New Internationalist. Tháng Tư năm 1993. "Trở lại Năm không".Năm không (Year Zero) là buổi rạng đông của thời đại, trong đó, in extremis [1] sẽ không còn có gia đình, không tình cảm, không biểu hiện tình yêu và buồn đau, không thuốc men, không bệnh viện, không trường học, không sách vở, không học, không ngày nghỉ, không âm nhạc, chỉ có lao động và cái chết. Gió hú dữ dội. Tiếng sấm dội lên những âm thanh chậm, trầm, tiếp theo là một tiếng nổ điếc tai. Âm thanh xa dần nơi chân trời, rồi lại bắt đầu ngay. Túp lều sột soạt, các bức vách đan bằng lá đập liên hồi. Cơn mưa dày, nặng hạt đánh điên cuồng xuống mái lều. Gió mùa đã tới. Mùa hè năm 1978 đã trôi đi. Chị Chea ôm sát lấy Map còn tôi thì ôm chị. Đêm nay tôi cám ơn Trời đã cho tôi sự ấm cúng và dịu dàng của gia đình. Khi mưa ngớt và gió dịu lại, tôi ngủ thiếp đi, say như chết. Lát sau tôi giật mình nghe tiếng nói "Dậy, đi làm việc!" cái anh chàng chỉ điểm mặt sần sùi rống lên như bò. Tôi sợ những ngày đó. Tôi phải gặp những đứa trẻ khác ở Sahakar rồi ngày làm việc bắt đầu. Ra khỏi lều, tôi thấy bầu trời vẫn còn tối. Cơn mưa đêm làm không khí mát hẳn. Cơn gió lạnh làm tôi run lên. Ước chi mình có thể vào ngủ lại, ôm sát nhau, cùng chia hơi ấm. Chị Chea chửi rủa lầm bầm trong hơi thở. Đại để như quỷ tha ma bắt Angka đi. Tôi cũng muốn chửi nhưng lúc này tôi quá mệt không nổi giận với Angka được nữa. Bầu trời đầy mây. Dọc theo con đê bò quanh co giữa cánh đồng ngập nước, tôi bước đi sau một hàng dài trẻ em và người lớn, tiến hành cứu mạ non. Vào lúc này trong năm, ruộng lúa dọc con đê thường xanh ngắt với những cây mạ nhô lên nhưng bây giờ thì chúng bị ngập trong nước, với tầm mắt nhìn thấy được. Dường như một cái hồ nước khổng lồ vừa mới được tạo ra trong đêm. Chỉ có đầu mạ lú lên khỏi mặt nước, thế mà trông còn có vẻ có những trận mưa lớn trong những ngày sắp tới nữa. Ngày kế tiếp là một ngày khổ sở khác. Đất ướt, trời mờ tối, u ám, cơn mưa phùn biến thành trận mưa như trút nước. Hàng trẻ con phía trước tôi dừng bước rồi lùi lại. Hàng người phía trước lại chuyển động, mọi người vây quanh một người ngồi sụp trên đê, đầu gục vào cánh tay đang ôm quanh đầu gối. Tôi nhìn kỹ thân thể đang run lên của người phụ nữ đó, chiếc khăn vải bạc màu đang phủ lên người. Tiếng khóc của người đó nghe quen thuộc. "Chị Chea đó hả? Chị Chea!" Đầu chị ngẩng lên, đôi mắt ướt đẫm. Tôi lay cái lưng đẫm nước mưa của chị. Chị vẫn khóc, run rẩy. Tôi thét lên, cố để cho nỗi đau vì bất lực, vì cô đơn và nhọc nhằn trong người tôi thoát ra ngoài. Nỗi thống khổ lớn đến độ tôi không mang nổi và cũng không che giấu nổi. "Athy, chị bị bệnh mà họ cứ kéo chị ra khỏi lều. Chị đau quá, chị lạnh. Chị không thể làm việc được. P'yoon srey bang…em của chị". Ôi chị Chea! Xin trời làm phúc…Nhìn lên bầu trời đầy mây, tôi như bị ngập trong nỗi đau của chị và của chính tôi. Tôi muốn làm dịu đi nỗi đau của chị nhưng cay đắng nhận ra rằng tôi bất lực. Họ là ai mà kéo chị tôi đi như thế này? Thật thô bạo quá! Câu hỏi đó làm bùng lên sự giận dữ đã nung nấu trong lòng tôi bấy lâu nay. Tôi chỉ còn biết nhắm mắt lại, muốn gào lên biết mấy! "Athy, Athy, em đi đi, p'yoon srey, bọn chhlop đang đến đấy" chi Chea nói nhỏ. Tôi đưa mắt nhìn chị rồi đứng lên lảng ra…Chỉ đi vài bước thì chị đã khuất sau hàng người và làn mưa. Rồi sau đó mưa cũng ngừng. Nước trong đồng ruộng cũng rút đi. Chị Chea hồi phục lại sức khoẻ sau hai tuần nghỉ ngơi. Cơn sốt chấm dứt, chị trở lại là mình với hình dáng trước đây, cởi mở, thân thiện như hồi còn ở Phnom Penh. Một hôm, một người phụ nữ hàng xóm qua lều chúng tôi. Mặt chị Chea sáng lên. Chắc chị rất vui khi gặp người này. "Chào dì, dì khoẻ chứ ạ?" Chị Chea chào bà nồng nhiệt bằng tiếng Anh như thể từ lâu chị đã muốn nói thứ tiếng này. Tôi ngạc nhiên tuy vậy sung sướng nghe chị nói tiếng Anh. Người đàn bà lùi lại, luống cuống. Chị Chea nhăn răng ra cười "Comment ca va, Madame? Très bien, oui?" "Cháu nói như vậy dì không hiểu được" người phụ nữ nhẹ nhàng phàn nàn, lông mày hơi cau lại "Dì mang cho cháu ít gạo này" người đàn bà mở nút buộc khăn, trút vài cân gạo ra. "Merci beaucoup, Madame" chị Chea cúi mình, vẻ vui thích. Người đàn bà ngượng ngập, cứ đưa mắt nhìn chị Chea. Chị bèn giải thích, dịch lại những điều chị vừa nói rồi hỏi bà đang làm gì ở Cambodia. "Làm gì thì bây giờ cũng vậy thôi" người đàn bà nói nhỏ một cách buồn thảm "Đời sống cứ như địa ngục," bà thì thào. "Ngày nay cháu không thể tin ai được, cháu Chea ạ, kể cả con cái của mình. Con dì cũng vậy, bây giờ chúng là con của Angka rồi. Chúng quay lại chống dì, chúng không nghe lời dì, chỉ nghe Angka nói thôi. Cháu phải cẩn thận đấy. Cháu đừng nói các thứ tiếng ấy nữa". Tôi cười, quan sát hai người. Tôi hãnh diện vì chị Chea, tự hào thấy chị chào hỏi bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Tôi vui vì thấy vẻ bối rối của người đàn bà này khi thoạt đầu bà nghe chị Chea nói tiếng Anh. Bà là một phụ nữ nhỏ thó, một trong những "dân mới" thân thiện và hơi nhút nhát. Sáng hôm sau, người chỉ điểm thường đánh thức chúng tôi dậy để đi làm mỗi buổi sáng đột ngột xuất hiện trước cửa lều chúng tôi. Cái nhìn hung hãn, soi mói của anh ta đầy vẻ đe doạ. "Angka cần tìm sách", anh ta tuyên bố rồi tự động bước vào trong lều của chúng tôi. Tôi bối rối, không tin vào mắt mình nữa. Chị Chea vẫy tay ra hiệu cho tôi và Map ra khỏi lều trong khi tên chỉ điểm lục lọi kỹ lưỡng áo quần, chăn màn của chúng tôi. Anh ta nhảy ra lên phần trống nơi chúng tôi để đồ nấu ăn. Chúng tôi nghe tiếng soong nồi chạm vào nhau loảng xoảng, rồi anh ta bắt đầu đào bới. Chị Chea đưa mắt nhìn tôi, tôi cũng đưa mắt nhìn lại chị. Map thì nhìn chúng tôi dò hỏi. Người chỉ điểm ra về. Vết chân bẩn của anh ta còn in dấu trên sàn. Đôi mắt anh ta nhìn chúng tôi một cách dữ tợn khi anh ta mang đi một gói đồ lớn, quá khứ che giấu bấy lâu nay của chúng tôi. Những đồ đạc cá nhân của chị Chea gói trong một tấm giấy nhựa màu lam bẩn. Trong đó có một chiếc cặp da và một chiếc xắc tay. Đó là quà của Pa và Mak thưởng cho chị vì chị học giỏi. Chiếc cặp da chứa những ghi chép các năm học của chị. Cuốn tập môn toán, hai cuốn tỉêu thuyết Cambodia, Pka srapone (Đóa hoa tàn) và Sanaeha (Một mối tình) do bạn chị ở cùng trường viết. Nhét chắc trong các rãnh đối diện với những cuốn sách là bút máy, bút chì màu sặc sỡ, quà của bạn bè chị tặng. Ngoài ra là một cuốn an bum gồm các tấm ảnh chụp chị với bạn bè. Bên cạnh các tấm ảnh là những lời lưu niệm thân tình gởi cho chị, quanh dòng chữ có trang hoàng hình vẽ hoa hồng, hoa dâm bụt, thường xuân…Trong túi xách là tài liệu gồm giấy tờ khai sinh của chúng tôi và giấy tờ nhà của chúng tôi ở Phnom Penh và Takeo, dấu dưới lớp áo sa tanh nhiều màu của chị Chea. Thế là trong tay người chỉ điểm này là bằng chứng hiển nhiên về cuộc sống trước đây của chúng tôi. Làm thế nào mà hắn biết được rằng chúng tôi có sách? Chị Chea tự hỏi như vậy và bản thân tôi cũng không hiểu nổi sự xuất hiện đột ngột của hắn. có thể hắn đã nghe trộm chúng tôi lúc chị Chea chào hỏi người hàng xóm hôm qua, lúc đó chắc hắn núp trong lều hay trong bụi cây phía trước. Với các tài liệu giấy tờ cũng như sách của chị trong tay Angka, số phận chúng tôi coi như tiêu rồi. Nhưng chị Chea chỉ giữ suy nghĩ đó cho riêng mình. Chị im lặng, ra vẻ lơ đãng, như thể nói cái gì cũng làm cho hoàn cảnh của chúng tôi khốn khó thêm. Tôi phải chuẩn bị tinh thần để đón nhận những hậu quả sắp đến. Ngày hôm sau lúc đi làm việc, lòng tôi luôn luôn lo lắng mình sẽ mất chị Chea. Tôi cứ tưởng tượng ra cảnh bọn chhlop mang chị đi cải tạo vì tội đã giữ sách, bằng chứng của học vấn. Map thì ở nhà một minh, khóc mãi. Tôi thấy rõ trong trí cảnh nó khóc, ngồi đợi tôi về. Mặt nó sầu thảm, tuyệt vọng y như lúc người ta kéo nó ra khỏi tay Mak để đưa bà đến bệnh viện Choup. Từ nơi làm việc trở về, tôi chuẩn bị đón nhận tin xấu nhất. Khi về đến lều, tôi thấy một người gầy gò, đầu trọc lóc đang ngồi xổm trước lều, lưng quay lại phía tôi. Chị Chea? Ô, không! Nước mắt tôi ứa ra. Chị đã tự cạo trọc đầu, trông không giống chính chị chút nào, người chị đã từng rất xinh đẹp của tôi! Sọ chị vàng bủng, đầy xương, cổ chị gầy ngẳng, đen xì. Nhìn từ phía sau, trông chị giống một người già, rất già. Tôi cũng không thể bảo chị là đàn bà hay là đàn ông nữa. Chị quay lại, ánh mắt chị gặp mắt tôi. Trông chị cương quyết. Chị dứng dậy, tiến lại gần tôi. Bình tĩnh chị nói "Athy, nếu trông chị xấu xí và điên khùng như thế này thì bọn Khmer Đỏ có thể sẽ không làm hại chị". Chúng tôi vào lục lọi lại mấy tấm ảnh gia đình mà tôi giấu trên mái lều. Để xoá mối quan hệ của Pa với chế độ trước, tôi bèn cắt đi phần thân của ông nơi tấm ảnh cỡ bằng chiếc ví, trong đó ông mặc bộ đồng phục quân cảnh, chỉ giữ lại hình ông từ cổ trở lên. Chị Chea bảo nếu chúng tôi bị thẩm vấn, cứ nói là Pa không bao giờ làm việc cho chính quyền trước, công việc của ông thuộc về lãnh vực y tế. Ông thích giúp đỡ mọi người. Tối hôm sau trời mát. Vì còn chút ánh sáng nên tôi và chị Chea ra nhổ cỏ trước sân lều, nơi chúng tôi trồng bắp mùa rồi. Chúng tôi có hai dụng cụ, một con dao và một cái xẻng nhỏ cũ kỹ. Đột nhiên một giọng nghiêm khắc sau lưng chúng tôi gọi lớn "Đồng chí!" Chúng tôi quay lại, đó là Srouch, đó là người đứng đầu bọn chỉ điểm. Chị Chea đứng lên, lại gần anh ta. "Angka tìm thấy sách trong nhà đồng chí, đồng chí học đến cấp nào?" Anh ta hỏi. Chị Chea bước tới đối diện với anh ta, tay cầm con dao. Chị nói một cách hờ hững "Tôi tìm thấy mấy cuốn sách này trên đường đi khi rút khỏi Phnom Penh. Tôi không học nhiều do chiến tranh. Nhưng tôi có biết đọc chút ít. Tại sao đồng chí lại hỏi vậy? Đồng chí có muốn mấy cuốn sách đó không? Cứ giữ lấy, tôi chỉ muốn giữ lại để giải trí khi quá mệt nhọc thôi mà". Chị buông con dao xuống đất như thể vì chị nắm không vững. Chị chầm chậm tiến về phía Srouch, tay cào khắp người chị, mặt mũi, ngực cổ, cả cái đầu trọc – khiến Srouch sợ hãi lùi về phía sau. "Đủ rồi" anh ta nói, lông mày nhăn tít "Tôi chỉ muốn biết đồng chí có học vấn cao và có từng giữ một chức vụ gì trước đây thôi mà". ° Vài tuần sau, cũng vào buổi tối, tôi đang nhổ cỏ ở đàng trước còn chị Chea thì tưới nước phía sau lều. Tôi nghe tiếng mấy đứa con gái chuyện trò, cười đùa đang tiến lại trên lối đi phía sau lều. Trông chúng thật vô tư lự. Lạ, tôi nghĩ. Thông thường các "dân mới" không dám biểu lộ niềm sung sướng như vậy. Khi chúng từ sau rừng bước đến, trông thấy rõ mặt chúng, tôi mới hiểu tại sao chúng không có vẻ sầu khổ, chúng là "dân cũ". Chúng có đời sống tốt hơn chúng tôi cho nên có lý do để mà vui vẻ, tỏ ra hạnh phúc. Khi chúng đến gần lều, chị Chea nhìn chúng, tay cầm cái xô tưới nước. "Các đồng chí đi làm trong rừng về đấy à?" giọng chị dịu dàng hỏi. Đó là cách chị chào đón mọi người. Đám con gái ngừng nói chuyện, một đứa trong bọn, có lẽ khoảng 13, nhìn kỹ chị Chea. Mắt nó nheo lại, khinh bỉ, rồi nó la lớn "Ê, ông già điên", rồi nó cầm dao huơ về phía chị nhiều lần. Mấy đứa khác bèn tham gia. Tất cả cùng reo lên "Ê ông già điên. Đồ điên điên!" Chúng cùng nhau huơ dao về phía chị Chea, chúng hò la, chế giễu chị nhiều lần. Tôi đăm đăm nhìn theo chúng cho đến khi chúng bỏ đi, khuất sau hàng cây. Chị Chea đứng chôn chân xuống đất. Mặt chị tràn đầy vẻ tủi nhục. Chị bị tổn thương rất nặng. Chầm chậm, chị để xô nước xuống đất, rồi đi vào lều. Khi đi ngang qua tôi, chị rủa "Đồ con nít mất dạy!" Đêm sau chị nằm cạnh tôi, chỉ còn hai chúng tôi vì Map đi theo chị Ry đến bệnh viện Preahnethe Preah rồi. Chị co người lại, nằm gần tôi và thì thào vào tai tôi "Đêm hôm qua bang có làm một bài thơ, trong trí thôi. Nghe đây". "Tôi thương xót cho chính mình. Dù là một người con gái, tôi vẫn bị gọi là ông già trong xã hội trước, chắc là tôi sẽ rất giận dữ. Nhưng giờ đây thì đó là điều bình thường đối với người phụ nữ. Tôi thương xót tôi là một người phụ nữ. Chỉ mới hai mươ ba [2], nhưng tôi đã trông như sáu mươi Răng tôi vẫn còn nguyên, tóc tôi đen bóng, thế mà họ tưởng tôi đã sáu mươi vì tôi cạo đầu trọc lóc Tôi thương xót tôi vô cùng, sống không cha không mẹ Không còn hy vọng chăm sóc họ, không còn hy vọng sống gần cha mẹ dấu yêu nữa [3] Chị Chea ốm vì lên cơn sốt. Người chị nóng hổi, nhiệt độ không hạ xuống mặc dù đã đắp vải nhúng nước lên trán và lên bụng. Chị Ra trở về từ trại lao động đúng lúc để giúp đỡ tôi. Chị Ry và Map cũng đã từ bệnh viện Preahnethe Preah trở về. Anh Than thì vẫn ở xa, tại một trại lao động nào đó. Sự có mặt của hai chị Ra và Ry an ủi tôi đôi chút. Bây giờ tôi không đến nỗi quá sợ khi nghe tiếng chị Chea ú ớ mê sảng trong giấc ngủ, những tiếng đó thường đánh thức tôi dậy vào giữa đêm. Chị Chea nằm trên sàn, hơi thở chị cạn. Sau khi cơn sốt dừng, chị thấy đói. Nhưng tất cả những gì chúng tôi có là cháo gạo nấu với khoai. Nhưng mùi của thứ này làm chị thấy buồn nôn. Người chị càng gầy đi nhanh chóng. Bằng một giọng nói nhỏ, khao khát, chị nói chị muốn có thức ăn thật sự. Cơm với thịt bò tẩm xốt, cháo thịt heo, cam…hoặc ít nhất là sữa ấm, ngọt để làm mất đi cái vị đắng chát trong miệng chị. Tôi ước ao mình có thể trở lại thời gian trước đó để mang chị các loại thức ăn mà hồi trước Mak đã mua cho chúng tôi khi một trong chúng tôi bị đau ốm. Chị Ra và tôi chuồn ra đi đánh cá ở bờ sông phía tây, nằm bên một trảng cỏ, cách Daakpo chừng hai dặm. Chị Ra mang theo lưới mùng, còn tôi là một cái chảo sắt. Trong bầu trời đêm, sao lấp lánh. Một mảnh trăng chiếu sáng đường đi. Dế kêu rỉ rả như điệu hát buồn của cuộc sống chúng tôi. Chúng tôi bước nhanh theo con đường đất ngoằn ngoèo dọc các căn lều của dân mới. Mặt đất lạnh ẩm làm nhẹ tiếng chân của chúng tôi trong đêm. Khi chúng tôi đến sông, bóng trăng phản chiếu trong mặt nước. Đã một thời gian dài từ lần cuối cùng khi tôi đến đây. Đó là lúc tôi phải dắt bò đi qua sông đến ruộng lúa cùng với mấy đứa trẻ trong đoàn. Lúc đó, em Avy còn sống, và Mak cũng vậy. Chị Ra đề nghị chúng tôi đánh cá dưới những cành cây toả ra ở phía bên kia của bờ sông. Những cành cây ấy sẽ che chúng tôi khỏi cặp mắt của bọn chỉ đỉêm, chị nghĩ vậy. Tôi đồng ý, nhưng lại sợ băng qua cây cầu tạm đã hư nát dựng lên trên các cây cột tháp cũ còn nhô lên trên mặt nước. Tôi còn nhớ, trên đỉnh những chiếc cột này, người ta lát những phiến gỗ vuông. Như thường lệ, chị Ra giục tôi đi nhanh, như chị làm thế khi chúng tôi lén trốn đi xin Pok thức ăn tại khu 3. Tôi đành phải bò qua cầu sau lưng chị. Tôi không lo âu về bọn chỉ điểm, chỉ lo bị rơi xuống dòng nước đen sì. Tay chân chúng tôi thay cho mắt. Qua cầu xong, chúng tôi kiếm đường đi xuống dòng sông. Nước lạnh. Chúng tôi đánh cá dọc bờ sông, cạnh các cành cây toả ra. Vì nước ở bờ sông cạn hơn, chị Ra cầm một đầu lưới đứng ra phía giữa sông, còn tôi thì đứng phía gần bờ sông. Thế mà nước cũng lên tới ngực tôi. Chầm chậm, chúng tôi lội tới, với hai tay cầm lưới dang rộng. Cái chảo thì nổi trước lưới, đánh dấu bởi đầu chóp nhô lên của nó. Kế hoạch của chúng tôi là buông lưới ở chỗ sông dưới bóng im của các cành cây. Cá thường tụ tập ở đó suốt ngày khi trời nóng. Thở nhẹ, chị Ra bảo tôi đưa cho chị cái chảo. Sau khi đẩy cái chảo qua cho chị Ra, tôi vói tay sờ vào cái vật đen đen giữa lưới để xem chúng tôi bắt được cái gì. “Ồ, tôm, vô số tôm!” Chị Ra mừng rỡ kêu lên. Ý tưởng về con tôm làm tâm hồn tôi bay bổng. Tôi không thể đợi cho đến khi đánh cá xong được nữa. Đói quá, chị Ra và tôi ăn ngay một vài con. Tôi chụp lấy ít con trong chảo và đưa luôn vào trong miệng. Chúng vùng vẫy, đuôi chích vào lưỡi tôi. Một số con chỉ bằng ngón tay tôi. Số khác lớn hơn một chút. Rồi chúng tôi vội vã trở về lều. Khi chị Ra và tôi bước xuyên qua làng, đêm hoàn toàn im vắng. Như thể chúng tôi là hai linh hồn duy nhất đang lang thang trong đêm. Đến lều, chúng tôi càng cố gắng yên lặng hơn. Khi chúng tôi sắp để chảo và lưới xuống khoảng trống trước lều, thì nghe tiếng chị Chea thều thào trách móc “Chị lo chết được. Tụi em sao đi lâu quá vậy? Chị ngủ không được. Chị cứ nghĩ bọn chhlop đã giết tụi em, thế là hai đứa em gái của chị đã chết vì chị”. Chị nói nhanh, giọng mạnh hơn một chút. “Nhưng chị Chea này, có vô số tôm đấy” chị Ra nói nhỏ, phấn khích “chẳng biết được khi nào thì tụi em mới đi đánh cá lại, thế nên em nghĩ mình phải bắt cho được một số kha khá kẻo uổng công. Này, xem tôm này, gần đầy chảo đấy!” chị đưa cái chảo về phía chị Chea. “Tôm nhiều quá hả? Thế mà Athy và em đã ăn nãy giờ rồi đấy. Ngọt lắm” “Ồ, tôm còn sống đấy” chị Chea kêu lên. Chị Ry cũng phụ hoạ theo. Họ ríu rít bốc tôm bỏ vào miệng. Trong cái đói và trong bí mật, chúng tôi lặng lẽ ăn trong bóng tối. Map cũng thức dậy tham gia. Chúng tôi cùng nhau ăn tôm sống, thò tay vào chảo bốc mãi, giống hệt như bốc đậu rang ăn trong rạp chiếu bóng ngày xưa. Trong tâm trí, tôi hình dung Mak hài lòng, vẻ mặt vui tươi của bà khi đặt con tôm vào miệng. Tôi ước chi mẹ có mặt lúc này với chúng tôi. ° Nhưng niềm vui được cùng sống với gia đình của tôi không kéo dài được lâu. Sau hai lần nữa đi ra sông để bắt tôm, Angka lại gọi tôi đưa tôi vào đoàn thiếu nhi đóng ở một ngôi làng xa Daakpo. Tôi ở trong một căn nhà gỗ, chỉ có một phòng trống trơn dựng trên cộg với một bậc thang dốc đứng, cùng với năm mươi đứa trẻ khác. Công việc của chúng tôi là phát các bụi rậm trong rừng để chuẩn bị trồng khoai và ngọc giá. Mặc dù rằng khổ lại bị cách ly khỏi gia đình, tôi cố tìm một điều tích cực trong sự thay đổi này. Tôi hơi dễ chịu khi biết rằng Thore Meta, người phụ nữ khoan dung và hỉêu biết thời tôi còn làm việc đuổi chim ăn lúa, bây giờ là người lãnh đạo đoàn của chúng tôi. Đã hai tuần rồi kể từ lần cuối cùng tôi thấy chị Chea. Phải làm việc từ rạng sáng cho đến khi tối mịt, tôi kiệt sức, không còn sức lực để nghĩ đến chị nữa. Nhưng khi nghĩ đến thì tôi thấy nhớ chị vô cùng. Biết chị bệnh khi tôi rời nhà đến đây, tôi sợ, rất sợ rằng tôi sẽ mất chị như tôi đã mất Pa, Mak, Avy và Vin. Mặc dù có ăn tôm, cơn sốt của chị vẫn tăng thêm. Nhiệt độ cơ thể của chị vẫn tiếp tục tăng lên, chị càng ngày càng mê sảng. Mỗi ngày sự sống của chị trôi đi dần. Chị cần phải được chăm sóc thuốc men thích hợp chứ không phải chỉ thực phẩm không mà thôi. Tôi không biết làm cách nào cứu được chị. Tôi nghĩ về Pa và chiếc bàn đựng thuốc của ông, nghĩ về các phép thuật có thể chữa lành bệnh cho chị. Tôi muốn mang chị lại thời trước để Pa có thể chữa cho chị. Tối hôm nay, có một điều gì đó cứ day dứt tôi mãi. Nằm trên sàn nhà, tôi hoàn toàn thức khi tiếng nói trong tôi thúc giục tôi phải đi thăm chị Chea. Nỗi thôi thúc ấy càng lúc càng mạnh khiến tôi bật khóc. Có cái gì bên trong đang gặm nhấm tôi. Tôi khóc thét lên. “Đồng chí nào đang khóc đó?” giọng của Thore Meta hỏi, chân bà bước lên bậc thang. Tôi nhỏm dậy và ngồi nơi góc nhà, nhìn cái bóng của Thore Meta. “Tại sao lại khóc hở đồng chí Thy?” Bà hỏi, giọng nghiêm khắc. “Chị cả của cháu bệnh nặng. Cháu muốn đi thăm chị. Cháu muốn thấy chị trước khi chị chết” tôi kiệt sức. “Đi đi. Đi thăm chị của đồng chí đi rồi trở về ngay. Nếu có ai hỏi, bảo họ rằng tôi cho phép đồng chí đi” nói xong, bóng của Thore Meta liền biến mất trong đêm tối. Khi tôi về đến lều, thấy còn một ngọn lửa trong hố bếp. Tuy nhiên không có nấu gì, chỉ thấy ngọn lửa không liếm láp bóng tối. Khi đến trước cửa lều, tôi đã chuẩn bị trước cho mình. “Đững để bang có tội…” việc tôi vào đột ngột làm tiếng yếu ớt của chị Chea dừng lại. “Chị Chea, Athy về đây này!” Chị Ry báo. Chị quay đầu lại, cả chị Ra và Map cũng vậy. Mọi người nhích ra, nhường chỗ cho tôi thấy chị Chea. Một thân hình ốm, co quắp nằm trên tấm ván sàn. Hơi thở của chị rất cạn. Tôi đến gần hơn để ngắm chị, đôi mắt chị sâu hoắm, trũng xuống làm tôi giật mình. “Athy ơi” Chị Chea thều thào “nếu bang có làm điều gì không phải làm tổn thương đến em, em hãy tha thứ cho bang, p’yoon srey. Chị xin lỗi. Đừng để cho bang có tội…” Chị nghẹn thở, người co giật. “Không, chị Chea ơi, chị, chị không làm điều gì sai cả. Chị không bao giờ làm sai…” tôi sụt sịt, cố gắng hết sức để đè nén nước mắt và cơn đau trong lồng ngực. “P’yoon, tất cả các em, hãy tha thứ cho chị vì những điều chị làm sai. Hãy đừhg để bang tội lỗi…” mắt chị nhắm lại. “Chị không có lỗi gì cả, chị Chea ạ” Chị Ra nói, giọng dịu dàng. Chị Ry thì sụt sịt, đưa tay nắm tay chị Chea “Chị không làm điều gì sai cả”. “Khi chị chết, hãy chôn chị dưới cái cây trước lều mình. Chị muốn chăm sóc tất cả các em, Mak, Pa yurk (mẹ và ba chúng ta) chết đi, không còn ai săn sóc các em. Chị muốn trông nom các em. Ra, em đừng quên nhé, p’yoon”. Ngày hôm sau ở trong rừng, tôi không nghĩ gì về chị Chea. Về thân thể teo tóp của chị. Về việc chị nài xin tha thứ. Tôi cứ nhìn vào trong khoảng không, tay thì cứ phát cỏ và bụi cây. Tôi cũng quên bẵng mất mấy đứa trẻ làm việc bên cạnh tôi. “Các đồng chí, đến giờ ăn trưa rồi” tiếng một người đàn ông. Đó là tiếng lè nhè của bọn con trai của người trưởng đoàn. Bọn trẻ bên đoàn tôi vội vã đi vượt qua tôi để đến lãnh phần ăn. Nhưng ngày hôm nay thì cả việc lấy thức ăn cũng là một công việc chán ngắt đôi với tôi. Tôi ngồi dưới bóng râm, tay đung đưa bát cháo lá đen sì. Tôi nghe tiếng một cậu con trai nói “Không biết đồng chí kia có bao giờ cười khi nhận khoai hoặc cơm không nhỉ?” Tiếng một người phụ nữ nói “Tôi chưa bao giờ thấy nó cười. Mặt nó lúc nào cũng buồn, chân mày nhăn tít lại.” Đột nhiên những tiếng nói sống động của chị Chea lại hiện ra trong trí tôi, che mờ đi những gì đang xảy ra trước mắt. Chị nói “Đến thăm chị lại nhé, Athy. Ngày mai nhé, nhớ đừng quên.” Không, tôi không quên. Tôi nói thầm với mình, như thể muốn cho chị cùng nghe. Khi đoàn lao động của tôi trở về nhà tập thể, Thore Meta cho phép tôi đi thăm chị Chea, dường như bà biết trước tôi sẽ xin phép điều đó. Bà nói “Đi đi, rồi trở về nhé”, giọng đầy vẻ quan tâm. Tôi vọt xuống bậc thang trước nhà tập thể. Gió ấm và ẩm. Buổi chiều biến thành chạng vạng rất nhanh. Khi tôi về đến lều nhà, ngọn lửa dưới nhà vẫn đang cháy, nhưng lần này mờ hơn. Khi lửa gần tắt, tôi nhìn thấy chị Ra, chị Ry và Map nằm gần Chea. Tất cả yên lặng. Tôi không nghe tiếng chị Chea như đêm hôm qua. Tôi cảm thấy mình trở về quá muộn. Tôi đang đứng đây, muốn nghe chị nói, muốn nghe rõ chỗ mà chị nói nửa chừng hôm qua. “Chị Chea ơi, Athy về đây”, tôi thì thào “Em về thăm chị đây, chị Chea. Bà trưởng đoàn cho phép em về”. Không có tiếng trả lời. Chị Ra và chị Ry quay nhìn tôi, cả hai cùng khóc. Tiếng khóc của Map phụ hoạ theo. Chị Ry nói chị Chea đã ngừng nói sáng nay. Thế nhưng chị đã yêu cầu tôi về thăm chị kia mà. Hẳn chị còn muốn nói thêm điều gì với tôi. Chị không thể ngừng nói bây giờ. Không thể được. Tôi khóc, hụt hơi. Đột nhiên tay chị Chea với ra phía tôi. Tôi lùi lại, không kiềm chế nổi, thét lên. Tay chị buông xuống sàn. Cổ họng chị nghẹn lại. Mí mắt chị hơi rung động rồi nhắm lại. Cảnh tượng quá sức chịu đựng của tôi. Tôi rời lều, chạy trở về nhà tập thể. Suốt đêm hôm đó tôi nằm khóc. Dầu nỗi đau đớn đó là của riêng tôi, nỗi buồn của tôi được cả những đứa trẻ ở công xã chia xẻ. Chúng khóc nho nhỏ. Tiếng sụt sịt của chúng vang lên khắp gian phòng. Ngày hôm sau, khi làm việc xong, khi tôi đang phơi quần đã giặt xong lên vách trong căn nhà tập thể, thân thể tôi cảm nhận một cái gì đó rất kỳ lạ. Một cảm xúc đột ngột dâng tràn khắp người tôi, tôi choáng váng rồi nước mắt cứ ứa ra. Chị Chea! Tôi hét lên, gọi thầm tên chị. Chị Chea đã chết! Ôi trời, xin hãy phù hộ cho chị với. Tôi nghe tiếng bước chân lên thanh. Tôi chùi nước mắt và đứng trước mặt tôi là bọn trẻ trong phòng. Nét mặt chúng là tấm gương phản chiếu nỗi buồn của tôi. Rồi Thore Meta nhô lên. Tôi đến trước bà và nói “Cháu muốn…”, tôi nghẹn lời trước khi có thể nói tên chị Chea. “Đồng chí Thy, chị đồng chí có đến đây và báo cho tôi biết người chị cả của đồng chí đã chết”. ° Ngày bắt đầu. Ánh sáng của buổi rạng đông chiêu xuyên qua kẽ ván trong nhà. Tôi vừa mới ngủ được một chốc, nhưng đã bị đánh thức dậy bởi tiếng gọi của bà Thore Meta – đến giờ làm việc. Trước khi tôi kịp nghĩ gì thì mọi người đã nhỏm dậy và vội vã ra khỏi nhà, biến mất từng người một. Sau xuất ăn trưa, bà Thore Meta bảo tôi về nhà. Khi bà nói, tôi cảm thấy mắt của mấy đứa trẻ kia đều nhìn tôi. Quá mệt, không trả lời bà trưởng đoàn nổi, tôi lặng lẽ rời trại. Khi tôi đến nhà, Kong Houng, ông nội tôi, và một người đàn ông khác đang leo xuống lều, hai tay giữ chắc một vật gì đó dài, quấn vải chặt, đó là chị Chea. Các chị Ra, chị Ry và Map thoe sau, mắt đỏ ngầu, sưng vù. Vì phải mang chị Chea xuống khỏi lều, Kong Houng và người đàn ông kia cần giữ chị cho chắc nên họ buộc chị vào chiếc đòn gánh. Thảm biết mấy, tôi nghĩ, phải mang chị đi như vậy. Không kiểm soát nổi mình nữa, tôi oà khóc. Khi Kong Houng và người đàn ông đào mộ chị ở gần hàng cây cọ, tôi đưa mắt nhìn xác chị. Trong trí, tôi nói thầm những lời tôi muốn nói với chị “Chị Chea ơi, nếu em sống sót, em sẽ học ngành y. Em muốn giúp đỡ người khác vì em đã không thể giúp chị. Còn nếu em chết trong kiếp này, em sẽ học ngành y ở kiếp sau”. “ Khi đêm xuống, chị Ra nhắc tôi trở lại nhà tâp thể. Trong một lúc, tôi không hiểu chị đang nói gì. Tôi nhìn chị, nhíu mày lại. Chỉ khi chị lập lại từ “nhà tập thể” tôi mới nhớ Thore Meta đã cho phép tôi ở lại với gia đình đêm nay và ngày mai. Nằm trên sàn, tôi nhớ lại lời chị Chea yêu cầu hôm trước. Tôi nhìn chị Ra và hỏi “Tại sao chị không chôn chị Chea dưới cái cây trước nhà?” “Chị không muốn chôn chị ấy ở đó, chị sợ lắm” chị Ra trả lời bực bội. Tôi không thể tin chị Ra lại từ chối cái ý nguyện cuối cùng của chị Chea, tôi bèn nhắc cho chị chính xác từng lời của chị Chea, lời chị Chea van nài chị đừng quên. Chị Ry bèn nhào vào cứu chị Ra, nhắc tôi rằng chị Ra vốn rất sợ ma. Qủa vậy, tôi vốn biết điều đó nhưng chị Chea là chị của chúng tôi mà. Chị sẽ không làm chúng tôi sợ đâu. Chị chỉ muốn ở gần để chăm sóc chúng tôi mà thôi. Tôi cãi lý, nhưng tôi chỉ làm cho chị Ra càng sợ thêm. Chị Ra ngắt lời tôi “Chị không muốn nói chuyện này nữa. Chị muốn ngủ. Chị chưa chợp mắt kể từ khi chị ấy chết”. “ Tôi thức giấc đột ngột, nhưng rất tỉnh táo. Trời đã tối trước khi tôi thiếp đi, nhưng bây giờ trời sáng và tôi đang ở giữa những đám mây. Nhẹ nhàng, người tôi bay bổng lên xuyên qua các lớp mây, hết lớp này đến lớp khác, đến nơi có lớp mây bằng phẳng như nền nhà toàn mây. Lạ thật, tôi nghĩ, nhưng nó giống như sàn của một ngôi nhà, một ngôi nhà đặc biệt đứng đầy đàn ông và đàn bà mặc toàn đồ trắng. Lần lượt, mỗi người dang rộng tay đón chào một người khác. Rồi một chiếc thảm màu trắng trải ra trên sàn nhà. Mấy người đàn ông và đàn bà mỉm cười. Tôi nhìn lên một lớp mấy nữa, chợt thấy một phụ nữ đang bước xuống, chị Chea! Lưng chị quay về phía tôi. Những người kia đang đứng xung quanh tôi, rồi bỗng dưng nhỏ lại khuất dần sau đám mây. “Chị Chea! Đợi em với, chị Chea!” “Athy, Athy ơi. Dậy đi em! Em vừa có một giấc mơ dữ đấy” chị Ry nói, vỗ về tôi. Chú thích[1] Tiếng La tinh có nghĩa là vào lúc lâm chung [2] Tuổi này căn cứ trên cung Hoàng đạo, làm cho tuổi của chị lớn hơn tuổi thật. Theo lịch thông thường thì chị chưa đến hai mươi tuổi [3] Bài thơ này rất có vần điệu, tiếc là khi dịch sang tiếng Anh, tôi không chuyển được nhịp điệu của nó