Giữa mồng hai Tết. Đúng tầm nhà nhà bày cỗ, những chiếc máy bay bà già bay sát ngọn tre. Những chiếc dù bung ra. Một lát, làng Và đã bốc cháy, súng nổ điên loạn. Làng tôi, chúng chưa đến, nhưng chúng tha gì. Nhà tôi chỉ kịp đổ tất cả thức ăn vào cái sanh. Bánh chưng cho vào thúng. Cơm nếp cơm tẻ trút hết vào nồi. Đạn veo véo qua đầu. Tất cả làng chạy lên núi, nấp khe suối. Làng đã bắt đầu cháy. Ai còn ai mất? Nhà tôi cùng chạy với nhà bà Khiếu. Bà Khiếu đã tản cư ở tỉnh về đây, nay lại chạy. Nhà bà Khiếu có chị Trâm, em Đức, em Thơm. Ba người con gái như ba cái hoa đẹp. Nhà tôi rất thân nhà bà Khiếu. Hai nhà bày cỗ ra khe suối, quá trưa, ai cũng sợ, cũng đói mèm. Nhà đã nghèo, bao thức ăn bỏ lại. Miếng ăn đến miệng còn bị giật đi! Giữa lúc ấy thầy tôi bị bắt. Thầy bị bắt lúc nào? Ở đâu? Có người đã nhìn thấy chúng trói thầy, dẫn đi. May ra còn sống, thầy sẽ về. Địch vẫn đóng ở xóm Đông. Trời đen như mực thế mà anh Thả dám mò về nhà. Anh vơ được mấy bộ quần áo rách, mấy bơ gạo rồi thăm dò tin thầy. Bặt vô âm tín. Đêm đêm u khóc rên rỉ. Giữa mùa hè mà sao tôi lạnh. Tây rút rồi, rút về tỉnh rồi. Mọi nhà gồng gánh, bồng bế nhau về. Đêm đen xì. Chó cũng chạy đâu cả. Tiếng đóng hòm, đóng ván nghe khô khốc, lạnh gáy. Những ai chết nhỉ? U tôi ngồi ở chỗ nào cũng khóc: "Bố nó ở đâu?...". Một chiều. Cả nhà ngồi buồn rười rượi giữa sân: Thầy xuất hiện như trong cơn mê. Thầy cởi trần. Hai sườn đầy xương vè, chiếc quần cộc rách tươm. Tay thầy xách nửa con chó thui vàng, béo nhẫy. Cả nhà reo lên. U lấy vạt áo lau nước mắt. Thầy kể như sau: - Nó kéo đi hành quân để gồng gánh hầu nó. Nó muốn giết lúc nào thì giết. Khi đến chợ Chờ, tôi bàn với ông Chè xóm Đông là: Ăn mấy nắm thuốc lào. Đúng thế, vừa ăn xong hai người lăn ra đường nôn thốc nôn tháo. Một thằng cai Tây đá tôi một phát, tôi lăn từ bờ đê xuống ruộng. Nó bắn theo hai phát. Trượt. Tôi nằm im. Nó bắn ông Chè một phát rồi đạp xuống bờ đê. Chúng tiếp tục kéo quân đi càn. Tôi cố bò đến lay ông Chè. Ông Chè đã chết, máu từ ngực đầm đìa. Dọc bờ đê bao nhiêu người chết như thế. Chúng càn đi, chúng quét lại. Trên giời từng đàn khu trục quần, đảo. Dưới ruộng từng đoàn xe lội nước. Xe lội nước bắn tung nước đồng chiêm. Chúng bắn bừa vào người đang làm đồng. Trong các bãi cỏ lác đã có người chết. Nguy rồi! Xe chúng đã càn đến cánh đồng Mỗ, ở đây u và cái Bảng đang cấy. Như một cơn lốc kéo dài suốt sớm đến quá trưa. Xe chúng quay mũi rồi. Chúng rút. Chiều, dân làng đổ ào ra đồng tìm những người chửa về. Khổ rồi! Cả u, cả cái Bảng không về. Thầy dẫn anh Thả, cõng cái Chiếm đi tìm. Giời sẩm tối, ráng màu mỡ gà phủ ngập đồng. Đến cánh đồng Mỗ thấy tiếng gào của cái Bảng. Thôi, u chết rồi. Cái Bảng ôm xác u, máu ra cả áo nó. Cái Chiếm nhoài xuống ôm xác u, khóc không ra hơi. Chiếm mới lên ba. Anh Thả nghiến răng lại không khóc. Thầy giận tím bầm mặt, mắt mở to, ráo hoảnh. U mất vào mùa Đông - tháng mười ta. Anh Thả là du kích. Sau, anh vào chủ lực tỉnh. Cứ đêm, anh vác súng lén về thăm nhà. Anh đội mũ nồi, mặc áo vệ quốc đoàn có cầu vai. Vào một buổi Tây càn, anh xung vào đội quân chống càn. Anh Hữu cùng đi với anh nói rằng anh bất chấp, đánh rất hăng, bao nhiêu trận rồi, thắng. Khi đuổi địch về đến đồn Chi Long - Bắc Ninh, anh bị một viên đạn phục kích của địch bắn trúng bụng. Ruột lòi ra. Người ta cáng anh. Anh đòi uống nước. Anh đòi ăn cơm, ăn bao nhiêu cơm nếp. Ruột xổ ra hàng đống. Không thể cứu được rồi! Anh tắt thở. Anh ra đi vào mùa Đông, tháng mười một ta. Bao cái đau cũ, bây giờ lại bao nhiêu cái đau mới giáng lên đời thầy. Gà sống nuôi con. Tôi ít thấy thầy cười. Nhiều lúc thầy cứ ngắm từ đầu xuống chân tôi. Thầy nhìn tôi chằm chằm.