Chùa đã dỡ và chuyển đi từ đời nảo đời nào, chẳng còn một dấu vết gì. Ấy thế mà cứ bảo “cổng chùa” cả xóm Trại biết. - Ra cổng chùa chơi đi! - Ra cổng chùa gọi nó về ăn cơm! - Chắc lại đứng hóng ở cổng chùa! - ... Ấy là bãi đất bằng, toàn cát. Các ngõ đều qua đây rồi mới ra đồng. Cạnh đó là cái ao. Mùa mưa nước đầy đỏ ngàu màu đất sét. Ễnh ương kêu “ương... ương...” rồi đẻ trứng bầy nhầy trắng xóa, lềnh bềnh. Chú Chàng thường lấy trứng về dán diều, dính như hồ. Ếch kêu “ộp... ộp” như mở hội. Nhưng người ta bảo có nhiều “nam” lắm. Mỗi người chết đuối biến thành một con nam, có rút chân người. Trong bụi dứa dại, rắn để lại xác lột mốc thếch. Cáo bỏ lại lông gà, lông chim bề bộn. Ao như cái gì bí hiểm lắm. Xa một chút, có một cây đa rất cao. Gốc nó đầy những ông bình vôi sứt mẻ cả miệng. Mếu máo. Anh Thư trèo ngọn lên bắt con sáo con ở tổ nó. Anh bị rơi từ ngọn cây xuống ruộng. Hàm dưới bị vỡ ngang, máu chảy ròng ròng. Lạ thật, anh cứ nghiến răng im thin thít... Đi rất xa vẫn thấy "cây đa chùa". Cổng chùa thì không đâu mát bằng, không đâu sạch bằng. Gió nồm hắt từ đồng vào, những chiếc chong chóng lá dứa của chúng tôi quay tít. Chị Bạch, chị Xuyên... má cứ đỏ au ngồi nghỉ mát buổi trưa. Đêm, chúng tôi đào thùng, đặt mâm gỗ, đóng cọc, căng dây làm trống quân. Giăng lọt qua lá tre rắc từng bãi hoa san sát, rắc cả vào mặt những chị con gái cũng sáng như ánh giăng. Bên nam, bên nữ hát đối nhau đến khi giăng đã nghiêng như cái diều bầu sắp đổ mới im tiếng hát và dỡ “trống”. Những đêm ấy, tiếng trống thì thùng vang vào khắp xóm, không ai có thể ngủ được. Tôi bé, mà có lần tôi hát hay đến nỗi người qua đường thưởng tiền cho tôi đấy... Trống quân, trống quýt, trống còi, Ta chẳng lấy nó, nó đòi lấy ta... Ôi, cái cổng chùa. Chùa đã chuyển từ đời nảo đời nào mà xóm tôi vẫn gọi mãi mãi chỗ ấy là cổng chùa. Ngày ngày ra đứng cổng chùa Trông ra Hàn Nội thấy vua đúc tiền. Hàn Nội ra sao nhỉ? Vua ở đâu? Đêm, Hàn Nội có quầng sáng hắt lên giời.Từ cái cổng chùa, từ nơi bắt đầu vào ngõ, tôi đi khắp nơi ở cái nước Nam này.