một bằng ngọc xanh, một bằng vàng, một bằng bạc. Nàng mặc áo lụa mầu xanh, xiêm trắng, khăn quàng cổ mầu tín. Tự-Mai, Lê-Văn cùng khen thầm: - Nàng này đẹp không thua gì Huệ-Phương với Mỹ-Linh. Không chừng là vương phi, công chúa cũng nên. Lê Văn hỏi: - Cô nương tên gì? Thuộc phủ nào? Ty nào trong cấm thành? Thiếu nữ quát: - Quân này to gan thực! Bọn mi là ai mà dám ám toán hại ta. Ban nãy ta không đề phòng, bị mi tấn công. Bây giờ thì đừng hòng. Giọng thiếu nữ lơ lớ cực kỳ khó nghe. Nói rồi nàng xuất quyền đánh Tự-Mai đến vù một tiếng. Tự-Mai không né tránh, nó dùng hai ngón tay kẹp lấy cổ tay nàng. Thiếu nữ vùng vẫy gỡ ra, nhưng tay nàng như bị kìm xiết chặt. Tức quá nàng co chân đá Tự-Mai. Nó nhận ngay ra chiêu cước thuộc võ công Sài-sơn. Thấy kình lực của nàng yếu quá, nó vận công chịu đòn. Bốp một tiếng, thiếu nữ mắng: - Đồ quỷ sứ. Nước mắt thiếu nữ rơm rớm chảy xuống đôi mi cong thực đẹp. Tự-Mai thấy nét mặt nàng hiện ra vẻ đau đớn, nó vội buông ra. Thiếu nữ ôm tay nhăn nhó, lườm lườm nhìn Tự-Mai: - Sẽ có một ngày kia ta ăn thịt mi. Tự-Mai hối hận: - Tại hạ hơi mạnh tay, mong cô nương đừng chấp. Lê Văn thấy tay nàng biến sang mầu tím, nó về phòng lấy ra hộp cao, trịnh trọng: - Cô nương, để tại hạ thoa thuốc cho cô nương, bằng không tay tím bầm xấu lắm. Thiếu nữ đưa tay cho Lê Văn thoa thuốc. Bàn tay nàng thon dài, da mịn màng, tươi hồng. Lê Văn thoa đến đâu vết bầm đen biến đi đến đó. Nàng nói với nó: - Cảm ơn. Thôi ta đi đây. Nói rồi rảo bước ra cửa. Tự-Mai chặn lại: - Khoan! Cô nương không thể ra khỏi đây. Thiếu nữ cũng không vừa: - Mi định làm gì ta? - Cô nương phải khai cho rõ. Hà cớ gì cô nương theo ta! Thiếu nữ phát cáu: - Có ai vô lý như mi không? Mi có việc của mi. Ta có việc của ta. Hà cớ mi quay lại ám toán ta, rồi bảo ta theo mi. Thiếu nữ quay lại nói với Lê Văn: - Này anh. Ta thâm cảm ơn anh đã chữa tay cho. Trong Không ngờ Đại-Việt mà cũng có loại quân hùng tráng thế này, ta mà thoát chết hôm nay, thì cũng là may mắn lắm. Y cung tay: - Vậy tiểu tướng xin vào thành Khâm yết kiến vương gia. - Được, mời tướng quân. Nàng cầm cờ phất, đoàn quân Việt mở ra hai bên đường. Thạch Ngọc vẫy quân tiến lên. Nhưng quân y vừa qua được một nửa, thì đội hổ, báo phía sau đã đuổi kịp. Một hồi tù và vang lên, đoàn quân của Tôn Mạnh xung vào cắt đứt đôi quân của Thạch Ngọc. Y quay lại tìm Thanh-Nguyên, thì voi đã mang bà đi khá xa. Biết mình bị trúng kế, nhưng vẫn không chịu khuất phục, y hỏi Tôn Mạnh: - Quân hầu! Công chúa đã hứa cho chúng tôi đi, sao nay lại nuốt lời? Tôn Mạnh quát lên: - Côi-sơn công chúa hứa với người, chứ ta là trấn Bắc đại tướng quân, ta phải bắt giết bọn xâm phạm lãnh thổ Đại-Việt. Ông đánh ba tiếng trống, quân Việt tràn vào bao vây, tiếng loa vang vọng: - Hàng thì sống. Chống thì hổ báo ăn thịt. Từ lúc rời Tiên-yên, quân Tống mệt mỏi, đói khát, sợ ma, sợ quỷ, thì bị Bảo-Hòa dùng hư hư, thực thực làm cho tinh thần càng thêm căng thẳng. Rồi bị hổ báo cắt làm đôi. Bây giờ lại bị đánh ép hai mặt, chúng quẳng vũ khí hướng thành Khâm mà chạy. Thạch Ngọc nhìn Tôn Mạnh chỉ huy quân tiến thoái, bao vây, chia cắt thì trong lòng nảy ra mối căm phẫn: - Tên Giao-chỉ kia văn đã không bằng mình, võ lại càng thua xa, mà nay y làm khó dễ mình thế này, chẳng qua là binh của nó khỏe, lại luyện tập lâu ngày mà thành thiện chiến. Đã vậy ta giết nó, để cho bọn Giao-chỉ kinh hồn. Y tung người lên cao, tay rút kiếm, tà tà đâm vào ngực Tôn Mạnh. Tôn-Mạnh đang chỉ huy quân, không phòng bị, khi thấy kiếm Thạch Ngọc tới sát người, ông mới giật mình, lộn xuống chân ngựa tránh. Thạch Ngọc đổi chiều kiếm hướng ngực ông. Ông lăn mình đi ba vòng tránh, tay rút kiếm chênh chếch đưa lên. Hai kiếm chạm nhau đến choảng một tiếng. Tôn Mạnh tung người dậy. Hai người quấn lấy nhau trong hai quả cầu bạc. Trong khi đó quân Việt đã bắt gần hết quân Tống. Hai người đấu với nhau đến hơn trăm hiệp, thình lình một người thò tay ra bắt kiếm của Tôn Mạnh. Tôn Mạnh kinh hoảng nghĩ: - Ai mà gan đến độ dám đưa tay bắt kiếm mình? Ông lách kiếm định chặt tay người kia, thì tay người kia như con cá trạch đã đoạt mất kiếm của ông. Tay ông như bị tê dại, người ấy túm cổ áo tung ông lên cao, cho binh sĩ bắt. Bỗng bóng xanh thấp thoáng, ông cảm thấy một kình lực nhu hòa đẩy vào lưng, rồi người ông rơi xuống lưng ngựa mình như phi thân lên cỡi vậy. Ông nhìn lại, kẻ bắt kiếm mình là một mụ già, nhưng mặt hồng hào, tóc trắng như cước. Còn người mặc áo nho sĩ mầu xanh cứu mình, mặt dăn deo, lạnh lùng, đang đứng tần ngần nhìn ra biển như suy nghĩ gì. Sau khi đối chưởng với nho sinh, mụ già tỏ ra khách khí: - Các hạ là ai, mà lại xen vào chuyện của quan quân? Chu Chiếu-Anh phái Hoa-sơn muốn được biết cao danh quý tính của các hạ. Vừa lúc đó cánh quân của Thường-Kiệt đánh từ trước tới, bắt tay được với cánh quân Tôn Mạnh. Thường-Kiệt cho quân vây đám tướng sĩ Tống lại. Chàng thấy nho sinh, vội cung tay: - Đệ tử Thường-Kiệt, xin tham kiến sư thúc. Vì giáp trụ trên người, đệ tử không thể hành đại lễ, mong sư thúc đại xá. Nho sinh chỉ mặt mụ Chu Chiếu-Anh cười nhạt: - Hoa-sơn nổi danh hiệp nghĩa nhất Trung-nguyên, nhờ danh tiếng của Hoa-sơn tứ lão, Hoa-sơn thất hùng. Mụ là người cầm đầu thất hùng, mà lại đánh trộm bậc tiểu bối ư? Đẹp mặt nhỉ! Đạo-sĩ Du Minh bị Thân Trúc điểm huyệt, tay bị tê, nhưng sau hai giờ, huyệt tự giải. Y nói với Chu Chiếu-Anh: - Đại sư tỷ, gã này không biết tung tích ra sao, nhưng gã rất nổi tiếng. Gã đã giết cả anh trai hoàng hậu Giao-chỉ, cháu tể tướng Giao-chỉ ở bến đò Bắc-ngạn. Cũng chính gã đánh nhau với Nam-Sơn lão nhân cứu mụ Thuần-Anh. Gần đây gã mới sát hại Tả hộ pháp bang Hoàng-Đế tại Quảng-châu. Bang Hoàng-Đế nguyên là bang Nhật-hồ mới cải danh. Suốt bao năm bang chúng dùng Chu-sa độc chưởng, võ lâm Trung-nguyên dù chính, dù tà, mỗi khi nghe tên đều táng đởm kinh hồn. Hiện trong bang, võ công cao nhất là bang trưởng Đặng Đại-Bằng, rồi đến Tả, Hữu hộ pháp Phong Hoa, Hải-Thanh. Thế mà nho sinh này giết Phong Hoa, thì ắt võ công phải cao minh lắm. Mụ Chu Chiếu-Anh nghe Du Minh nói, cũng muốn rút lui, nhưng sự thể không đừng, mụ nói cứng: - Mụ già này mong tiên sinh hãy lui lại, chẳng nên can thiệp vào việc quan quân, e tai vạ khó tránh. - Ta cũng muốn lui, nhưng mi đe dọa, thì ta lại không lui. Vậy nếu mi đối với ta được ba chưởng, thì ta lui ngay. Còn như... Thình lình ông tung mình về sau, tay phát chưởng đánh lên đầu Du Minh. Du Minh kinh hãi vung tay lên đỡ, thì tay nho sinh như con cá trạch, đã điểm vào huyệt Đản-trung của y, rồi túm cổ áo y nhắc lên. Chu Chiếu-Anh tuyệt không ngờ thầy đồ đang nói chuyện, rồi ra tay như sét nổ. Mụ vội phát chưởng tấn công vào ngực thầy đồ. Mụ hy vọng thầy phải thu tay về đỡ chưởng của mụ, Du Minh sẽ thoát nạn. Không ngờ thầy đồ chuyển tay một cái, đã đưa Du Minh ra đỡ thế tấn công của mụ, trong khi mụ đã nhả chưởng. Kinh hoàng mụ vội thu nội lực trở về. Thầy đồ phất tay một cái, kình lực của thầy, hợp với kình lực của mụ, thành ra mụ bị chính mình đánh mình. Mụ ọe một tiếng, miệng phun máu có vòi, rồi lùi lại, lảo đảo muốn ngã. Thầy đồ cười nhạt, nói thực lớn: - Ta tha cho mụ. Còn gã Du Minh này, gã mạ lỵ nước ta là Nam-man, ta phải giết gã. Nói rồi ông tung Du Minh lên cao, tay phóng lên một chiêu chưởng. Bình một tiếng, Du Minh bị vỡ làm năm sáu mảnh, máu me, ruột gan tung toé trên mặt đất. Xa xa, Thanh-Nguyên cùng đội voi đang trở lại. Thầy đồ nói với Thường-Kiệt: Niên hiệu Minh-Đạo nguyên niên, lâm bệnh, hoăng, hưởng dương bốn mươi sáu tuổi...” Sau này các văn gia Trung-quốc đã bịa đặt thêm nhiều chi tiết nào là vương phi Nam-thanh cung Lộ-hoa-vương, nào là thái giám Quác-Hoè lấy mèo chết thay Thái-tử. Nào là Lý phi ra ở lò gạch. Nào là Bao-công tra ra án. v.v Chúng tôi thuật theo đúng chính chính sử đời Tống. (3)Thang thuốc này ngày nay vẫn còn dùng để trị trật đả. Nó nói: - Cô nương ra hiệu thuốc cắt lấy thang thuốc này, mỗi ngày buổi sáng uống một viên với rượu. Uống hết, thì sức khỏe mới phục hồi. Thôi cô nương có thể ra về. Thiếu nữ đầm đìa nước mắt: - Tiểu muội không nhà thì biết về đâu. - Cô nương không ở trong hoàng thành ư? Thiếu nữ lắc đầu: - Hoàng thành là cái gì? - Chỗ cô nương bị anh Tự-Mai của tôi bắt đó. - Chỗ ấy là hoàng thành à? Hoàng thành Đại-Việt hay Lão-qua? - Hoàng thành Đại-Tống. Mặt thiếu nữ hiện lên vẻ kinh hãi: - Trời ơi! Thì ra tiểu muội bị bắt đem đến kinh đô Tống ư? - Cô nương không biết mình ở đâu à? - Không. Tiểu muội cùng huynh trưởng, chị dâu trên đường đi sứ sang Tống. Khi tới Liễu-châu thì tiểu muội bị gian tặc bắt đem đi. Chúng giam cầm, tra hỏi tiểu muội hơn nửa tháng nay. Hồi chiều, tiểu muội vờ ngất đi, chúng cho tiểu muội uống thuốc, rồi để nằm trên dường. Tiểu muội nhân đó vượt tường trốn đi, thì bị cái anh kia bắt mang về đây. - Cô nương trong sứ đoàn sang Tống. Vậy cô nương là ai? - Tiểu muội tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt, công chúa Xiêm-quốc. Lê Văn bật lên tiếng ái chà: - Hèn gì công chúa nói tiếng Hoa nhẹ như chim hót vậy đó. Ai bắt cóc công chúa? Chúng tra khảo điều gì? Chắc chắn chúng không phải trộm cướp, vì nếu là trộm cướp chúng đã tước đoạt châu báu trên người công chúa rồi. - Chúng tra hỏi bắt tiểu muội dịch một pho sách cổ. Chúng nói văn tự Khoa-đẩu cổ với văn tự Thái là một. Tiểu muội nói rằng văn tự Thái vốn gốc từ văn tử Khoa-đẩu, do quốc mẫu Phùng Vĩnh-Hoa truyền bá. Nhưng trải hơn nghìn năm, đã đổi khác nhiều. Vì vậy tiểu muội chỉ biết được một trong mười chữ. Chúng không tin, tra hỏi tiểu muội hoài. Người tra hỏi tiểu mội là một mụ đàn bà xinh đẹp. Hồi đầu chúng không đánh, chỉ cật vấn thôi. Sau tiểu muội tức quá bưng bát canh nóng ném vào người mụ. Mụ ra lệnh đánh tiểu muội một trăm roi. Tiểu muội vờ trợn mắt giả chết. Chúng sợ quá cậy miệng ra đổ thuốc cho tiểu muội, rồi đặt lên dường. Đợi chúng không phòng bị, tiểu muội trốn đi. Trong khi trốn, gặp cái anh chàng kia điểm huyệt đem ra đây. Lê Văn an ủi: - Công chúa đừng giận anh ấy. Anh ấy là người rất tốt, cũng chạy trốn như công chúa. Vì thấy công chúa theo sau. Anh ấy tưởng công chúa là thị vệ đuổi theo, nên ra tay hơi nặng. Lê Văn gọi một thị vệ phủ Định-vương: - Phiền anh ra chợ cắt cho thang thuốc này đem về gấp. Nó móc túi đưa cho y một nén bạc. Lúc đầu Lê Văn thấy Nong-Nụt xử dụng võ công Sài-sơn, nó hơi ngạc nhiên. Bây giờ biết nàng là công chúa Xiêm, nó hiểu ngay: Võ công Xiêm-la, Lão-qua do công chúa Phùng Vĩnh-Hoa cùng chư đệ tử của người truyền lại. Chợt nhớ lại một truyện: Vương phi Khai-Thiên vương cũng bị nhóm Lưu hậu bắt sang Tống, Tự-Mai đem bản đồ hỏi Nong-Nụt: - Công chúa bị giam ở chỗ nào trong hoàng thành? Liệu công chúa còn nhớ không? - Nhớ chứ. Đây chỗ tôi bị giam đây. Trong đó còn một bà bị giam nữa. Bà ta cũng bị bắt dịch sách như tôi vậy. Một ánh sáng loé lên trong đầu Tự-Mai: - Không lẽ là bà? Được ta hãy ghi nhớ, chờ có dịp, ta thám thính xem sao. Đến đó có tiếng ngựa lộp cộp, rồi nhiều người vào sân. Lê Văn nhìn ra: bọn Triệu Huy, Tôn Đản đã về đầy đủ, chỉ thiếu có Ngô Cẩm-Thi. Tự-Mai hỏi: - Ngô tiểu thư đâu rồi? Triệu Huy đáp: - Ngô tiểu thư trùng phùng với phụ mẫu cùng ba vị huynh trưởng, nên nàng ở lại để hàn huyên. Lê Thuận-Tông hỏi Tôn Đản: - Anh năm này. Theo lệnh anh cả, khi chúng ta gặp Ngô bá bá rồi phải lên đường ngay. Vậy mai chúng ta khởi hành chứ? Tôn Đản đưa mắt cho Tự-Mai: - Ông quân sư định sao? - Dĩ nhiên là thế. Ở đây phức tạp lắm, lên đường ngay để tránh phiền tạp. Triệu Huy thấy Nong-Nụt. Y đưa mắt hỏi Lê Văn. Lê Văn đáp: - Cô nương đây nhũ danh Nong-Nụt, thuộc khê động Thái ở Bắc-biên, được Khai-Quốc vương phái mang thư đến cho chúng tôi. Phiền An-phủ sứ tìm cho nàng một phòng thực yên tĩnh. Triệu Huy đi rồi, Tự-Mai thuật mọi việc cho bốn anh em nghe. Tôn Đản bàn: - Nhất định công chúa Nong-Nụt bị Lưu hậu sai người bắt cóc rồi. Hôm nay Triệu Huy đem lệnh Định-vương đến Khu-mật viện truyền tha Ngô Quảng-Thiên, chắc chắn Lưu thái hậu biết. Sự hiện diện của chúng ta tại đây khó qua mắt bà. Vậy mai chúng ta giả ngoan ngoãn lên đường. Hôm trước Ngô Quảng-Thiên là hư chúng ta là thực. Bây giờ chúng ta là hư, còn Bảo-Hòa, Thông-Mai mới là thực. Tự-Mai còn muốn trở lại gặp Thuận-Tường. Nhưng nghĩ tới quốc sự, nó đành theo lời Tôn Đản. Sáng hôm sau Tôn Đản nói với Triệu Huy: - Triệu An-phủ sứ ở lại nghe. Anh em chúng tôi xin lên đường. Triệu Huy sai cấp cho gia đình Ngô Quảng-Thiên ba con ngựa để ba con trai cỡi. Còn một chiếc xe bốn ngựa cho vợ chồng Ngô Quảng-Thiên với Cẩm-Thi. Năm ông thiên lôi đứng trước bậc tiền bối như Ngô Quảng-Thiên, chúng không dám đùa nghịch, đứa nào cũng làm mặt nghiêm. Tôn Đản sai Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cỡi ngựa đi trước. Nó đi bên cạnh xe ngựa Ngô Quảng-Thiên. Tiếp theo tới ba anh em họ Ngô. Cuối cùng là Lê Văn, Nong-Nụt. Mấy hôm sau đoàn người ngựa tới Kinh-châu. Tự-Mai đưa mọi người tới bến sông tìm đò chở mướn sang. Suốt một giải Giang-Bắc, thuyền đậu san sát hàng nghìn chiếc, lớn có, nhỏ có. Khác với các bến đò khác, khách đến thẳng đò điều đình. Bến đò Giang-Bắc không thế. Tất cả đò của năm chủ. Một chủ chuyên chở xuôi giòng về Đông. Một chủ chở ngược giòng về Tây. Một chủ chở lên Bắc, một chủ chở xuống Nam. Còn một chủ chở ra biển. Tự-Mai tới hãng chở xuống Nam. Một trung niên thiếu phụ tiếp nó. Mụ hỏi: - Khách quan có bao nhiêu người ngựa? - Chúng tôi có mười hai người, một xe tứ mã, và chín ngựa. - Quan khách muốn qua sông hay đến tận Nam hồ Động-đình? - Tôi muốn tới Nam hồ. - Xin cho một lượng vàng. Tự-Mai định chê đắt, thì có tiếng tiêu dìu dặt vọng lại. Một tiểu đồng cỡi lừa thủng thẳng đi tới. Tự-Mai nhận ra y tấu bản Trương Chi tình khúc. Tiểu đồng liếc nhìn Tự-Mai rồi nói với mụ cho thuê đò: - Này mụ Tư. Mụ nhường cho ta món khách này được không? - Được chứ. Tiểu đồng nói với Tự-Mai: - Khách quan đi đò của tôi tốt hơn. Chúng tôi sẽ đãi cơm quý khách. Nhưng giá tới ba lượng vàng kia đấy. Ngôn ngữ tiểu đồng khác thường, Tự-Mai đưa mắt nhìn. Nó thấy trên ngực tiểu đồng mang con chim ưng bằng bạc, rõ ràng dấu hiệu của phái Đông-a. Nó nghĩ thầm: - Cứ như ngôn ngữ của gã này, thì gã thuộc đời thứ ba. Như vậy gã là đệ tử của sư huynh ta đây. Nghĩ vậy nó đáp: - Tôi chỉ có hai lượng thôi. Tiểu đồng ép tay ngang hông, chìa hai ngón tay ra giật giật mấy cái như hành lễ rồi nói: - Xin quan khách theo tôi. Tự-Mai vẫy tay cho cả đoàn theo tiểu đồng tới bãi sông. Tiểu đồng truyền đò phu dắt ngựa, đẩy xe xuống con đò lớn. Còn người thì mời ngồi trên sàn, ngắm cảnh. Thuyền từ từ rời bến, hướng Nam-ngạn. Thuyền đi đến giữa sông, trong sóng gió mịt mờ, xa xa xuất hiện một con đò cực lớn, ẩn hiện giữa lớp mây mù. Tiếng đàn, tiếng trống từ con đò đó vọng lại nhu hòa êm ái vô cùng. Mọi người cùng lắng tai nghe. Khi hai con thuyền cách nhau khoảng nửa dặm, thình lình âm điệu trên con đò lớn đổi hẳn. Mỗi tiếng đàn, tiếng trống đều khiến mọi người như muốn ù tai nhức óc. Nong-Nụt nội công non nớt nhất, nàng phải bịt tai lại. Nhưng tiếng đàn, tiếng sáo vẫn lọt vào tai nàng. Lê Văn kinh hãi để ngón tay trỏ vào huyệt Đại-trùy của nàng, rồi dồn chân khí sang. Nong-Nụt lấy lại được bình tĩnh. Nàng than: - Âm nhạc gì mà quái gở vậy? Âm nhạc lại đổi nhịp, đổi điệu. Mọi người đều khoa chân múa tay như điên loạn. Ngô Quảng-Thiên hô lớn: - Tất cả ngồi im vận công. Kẻ địch muốn dùng âm nhạc tấn công chúng ta. Mọi người vội ngồi vận công. Nhưng chỉ được một lúc, tiếng nhạc như càng thúc dục, khiến chân tay múa may quay cuồng. Lê Văn thấy cái nồi đồng nấu cơm để ở cuối thuyền. Nó cầm lên, tay rút kiếm gõ vào nồi thành tiếng boong boong. Lạ thay tiếng boong boong làm âm thanh bên thuyền kia hỗn loạn. Mọi người cảm thấy khoan khoái như trút được gánh nặng. Nong-Nụt hỏi Tự-Mai: - Lê Văn làm gì vậy? - Kẻ nào đó dùng âm nhạc tấn công mình. Lê Văn gõ nồi thành âm thanh chống lại đấy. Cứ thế, tiếng nhạc bên thuyền kia đổi, Lê Văn cũng đổi cách gõ nồi. Lát sau hai con thuyền đã gần nhau. Tôn Đản thấy mồ hôi trên trán Lê Văn lấm tấm hiện ra. Tiếng gõ nồi hơi rối loạn. Mọi người đều biết cuộc nhạc-chiến đã phân thắng bại. Mà bại về Lê Văn. Ngô Quảng-Thiên vội lạng người đến bên Lê Văn. Ông xòe bàn tay để lên huyệt Bách-hội của nó. Lập tức Lê Văn rùng mình, tiếng gõ nồi boong boong vang lên, đàn áp hẳn tiếng nhạc bên thuyền kia. Hỗn chiến một lúc nữa, bỗng tiếng bực bên thuyền kia vang lên, rồi tiếng đàn im bặt. Rõ ràng người sử dụng âm thanh bên thuyền kia đã bị thua. Lê Văn cũng ngừng lại không gõ nồi nữa. Có tiếng nói từ bên thuyền lớn vọng sang: - Không biết cao nhân phái Sài-sơn cùng phái Khúc-giang nào bên đó. Trần Bảo-Dân phái Đông-a xin chịu thua rồi. Tự-Mai đứng lên đầu thuyền, nó chắp tay lại: - Nhị sư huynh đấy ư? Một người thân thể hùng vĩ, mặt đẹp vô cùng, tung mình từ thuyền lớn nhảy sang. Y như con đại bàng đáp xuống cạnh Tự-Mai. Không nói không rằng, y vung tay tấn công nó bằng chiêu Đông-phong ba lãng. Tự-Mai lui một bước, vận công trả lại bằng chiêu Phong-ba hợp bích. Bình một tiếng, nó loạng choạng bật lui hai bước, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Trong khi đó người kia cũng ôm tay tần ngần. Người kia cau mặt nhìn Tự-Mai rồi nhảy đến ôm nó: - Tự-Mai đấy à? Anh chờ em hơn tháng nay ở đây rồi. Những ai trên thuyền đó? Tự-Mai giới thiệu với mọi người: - Vị này tên Trần Bảo-Dân, đệ nhị đệ tử của bố tôi. Bảo-Dân thấy Ngô Quảng-Thiên vội chắp tay: - Sư bá! Sư bá bỏ Biện-kinh đi mà không sợ ư? Ngô Quảng-Thiên thở dài: - Ta được phóng thích đấy chứ. Tự-Mai giới thiệu mọi người. Bảo-Dân nói: - Xin mời Ngô sư bá cùng cách vị dời gót ngọc sang tệ chu chơi. Được Bảo-Hòa, Thông-Mai báo trước rằng sư bá cùng mấy tên quỷ sứ này sẽ đến đây. Cháu sai đệ tử chờ ở bến Giang-Bắc mấy ngày rồi. Đáng lẽ đệ tử đem Chu-các này đón sư bá, nhưng bị người của Lưu hậu theo sát sư bá, cháu đón sẽ bị lộ hình tích. Cho nên cháu chờ sư bá ở giữa giòng sông. Ngô Quảng-Thiên cùng cả đoàn sang Chu-các. Vừa bước vào phòng khách, Tự-Mai giật mình đứng khựng lại. Vì trong thuyền đã có hai người mà một người nó nhớ nhung ngày đêm là Bảo-Hòa. Một người nó thấy lạnh gáy là Thông-Mai. Cạnh đó, một người nữa khiến nó kinh ngạc, đó là Triệu Piên-Phương, vương phi Khai-Thiên vương. Nó vội thi lễ với bà, rồi hỏi Bảo-Hòa: - Bà chị tiên-cô! Không ngờ tiên cô cùng với ông hoà thượng cũng có mặt ở đây. Tình hình sứ đoàn ra sao rồi? Trong năm ông thiên lôi, Bảo-Hòa thương yêu nhất Tự-Mai với Lê Văn. Nàng nắm tay hai đứa để ngồi hai bên như mẹ đối với con. Nàng nói với Lê Văn: - Em tôi kiếm ở đâu được cô vợ đẹp thế này? Từ sau khi chữa trị cho Nong-Nụt, tình cảm nảy sinh. Trên đường từ Biện-kinh về đây, hai trẻ như bóng với hình không rời nhau nửa bước. Lê Văn có tính khoáng đạt của thầy thuốc, không tỵ hiềm kẻ Xiêm người Việt. Nó đã trị bệnh cho hàng nghìn người ở Vạn-thảo sơn-trang, nhưng chưa bao giờ trị cho một thiếu nữ xinh đẹp, nhu mì như vậy. Lại nữa trong Vạn-thảo sơn trang, có nhiều y sĩ nữ, nên phàm trị bệnh cần phải đụng chạm vào người nữ, thì đại đệ tử Dương Bình sẽ sai nữ y sĩ điều trị. Có thể nói đây là lần đầu tiên Lê Văn thấy toàn bộ thân thể một thiếu nữ. Về phần An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt. Nàng là gái Thái. Tục lệ Thái coi phụ nữ như bông hoa quý. Cho nên khi con gái tới tuổi mười ba trở lên, chỉ cha, mẹ mới có quyền ngồi cạnh, cầm lấy tay. Đối với đàn ông, việc nhìn thẳng vào mặt cũng cấm kị. Không may bị bắt cóc, bị đánh đòn đau đớn ê chề nàng phải tòng quyền để Lê Văn chà thuốc khắp người. Tuổi mười lăm, mười sáu, cơ thể mới nảy nở, nhạy cảm mà nàng bị Lê Văn nhẹ nhàng thoa thuốc trên nhũ hoa. Người nàng như đi vào giấc mơ huyền ảo. Nàng đã yêu Lê Văn từ đấy. Trên đường từ Khai-phong đến Giang-Bắc, nàng tự coi như vợ Lê Văn, săn sóc kính trọng nó như người chồng. Lê Văn nghe Bảo-Hòa hỏi, nó bẽn lẽn: - Nàng đâu phải là vợ em... nhưng... Câu trả lời ngập ngừng của cậu em báo cho Bảo-Hòa biết một sự thực: Đôi lứa đã yêu thương nhau. Để gỡ ngượng cho Lê Văn, nàng chuyển sang hỏi Tự-Mai: - Công lực em cao thực, có lẽ không thua gì chị. Em đỡ của Lưu hậu ba độc chưởng mà không sao. Trái lại độc chất chạy về người, làm bà phải vận công suốt một đêm mới khỏi đau ở tay. Nhưng độc chất theo Dương-minh kinh chạy vào đại-trường, tiểu trường. Từ hôm ấy trở đi, mỗi đêm bà lên cơn đau bụng vào giờ Tý một lần. Tự-Mai biết Thông-Mai, Bảo-Hòa đã thống nhất hệ thống tế tác Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên, Lạc-long giáo. Nhất cử nhất động của nó, Bảo-Hòa, Thông-Mai đều biết. Nó đưa mắt nhìn anh, Thông-Mai ngửa mặt lên trời mà cười. Chàng xoa đầu em: - Em lớn rồi, phàm hành sự phải quang minh lỗi lạc. Em yêu thương, nhớ nhung Thuận-Tường đường đường chính chính, không việc gì phải ngượng ngùng. Nghe anh nói, Tự-Mai thêm can đảm. Nó ngồi ngay thẳng dậy. Thông-Mai tiếp: - Khi Quốc-vương, Định-vương gọi em vào trao cho nhiệm vụ đi đón Ngô sư bá, đáng lẽ em phải hiểu ngay chiều sâu của vấn đề. Thế mà vì u mê trong tình yêu, đến nỗi Lý thái phi nói ra mới biết. Tý nữa thì hỏng đại sự. Việc quốc gia mà để hỏng thì dù em có chết, Thuận-Tường có chết cũng không đền được hết tội. May mà chưa hỏng. Bây giờ em hiểu chưa? Nghe anh kết tội, Tự-Mai lạnh xương sống. Từ bé, nó vốn úy kị ông anh gương mẫu này, mà nhờn với Thanh-Mai. Vì nó biết Thông-Mai khác hẳn với Thanh-Mai. Mọi hành động Thanh-Mai đều thiên về tình cảm. Tính Thông-Mai giống cha như hệt: cương quyết, ngay thẳng. Chẳng thế mà chàng cấm tên đầu bò liếm Đặng Đức-Kềnh đến nhà con điếm già Anh-Tần. Y thề rằng nếu tái phạm cả nhà bị chết. Sau Thông-Mai bắt được y tái phạm. Chàng tàn sát cả nhà y đến con chó con mèo cũng không tha. Tự-Mai đáp: - Bây giờ em hiểu hết rồi. - Em thử nói anh nghe xem nào! - Định-vương, Quốc-vương truyền cho năm đứa chúng em theo Triệu Huy về kinh đón Ngô sư bá, đó là hư. Còn thực là để em gặp Lý thái phi, báo cho thái phi biết việc Lưu hậu đang định hai bà cùng Thiên-Thánh hoàng đế, cũng như đem điều bí mật về Lưu hậu ra ngoài. Vì Định-vương biết thế nào về kinh em cũng tìm gặp Thuận-Tường. Chỉ Thuận-Tường mới đưa em vào gặp Lý thái phi mà tế tác của bà không biết, không nghi ngờ. - Đúng! Rồi sao nữa? - Nhưng việc gặp Lý thái phi lại cũng là hư. Mà thực là báo cho Lý thái phi yên tâm, không sợ Lưu hậu cắt thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng. Nay mai có anh Thiệu-Thái tới giải tuyệt độc tố này cho bà. - Được! Tiếp đi. - Nhưng việc gặp Lý thái phi trở thành hư. Thực bây giờ chính là việc em lọt vào khu cấm của Lưu hậu. Khi em bị lộ hình tích, bà biết ngay em là người của Định-vương. Em đối với Lưu hậu ba chưởng. Sau ba chưởng đó, Lưu hậu lo sợ vì với một nhóc con như em, mà cũng không sợ độc chưởng của bà. Bà hiểu rằng mưu hại Lý thái phi của bà bị lộ. Bà phải bỏ ý định, bằng không Định-vương cho người tới thanh toán bà. Sau này anh ra lệnh cho em dạy bà cách phản Chu-sa độc chưởng, khi đã có phương pháp này trong tay, bà không sợ Lưu hậu cũng như tay chân Lưu hậu. Bà có thể tự giải quyết việc nội cung. Định vương cứ ngồi khoanh tay mà xem. - Em có biết tại sao Lý phi không nhận em làm con, mà chỉ nhận làm cháu không? - Em không biết. - Việc này ngoài sự suy đoán. Em yên tâm, nếu bà nhận em làm con, sau sẽ bất lợi cho em. Bây giờ tới vấn đề khác. Em với Lê Văn phải ứng tuyển phò mã. Đây là lệnh của bố, anh chỉ chuyển lại mà thôi. Tự-Mai ngồi bật dậy: - Em không thể tuân lệnh. Em có Thuận-Tường rồi. Bố giết thì em chịu, chứ em không bỏ Thuận-Tường đâu. Bây giờ em có tuân lệnh bố mà ứng tuyển thì sau này em cũng không kết hôn với công chúa, mà kết hôn với cung nữ Thuận-Tường.