The Economist Ngày 16 tháng Tư năm 1996 “Số người chết thật sự” Có một ghi chú viết tay ghi nguệch ngoạc ở cuối một tài liệu ký tên hai người của Pol Pot ở Toul Sleng, trước kia là trường trung học ở Phnom Penh sau trở nên nhà tù nổi tiếng nhất của Khmer Đỏ. Ghi chú viết “Ngày hôm nay cũng đã giết 168 trẻ em trong tổng số 178 kẻ thù bị huỷ diệt” Đó là năm 1976. Đói khát thường xuyên ám ảnh tâm trí chúng tôi, tiếng nói bên trong không làm chúng tôi dịu đi được. Nhưng Khmer Đỏ lại giảng giải cho chúng tôi nghe về sự hy sinh. Trong những cuộc mít tinh cưỡng bức, họ bảo chúng tôi rằng chúng tôi cần hy sinh cho những lữ đoàn cơ động đang chiến đấu trên “mặt trận”, họ nhấn mạnh rằng những lữ đoàn cơ động đó đang xây dựng padewat (cuộc cách mạng). Chúng tôi, tại làng này, chúng tôi không có giá trị mấy bởi vì chúng tôi không làm việc trên mặt trận. Chúng tôi đã trồng lúa, khoai, cây ngọc quả nhưng chúng tôi nhận lại rất ít hoặc hầu như không nhận được gì từ mùa gặt. Phần lớn các lương thực đó đều được gởi cho lữ đoàn. Về sau, tôi biết chính xác “mặt trận” nghĩa là gì – đó là nơi cuộc chiến đấu duy nhất là để chính cuộc cách mạng sống sót được. Thân thể sưng phù của Mak chẳng biết sao đã bớt đi, bà đã có thể đi lại được một quãng ngắn. Giống như một con kên kên đánh hơi thấy được thây ma ở gần, một tên chỉ đỉểm bắt đầu lượn quanh lều chúng tôi. Hắn ra lệnh cho Mak đi dự một cuộc mít tinh. Mak van nài rằng bà chưa được khoẻ. Nhưng hắn chụp lấy điểm rằng bà có khá hơn trước. Hắn ra lệnh là chừng nào còn đi được thì bà phải đi. Giận dữ, Mak lẩm bẩm một mình “Khi mình bị bệnh và đói không đi nổi, sao chẳng thấy hắn thò đầu vào đây? Ar’kmhaoch your! (Quỷ tha ma bắt mày đi)” Nhưng lạ thay, đi họp về trông thần thái Mak có vẻ khá hẳn. Thì ra lãnh đạo làng sẽ đưa trẻ em đi xây dựng một kênh dẫn nước gần Daakpo, nơi đó có nhiều thức ăn. Cá, khoai, gạo, đủ thứ. Mak không cần kể lại với tôi, đã nghĩ chắc rằng mấy đứa con nhỏ của mình cuối cùng cũng có thể sống sót được. “Athy, con phải đi dự mít tinh. Họ sẽ gởi con đi làm việc, nhưng nơi đó ở gần đây và ở đó có nhiều thức ăn. Khi nào có nhiều, con cứ ăn cho kềnh bụng”. Đó là một cơ hội để chụp lấy và bà sẽ không để vuột mất. Mak mơ màng “Có lẽ con còn có thể đem về cho mẹ một ít thức ăn nữa”. “Nhưng như thế con phải xa mẹ, Mak ạ. Con không muốn đi đâu, con sẽ nhớ mẹ, con sẽ khóc”. Chưa chi nước mắt tôi đã ứa ra. “Athy, trại đó không xa đây lắm. Con có thể về thăm mẹ ban đêm sau khi làm việc xong, con sẽ có thức ăn, koon. Nếu con ở lại trong làng này, chắc tất cả chúng ta sẽ chết đói hết. Hãy đi cùng với các đứa trẻ khác. Đến đêm con lại về thăm mẹ, nếu con nhớ mẹ, nhưng con đừng ở lại đây, con sẽ chết đói mất”. Mak nhìn vào mắt tôi, muốn tôi nghe lời, mắt bà van xin tôi hãy hiểu ý định của bà. “Con vẫn không muốn đi, Mak! Con không muốn xa mẹ. Ở đây con vẫn có thể tìm lá và các thức khác để ăn, không có sao đâu”. Thật ra tôi biết chẳng thể là không sao đâu được. “Koon ạ, con phải đi, họ cũng không cho con ở lại trong làng đâu. Nếu con không đi, họ sẽ mang con đến Angka Leu. Con không biết họ sẽ làm gì con đâu. Mẹ không muốn họ tra tấn con, koon à. Con phải đi, con sẽ có thức ăn để sống. Đi đi, con của mẹ, hãy nghe lời mẹ đi”. Giọng bà gắng hết sức nhưng hơi thở của bà đã hụt. Bà bất bình một cách khốn khổ. Tôi chỉ còn có thể khóc. Đây là một lựa chọn khắc nghiệt, thực phẩm hoặc ở bên Mak. Trong thời buổi khó khăn này, tôi không thể chọn lựa. Sự thiếu ăn làm cho tôi rối loạn, đầu óc nhẹ tênh, không còn suy nghĩ gì được. Chẳng có cái gì tôi có thể dựa vào được nữa. Cuối cùng tôi không còn chọn lựa nào. Tôi mới mười tuổi và tôi rất cần mẹ tôi. Thế nhưng việc nhắc đến thức ăn đã kéo tôi lại, những kỷ niệm về thực phẩm tôi đã từng có ở Phnom Penh sống lại trong ký ức tôi. Các ký ức này làm tôi lưỡng lự. Và cả sợ hãi. Cả một mớ câu hỏi không ai có thể trả lời – Cái gì sẽ xảy ra nếu họ nói dối, như họ đã từng làm trước đây? Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi không bao giờ gặp lại Mak, chị Chea, chị Ra, những người đã đi xa hàng tháng trời? Không có một lời hay thư từ gì của họ cả. Nếu Mak chết đói trước khi tôi trở lại thì sao? Tối đến, tôi đi dự cuộc mít tinh. Khi đến gần Sahakar [1] tôi đưa tay quệt nước mắt, xoá đi mọi vết tích của sự yếu đuối. Trước sahakar có chừng năm mươi trẻ em. Trời tối, tôi không nhìn rõ mặt của những người lãnh đạo. Tôi đến ngồi vào phía sau, một vài cái đầu quay lại nhìn tôi. Tôi không phải là người duy nhất tuyệt vọng. Phía trước tôi, bọn trẻ cũng đang chìm sâu trong nỗi buồn của chúng. Chúng tôi chỉ là những pho tượng nhỏ bé, ngoan ngoãn, vâng lời. Mùi nồng nặc của phân bò và nước tiểu bốc lên từ mặt đất. Trăng soi sáng đêm lạnh và gió. Tôi đưa mắt ngắm cái bóng đen của người lãnh đạo, và tôi bị hút hồn khi nghe ông ta nói về thức ăn. Ông ta làm như cuộc sống trong lữ đoàn thiếu niên giống một tiệm ăn hoặc một buổi tiệc ngoài trời vậy. Ông tung ra đủ các câu thần chú. Tôi trở về nhà và chìm ngay vào giấc ngủ sâu. Một giọng nóii trầm trầm vang từ xa rồi lớn dần lên. “Kó ma…(trẻ em).. đi đến Sahakar…đến Sahakar..” Tôi mở mắt và thấy trời còn tối. Tim tôi đập mạnh. Tôi bò lại gần Mak. Tiếng nói lanh lảnh tiến lại gần. Tôi sợ họ mang tôi khỏi Mak và không bao giờ tôi có thể trở về với bà được nữa. Nằm cạnh Mak, tôi thấy dễ chịu vì sự hiện diện ấm áp của bà, nghe tiếng thở nhè nhẹ của bà khi đang ngủ. Tôi không muốn đi, tôi biết rằng tôi sẽ rất nhớ bà bắt đầu từ bây giờ. Tôi hiểu rằng tôi cần mẹ hơn là thức ăn. “Trẻ em, hãy đến Sahakar ngay…” tiếng nói chỉ còn cách chúng tôi hai căn lều. Mak giật mình tỉnh dậy. Tôi sợ hãi, bồn chồn, cố nằm yên giả vờ đang ngủ say. Mak ngồi lên và lay cánh tay tôi “ Athy, dậy đi, dậy đi koon! Đã đến giờ đi rồi. Dậy đi con!” Tôi khóc “Mak, con không muốn đi xa mẹ. Con không muốn đi, Mak ơi!” Tôi van nài, nhìn vào cái bóng đen của mẹ trong nền tối mờ của bầu trời chưa sáng. “Koon, Mak đã giải thích cho con rõ ngày hôm quá rồi là con không thể ở lại được. Bây giờ Mak không có thời giờ để nhắc lại nữa. Con phải đi, con ạ. Tên chhlop kia đang đến gần đấy”. “Các đồng chí,” tên chỉ điểm gào lên, hắn đang đứng cạnh lều của chúng tôi “ Đi đến trước Sahakar, nhanh, nhanh lên!” “Athy, đây, mang theo muỗng đĩa này con” Mẹ nói nhỏ, đưa cho tôi gói đồ dùng cần thiết. Tôi lấy đĩa và muỗng gói vào khăn, ước chi Mak nói thêm gì nữa. Nhưng Mak chỉ im lặng. Tôi không thể thấy bộ mặt hay nước mắt của bà, cũng như không thể thấy mặt Avy và Map, mà chỉ thấy những cái bóng của họ, giờ đã thức dậy và đứng bên cạnh Mak. Lặng lẽ, tôi giã biệt gia đình tôi trong bóng đêm. Lần lượt, các trẻ em đến tụ tập trước Sahakar. Mỗi người mang theo đĩa muỗng và áo quần được gói vào một chéo khăn. Một số tên chỉ điểm đi ngược về các túp lều, đi hết từ cái này sang cái khác để chắc chắn rằng các “đồng chí lao động được” đều có mặt. Khmer Đỏ tập trung thiếu niên từ tuổi lên tám. Điều này giống như họ đi gặt lúa non vậy. Chung quanh tôi là đội quân thiếu nhi mới – những tấm thân nhỏ bé chân trần mặc những tấm giẻ rách, hoặc các bộ đồng phục bạc màu, tơi tả. Tất cả áo quần đều có một màu xám xịt do dùng quá nhiều và thường xuyên ngâm trong nước bùn. Một vài đứa còn không có nổi một chiếc khăn,là món đồ cần thiết nhất, vừa dùng như áo quần vừa là một túi xách. Chúng cầm đĩa và muỗng trong tay, hay là nhét vào ngực. Thỉnh thoảng tôi liếc trộm chúng, tự hỏi chúng có nhớ mẹ như tôi đang nhớ mẹ tôi không. “Ahh! Sắp theo hàng một! Các đồng chí, đi theo hàng một!” một tên chhlop vị thành niên gào lên dữ tợn “Sắp hàng! Sắp hàng! Thẳng! Không nói chuyện! Bất cứ đồng chí nào bị bắt gặp đang nói chuyện sẽ bị đem đi cải tạo ngay!” Mắt hắn nhìn khắp mọi người, chờ bắt gặp một lỗi lầm nhỏ nhất. Như những nô lệ nhỏ bé, chúng tôi bị các tên chỉ điểm kiểm soát sát sàn sạt và đoàn người chậm chạp di chuyển dưới sự hướng dẫn của chúng. Và tôi thì thầm lời giã biệt với Mak. Nơi đây không có đường xá, và chúng tôi đi xuyên qua vùng nông thôn bị chia cắt bởi những cánh đồng lúa xanh xa xa. Tôi lách qua những bụi cỏ cứng hình dáng kỳ lạ, một phong cảnh khác hoàn toàn với khu rừng nơi chúng tôi sống. Khi chúng tôi đến một đồng cỏ bát ngát, sương buổi sáng sớm rơi xuống những ngọn cỏ cứng, rửa sạch bụi trên lá và tôi cảm thấy lạnh. Tôi tự hỏi tại sao chúng tôi cứ tiếp tục đi xa mãi. Họ chẳng bảo là chúng tôi sẽ lao động gần nhà sao? Còn xa bao nhiêu nữa? Tôi kinh hoàng khi nhận ra rằng họ lùa chúng tôi đến đây bằng lời nói dối, nhưng chúng tôi vẫn lê bước đi theo hàng. Khi chúng tôi đi xa khỏi các xóm làng, hàng cây trông nhỏ lại. Khắp nơi là các cánh đồng mạ nay bỏ hoang, khô cằn và cỏ dại mọc đầy. Mỗi cánh đồng mạ có một đường đất nhỏ viền quanh, đó là những bờ ruộng giữ nước để cấy mạ. chúng tôi bước lên những bờ ruộng nhô cao, rồi lại bước xuống, đi vào các đồng ruộng trống rỗng, trơ trụi và khắc nghiệt. Chúng tôi đi nhiều tiếng đồng hồ và các chhlop bắt đầu dừng lại nghỉ. Dường như họ đã bỏ rơi chúng tôi thật xa, khuất hắn phía trước mặt biết rằng chúng tôi vẫn theo sau. Mặc dù tôi rất sợ họ nhưng tôi càng lo lắng hơn nếu lạc mất họ. Mất dấu họ là có nguy cơ lạc đường, bị đói đến chết. Vì vậy, mọi người vội vã bước theo họ, nhưng tôi vì mệt quá vẫn bị tụt lại phía sau. Bàn chân tôi, vốn đã bị bầm dập và yếu ớt, bỗng đạp phải một cái gì sắc nhọn. Tôi đau đớn đến tận óc. Tôi cắn răng không kêu thét lên, và buông mình ngồi bệt xuống đất. Tôi thấy dưới đất có một cành cây đầy gai nhọn, một trong những chiếc gai đó gẫy ra và đâm vào chân tôi. Gai có màu đen và nằm thật sâu trong thịt của tôi, chỉ có một đầu thòi ra khỏi gan bàn chân. Tôi cố nhổ ra nhưng nó vẫn bám chặt. Tôi gắng một lần nữa nhưng nó vẫn ngoan cố không chịu ra. Tôi nhìn lên và thấy mọi người phía trước đã đi khuất. Sợ hãi, tôi bật khóc, nghĩ rằng mình tiến thoái lưỡng nan ở đây mà không có thức ăn, không có nước uống. Tôi cố nhớ lại xem bọn chhlop dẫn đầu đã đi về phía nào, nhưng không cách chi nhớ được. Cái gai càng đâm sâu thêm vào chân tôi. Nỗi sợ hãi không đến được trại lao động tăng lên. Ý tưởng đó làm tôi khóc thét. “Athy, Athy, tại sao bạn khóc vậy?” một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên. Tôi quay lại và thấy Cheng, một đứa bé trạc tuổi tôi mà tôi quen biết ở làng Daakpo. “Cheng,” tôi kêu lớn. “Những người đó đi đâu mất rồi. Chỉ còn hai đứa mình ở đây. Mình giẫm phải một cái gai và không lấy nó ra được”. Tôi nhẹ nhõm vì ở đây với Cheng, một “dân mới” giống như tôi. Cheng lấy ra một củ khoai bằng nắm tay và chìa nó ra cho tôi. Đây là thức ăn tôi thấy suốt ngày hôm nay. Nó nhẹ nhàng bảo tôi “Athy, đừng có khóc nữa. Chân mình cũng rất đau, mình cũng mệt và đói như bạn vậy”. “Cheng, lấy giùm mình cái gai ra được không? Mình đau lắm, không đi nổi.” Nó vói tay lấy cái gói buộc trong khăn rồi lấy ra một chiếc kẹp áo lớn. Cheng liếm ngón tay và chùi bùn nơi chân tôi. Nhẹ nhàng, nó lấy đầu chiếc kẹp lần tìm cái gai nằm sâu trong thịt tôi rồi nhổ ra bằng ngón trỏ và ngón cái. Cheng bây giờ có vẻ thoải mái “Chúng mình sẽ giúp nhau tìm ra đường”. “Chúng mình cùng đi với nhau nhé? Nhưng bạn có chờ mình nếu chân mình đau không?” “Bạn cũng phải chờ mình nữa nếu mình bị mệt, nghe?” Cheng nhìn tôi và gật đầu. Cheng và tôi lại khởi hành, ngang qua một rừng cây, rồi đi vào một cánh đồng cỏ vàng, dày, cao hơn cả hai chúng tôi. Những cuống cỏ bị bó chặt vào nhau cào xước mặt tôi. Chúng tôi qua được một bụi cỏ này thì lại chui vào một bụi cỏ khác. “Cheng này, đám cỏ này cao quá khiến mình không thể biết mình đi đâu nữa” Tôi cố lắng tai nghe tiếng bước chân, tiếng nói chuyện để biết là chúng tôi đi đúng đường. Nhưng tất cả những gì tôi nghe thấy chỉ là tiếng rì rào của đám cỏ bị chúng tôi rẽ ra. Cheng trông rất mệt nhưng cánh tay nó, nhỏ như chiếc thước học trò, cố đẩy đám cỏ sang một bên, thân hình nhỏ bé của nó bước qua, tiếp theo là tôi, tôi cũng mệt lả. Cuối cùng thì cả rừng cỏ dày đặc cũng chấm dứt và phía trước mặt chúng tôi là những hàng trẻ em đi xiêu vẹo. Tôi thầm cám ơn Trời Phật đã đến được nơi đây. Khi chúng tôi lê bước đến gần một khóm cây, chúng tôi giật mình trước cảnh nhìn thấy. Có đến hàng trăm người lớn, mình cúi thấp, hì hục như nô lệ trên cánh đồng. Bên cạnh nhau, họ đào đất, tạo thành một con mương dài chạy song song với con đường đất đắp cao sườn dốc. Một số người dùng cuốc, cố xẻ đất ra rồi bỏ vào thúng cho người đứng phía sau. Những người kia cầm đòn gánh, đợi thúng đầy đất rồi gánh đi. Một nhóm người khác lấy đất đó đổ lên con đường dài, đắp cao cạnh mương, rồi quay trở lại lấy thêm đất. Ý tưởng đầu tiên của tôi là về chị Chea và chị Ra. “Cheng”, tôi nói nhỏ “mấy chị của mình có thể có ở đây. Mình muốn tìm họ”. Hy vọng của tôi lại nổi lên và bay lượn trên cánh đồng. Tôi quét mắt qua đám đông đang bận rộn làm việc, nhưng khó thấy mặt một ai. Phần lớn họ lấy khăn che mặt để khỏi bị ánh nắng mặt trời chiếu vào. Hoặc họ cúi xuống khi đào đất hay nhìn ra xa khi gánh các thúng đất đi. Tôi ngắm nghía các khuôn mặt bẩn thỉu, gầy trơ xương, hy vọng tìm thấy chị Chea và chị Ra. Tôi đứng bất động bên cạnh Cheng và cố tìm, cố tìm. “Athy!” một người gầy nhom vì thiếu ăn đứng trong đám người lao động bỗng la to, đưa tay vẫy tôi liên hồi. Tôi tiến lại gần và sững sờ. Đó là dì Rin, em gái nhỏ của Mak, một người phụ nữ trước đây trẻ trung, đẹp đẽ. Bây giờ thì dì ẩn mình trong chiếc khăn cũ kỹ choàng quanh mặt và một bộ đồ đồng phục nguyên là màu đen, giờ bị bạc đi thành một màu xam xám buồn tẻ. Cặp mắt dì với hai hàng mi dài, và vẻ dịu dàng, duyên dáng của dì là những chứng cớ duy nhất về một con người mà tôi đã từng biết, con người mà bây giờ chỉ còn là cái bóng của con người thật trước đây của mình. Nhiệt tình và hăm hở, dì nói: “Athy, hai chị của con, Chea và Ra, cũng làm việc ở trại lao động này nhưng họ ở bên kia kìa” Dì quay người, hướng về phía có các cây cao và im bóng ở đàng xa. “Athy, có ai khác trong nhà đi cùng với con không?” Dì hỏi tiếp “Chỉ có mình con thôi à?” “Chỉ có mình con thôi…” Tôi bật khóc khi nghĩ đến lúc chia tay với mẹ tôi. “Athy, đừng khóc nữa. Để dì bảo các chị con tìm con tối nay. Đừng khóc”. Nói thế nhưng nước mắt dì lại trào ra khi dì nhìn vào mắt tôi. Tôi cảm thấy tay của Cheng chạm vào tay tôi, nó cũng khóc nữa. Tiếng thút thít của nó và của dì Rin lại khiến cho tôi khóc dữ hơn. Đột nhiên tôi thấy đau xót cho Mak. Mẹ muốn tin vào điều họ hứa với bà. Có lẽ trong cơn tuyệt vọng bà bắt buộc phải tin. Và bây giờ là thế này đây. “Họ đã nói dối chúng ta. Họ nói là trại lao động nằm sát làng thôi” Cheng vừa sụt sùi vừa lấy khăn lau nước mắt. “Họ còn bảo rằng có rất nhiều thức ăn ở đây” tôi tức tưởi. Dì Rin thì biết rõ “Họ nói dối đấy, nói thế để các cháu đến đây. Chẳng có nhiều thức ăn đâu, họ phát cho mỗi người khẩu phần gạo y hệt như ở làng, và họ bắt các cháu làm việc cho đến chết. Dì mệt quá, chỉ muốn nằm nghỉ thôi”. Miệng dì chuyển động chậm chạp, như thể dì không còn sức. Rồi một người phụ nữ dáng nghiêm khắc trong bộ đồng phục đen mới tiến lại gần nhóm dì Rin đang làm việc. Tôi ra dấu báo động cho dì. Dì sợ hãi chùi vội nước mắt và nói “Bà ta là Mekorg [2] của dì đấy. Athy, thôi dì phải làm việc. Dì sẽ bảo Chea và Ra tìm cháu…” “Đồng chí, trở lại làm việc ngay lập tức! Đây không phải là chỗ để cho chị nói chuyện. Ai cho phép chị ngưng làm việc vậy?” “Thì tôi chỉ nói vài câu với cháu tôi thôi mà, chỉ có vậy” Dì Rin trả lời một cách phục tùng. Bà Mekorg đưa mắt nhìn Cheng và tôi, hừ một tiếng “còn các đồng chí kia, hai đứa đi đến trại của trẻ em, bên kia kìa! Đi ngay đi!” Cheng và tôi vộii rảo bước đi ngay. Chúng tôi quanh quẩn giữa các lều dựng tạm. Chúng mọc lên như nấm dưới bóng cây mát cạnh rìa một ngọn núi nhỏ, mà tôi cho là núi Phnom Kambour. Thế ra đây là trại lao động nơi mà các đoàn cơ động được gởi đến. Đột nhiên, một người phụ nữ bước đến trước mặt chúng tôi và đưa tay chỉ một cái lều lớn như thể bà biết chắc chúng tôi sẽ đến đâu. Cheng và tôi đưa mắt nhìn nhau, bối rối nhưng nhẹ nhõm. Khi chúng tôi đến lều, thấy ở đấy một dám trẻ em đang khóc lóc. Tiếng khóc của chúng vang lên trong ánh hoàng hôn, vừa khóc vừa gọi mẹ như một bài kinh buồn. Mấy tên chhlop quát tháo bọn trẻ, ra lệnh mọi người ngừng khóc. Nhưng bọn trẻ đang quẫn trí càng khóc lớn hơn. Ngay cả những tên chỉ điểm cũng không thể bắt chúng tôi ngưng khóc. Biết không làm gì được, bọn chúng rút lui để mặc chúng tôi với nước mắt. Không hề báo trước, các đầu bếp đột ngột xuất hiện mang theo cơm và cháo trong mấy cái nồi lớn màu đen. Vừa nhận ra có thức ăn, mọi người, trong đó có Cheng và tôi, đều ùa chạy lại phía nhà bếp. chúng tôi quây quanh họ. Miệng tôi sủi nước bọt, bao tử thì gầm réo. Giống như mấy đứa trẻ kia, tôi cầm sẵn bát, đĩa để đợi chia phần, mắt thì chăm chăm thèm thuồng nhìn vào soong cháo trắng nhờ nhờ màu sữa và nồi cơm. Tôi hầu như dùng mặt để ăn hết mấy thứ đó, vì thứ duy nhất tôi ăn được suốt cả ngày từ khi rời làng Daakpo đến giờ là miếng khoai cỡ bằng ngón chân mà Cheng cho. Sau khi nhận phần cơm xong, tôi, Cheng, cùng các đứa trẻ khác lại chạy đến lãnh phần cháo, vây quanh bà nhà bếp lúc đó đang quậy nồi cháo trắng như sữa với mấy con cá nhỏ. Đầu và mắt cá đang nhô lên như đăm đăm nhìn chúng tôi. Nhà bếp đặt xuống đất một cái bát nhựa ngay giữa chúng tôi rồi rót chất cháo trắng đục có vài con cá vào đó. Bà vừa rót ra là mọi cái muỗng đều sục vào bát. Mọi người đều có cùng một ý tưởng – ai cũng muốn ăn cá và tất cả đều biết rằng không có đủ cá cho mọi người. Ai nhanh tay thì múc được cá còn ai chậm thì chỉ còn đứng khóc. Chúng tôi đã học cách để không chú ý đến cặp mắt buồn bã của kẻ khác và lập tức ăn miếng cá của mình ngấu nghiến. Lạ thay, nhà bếp cho chúng tôi thêm một phần cháo khác. Bà chưa rót cháo ra bát xong, thì một cô bé kêu lên “Đừng lấy hết cá đó”. Tiếng nói của nó làm tôi cũng như những đứa đã có phần cá cứng người lại. Chúng tôi không chen đến tô cháo để giành cá nữa cho đến khi nó và hai đứa khác trong nhóm đã lấy được phần cá đầu tiên. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho nó, và cho tất cả chúng tôi nữa, là đã lao đến đây, vật lộn với nhau để giành giật một miếng xương. Nhưng bây giờ tôi thấy nhẹ nhõm vì mọi đứa trong có thể đều có được cá. Mặc dù bị cơn đói hành hạ, chúng tôi vẫn chưa hoàn toàn mất hết ý thức nhường cơm xẻ áo, tinh chất lịch sự của con người mà Khmer Đỏ đã cố lấy đi của chúng tôi. Sau bữa ăn, Cheng và tôi nghỉ, ngồi bệt trên đất dưới tàn cây cao vì hiện chúng tôi chưa có chỗ trú. Đêm nay là đêm đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng tôi có thể mất Mak dễ dàng như tôi đã mất Pa vậy. Trước nay tôi chưa bao giờ xa mẹ, và bây giờ cái khoảng cách này làm cho tôi đau đớn. Mắt nhắm lại, tôi có thể hình dung ra Mak hiện giờ đang sửa soạn bữa ăn tối, cúi mình trước ngọn lửa bếp, đổ nước vào nồi rồi thả lá vào. Lời bà nhỏ và chậm, dịu dàng như bảo đem bát này cho em con, hay con đi rửa mặt đi. Toàn những lời thông thường, nhưng được nói ra một cách tử tế, dịu dàng mà tôi không bao giờ nghe thấy được ở nơi này. Tôi nhớ Mak mơ ước về thức ăn, thường bảo chúng tôi bà ao ước có được gì để ăn. Bà thường nói “Có được một bát cơm với muối thì tuyệt vời như ở thiên đàng”. Thế mà hôm nay tôi có được bát cơm và cả cháo cá, còn nhiều hơn cả ước mơ thiên đàng của bà nữa. Tôi chỉ được ăn một bữa, nhưng tôi cảm thấy ăn năn tội lỗi. Tôi ước chi mình có cách nào chia xẻ bữa ăn này để làm dịu cơn đói của mẹ. Nhưng Mak ở quá xa – ngay cả khả năng hình dung ra bà của tôi cũng mờ dần đi. Rồi từ trong bóng tối, tôi bỗng nghe một giọng nói quen thuộc. Tôi nhìn lên và thấy một bóng đen đang gọi tên tôi. Chính là chị Chea! Chắc dì Rin đã báo cho chị biết là tôi đang ở đây! Và bây giờ chị đến tìm tôi. Tôi nhổm dậy, quên hết mọi người ở chung quanh, cả Cheng và mấy đứa trẻ đang khóc lóc. Chị chạy đến và quàng tay ôm lấy tôi. Bóng tối làm tôi không trông rõ lắm, chỉ thấy chị hình như gầy hơn. Chúng tôi ôm nhau đi quanh một vòng, như những ngày xa xưa êm đềm. “Athy, em đến đây lúc nào?” – chị Chea có vẻ quan tâm. “Mới được một lúc thôi” – tôi thấy dễ chịu vì sự có mặt của chị. – chị cả của tôi mà. Chị thắc mắc tại sao tôi lại đến trại này, và nghĩ rằng đáng lẽ tôi phải ở lại với Mak – “Đúng ra em không được rời Mak. Ai sẽ săn sóc cho Mak bây giờ? Mấy đứa con lớn đều đi cả rồi”. Tôi giải thích cho chị hiểu rằng tại sao Mak muốn tôi đến đây. “Họ nói dối để cho em đi đó. Họ dối mọi người, đáng lẽ em nên ở nhà với mẹ. Em còn quá nhỏ không thể làm việc ở đây được. Công việc ở đây quá nặng cả đôi với những người lớn như chị đây”, chị Chea nói, chị có vẻ buồn phiền. Bây giờ tôi mới thấy sợ không biết điều gì sẽ xảy ra với Mak, tôi cũng sợ cho chính mình, không biết mình có sống sót qua việc lao động nặng nề ở đây để gặp lại mẹ không. “Chị Chea ơi, em cũng muốn về với Mak, em muốn về. Làm sao em về được bây giờ?” Tôi khóc, muốn chị tìm cách giúp tôi, nhưng chị không trả lời, chỉ siết chặt tôi hơn. Chị Chea dẫn tôi lại chỗ chị ở, tôi ngồi chờ một mình còn chị phải trở lại để làm xong việc được giao. Mỗi ngày mỗi người phải đào một số mét khối đất định sẵn, phải làm cho xong. Tôi ngồi khóc cho đến khi chị Chea dẫn chị Ra trở lại nơi chỗ ở. “Athy này, chị nghe bà Mekorg của chị nói ngày mai họ sẽ đưa bọn trẻ đến một trại lao động ở Oh Runtabage, họ có nói với em vậy không?” Chị Chea hỏi nhỏ. “Không, em không nghe gì hết”. Tôi thút thít, cố nuốt lấy không khí. Tên Oh Runtabage có nghĩa là dòng suối bị sét đánh. Tôi lại thấy sợ hãi vô cùng. Chị Chea an ủi tôi, nói rằng như thế tôi sẽ gần Mak hơn là nếu tôi ở Phnom Kambour với chị và chị Ra. Nhưng tôi vẫn không thể hình dung được việc thấy Mak, dầu là ở đâu, nên lời chị chẳng an ủi được tôi. Chưa chi tôi đã thấy nhớ hai chị, dù chị Ra rất ít khi nói với tôi. Trông chị mệt nhoài, bơ phờ. Hai chị vẫn là chị tôi, nhưng không còn là các cô gái hay nói, vui tính mà tôi từng biết. Cả chính tôi nữa, cũng mắc cứng trong nỗi sợ hãi và buồn bã nên không nói gì nhiều. Tôi khóc cho đến khi kiệt sức, tôi chìm vào giấc ngủ bên cạnh chị Chea, bồng bềnh trong giấc mơ được gặp Mak. “Athy, Athy dậy đi! Dậy đi em!” Tôi mở mắt và thấy trời còn tối. Tiếng nói quen thuộc, và trong lúc buồn ngủ tôi cứ tưởng là mình đã trở lại Daakpo. “Dậy di, Athy, em phải đi!” Chị Chea vừa nói vừa nâng đầu tôi lên. Cả người tôi đau nhức ê ẩm. Tôi miễn cưỡng nhỏm dậy và chị Chea dắt tôi trở lại chỗ hôm qua chị tìm gặp tôi. Tôi cũng không có thời giờ kịp chào chị Ra nữa. Tôi cố cầm nước mắt khi nghe một giọng nói dữ tợn hỏi “Ai trong các đồng chí, ai trong các em muốn làm thiếu nhi dũng cảm của Angka Leu nào? Đứng vào đây”. Tôi giật mình, bị hút hồn bởi tiếng nói của người đàn ông đó và bởi những bóng đen như bóng ma của những đứa trẻ đứng yên lặng bên đống lửa. Có người đặt nhẹ tay lên vai tôi “Athy, em phải trở lại. Mong cho P’yoon srey (em gái) chỉ gặp chuyện tốt lành khi em về Oh Runtabage. Hãy tự chăm sóc lấy mình. Lea Haey (tạm biệt) p’yoon”. Tiếng chị Chea thì thào lời cầu chúc, rồi tiếng nói khuất đi. Tôi quay người cố nhìn chị. Chị đã khuất trong rừng cây, để lại tôi với những đứa trẻ đang thổn thức. Chúng tôi đi khỏi Phnom Kambour, Khmer Đỏ để đoàn “thiếu nhi dũng cảm” đi bước đều trên con đường đất đang xây dựng, chiếc cầu đất được đắp bởi những người chúng tôi vừa rời bỏ. Đoàn Khmer Đỏ tung ra một bài hành khúc. Chung quanh tôi, những bàn tay nhỏ xíu đưa lên không, ngoan ngoãn lập lại lời bài hát nhiều lần, chúng tự gọi mình là “những thiếu niên dũng cảm” của Angka Leu. Chúng reo, chúng hát, chúng nhảy múa. Cuộc hành trình đến Oh Runtabage mệt nhọc và lạnh. Chúng tôi đến Oh Runtabage thì trời đã xế chiều. Trại ở xa cũng hẻo lánh như Phnom Kampour. Cây cối mọc thành một rào chắn dày bên mỗi bờ suối, phủ bóng cây xoắn vào nhau xuống dòng nước màu nâu đục, làm cho dòng suối trông cạn hơn thật. Cạnh dòng suối là một cánh đồng cỏ vàng mọc cao trải tít ra xa. Không có lều trại, chỉ có bóng râm. Tôi thấy đói và mệt lả. Lập tức làm việc ngay. Họ ra lệnh cho chúng tôi kiếm củi để nhà bếp dùng nấu cơm. Một số chúng tôi thì phải đào những hố lớn để nấu ăn. Phần tôi thì giúp mấy đứa khác đào hố nấu bếp. Tôi đào cho đến khi cả người tôi run rẩy vì mệt. Thấy trời đất quay cuồng, tôi ngưng đào và thở mạnh. Tôi tự nói nhỏ “mình bệnh rồi”. Một vài đứa liếc nhìn tôi khi thấy tôi quỵ xuống. Tôi nhắm mắt, gục đầu trên đầu gối, núp sau hàng thiếu nhi đang làm việc để chúng chie khuất tầm mắt của bọn chhlop. Tôi rất sợ bị bọn chỉ đỉêm thấy, nhưng rồi mệt quá tôi chẳng quan tâm nữa. Cuối cùng cũng đến giờ ăn, thế là họ không bắt được tôi trốn việc. Sau khi ăn xong, một tên Khmer Đỏ dẫn chúng tôi đến rừng cây dọc theo bờ suối nơi chúng tôi sẽ làm nơi trú ẩn. Trước hết chúng tôi phải dẹp các bụi cây để lấy chỗ trống, rồi thì dựng “tường”, thật ra chỉ là những nhánh cây nhỏ cột lại. Những người mang theo quần áo dự trữ thì dùng quần áo này làm nệm trong khi Cheng và tôi gom lá lại để làm chỗ nằm. Những đứa trẻ gốc địa phương, tức “dân cũ”, được chọn lựa nơi làm “nhà” trước, và nơi nào chúng không chọn thì thuộc về chúng tôi, bọn “dân mới”. Tất cả đều được thực hiện để cho người nông dân đứng về phía bọn Khmer Đỏ. Vì quả thật mới mẻ trước công việc này, Cheng và tôi đồng ý với nhau phải xem bọn “dân cũ” dựng nhà thế nào rồi sẽ bắt chước. Chúng tôi quyết định tìm ba cành cây gần chúng, nơi chúng đang dựng lều dã chiến. Chúng tôi đang quan sát chúng làm việc thì bị chúng bắt gặp. “Chúng mày nhìn cái gì?” một con bé địa phương gầm gừ, nói kỉêu rurdern, kiểu nói lè nhè đặc biệt của vùng tây bắc. Trước đây cái giọng như thế thường làm tôi bật cười. Còn ở đây, tôi chỉ dám cười rúc rích trong bụng. Thật khó mà không chế giễu người mà mình coi thường. Nhưng tôi cười như thế thì không ai bắt tôi được. Cheng và tôi quay đi. Tôi nói nhỏ với Cheng, bắt chước giọng lè nhè của con bé “Chúng mày nhìn cái gì?” Cheng cũng nhạo theo, và chúng tôi cười thầm với nhau. Trong một lúc chúng tôi tưởng như còn ở trường, với tiếng cười rúc rích của lũ con gái. Cheng và tôi dựng một túp lều nhỏ xíu cách xa lều của những đứa khác, cạnh mép bờ suối. giống như bọn “dân cũ”, chúng tôi bắt chước lấy dây leo và cành cây ráp lại thành mái và tường, mái thấp đến nỗi chúng tôi phải bò ra bò vào căn lều. Nhưng tôi vẫn mỉm cười khi thưởng thức công trình nhỏ bé vừa làm xong, và tôi mừng vì có Cheng bên cạnh để giúp đỡ. Tôi tự hỏi không biết điều tôi nghe nói hồi còn ở Phnom Penh có đúng hay không. Người lớn Cambodia thường nói “Ở nhà thì có một bà mẹ xa cách, còn ở rừng thì chỉ có một bà mẹ thôi”.Ở nơi hoang dã này, chúng tôi phải gắn kết với nhau. Ở đây, Cheng là gia đình của tôi. Hy vọng chính là người mẹ vô hình của chúng tôi, và sự hiện diện của nó cũng an ủi chúng tôi rất nhiều. Ban đêm thì chúng tôi như một gia đình, nhưng ban ngày thì không thể như thế khi chúng tôi làm việc. Mỗi sáng vào khoảng bốn giờ, người lãnh đạo đoàn của chúng tôi cùng với đám “con cưng” của mình, hét lên lanh lảnh trong không trung “Dậy đi, dậy đi. Làm việc, làm việc…” Giọng của bà ta rất khó chịu, mặt thì thường xuyên cau có. Bà luôn luôn nhăn mặt khi ra lệnh cho chúng tôi, như thể chúng tôi không đáng cho bà nhìn. Có qua thì có lại. Tôi cũng chẳng ưa bà ta. Bà người gầy, tóc xoăn đen cắt ngắn và da sậm. Nếu có người lớn ở đây họ sẽ nói rằng bà ta có trái tim còn đen tối hơn cả nước da nữa. Lúc nào bà ta cũng la hét chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi đã thức dậy và xếp hàng ra đồng. Chúng tôi đi, mắt nhắm mắt mở, chỉ nghe thấy toàn là những lời lẽ độc địa của bà ta. Chắc để được khen thưởng, bà Mekorg này càng ngày càng đánh thức chúng tôi dậy sớm hơn. “Con mụ đàn bà độc ác!” Cheng rít răng nói trong hơi thở “Con quái vật này đánh thức chúng mình dậy thật sớm để đi làm việc, nhưng nó và người của nó thì đi ngủ trở lại. Bon chó!” Cheng càu nhàu. “Làm sao bạn biết họ đi ngủ trở lại?” tôi hỏi, ngạc nhiên. “Mình trốn ra chạy đến chỗ nhà bếp để kiếm đầu cá. Rồi mình rình thấy họ ở gần lều tụi mình đó” Cheng nói nhỏ “và mình thấy họ ngủ. Bọn chó!” Bây giờ tôi mới biết tại sao Cheng biến đi đâu mất trong lúc chúng tôi sắp hàng chờ phát phần ăn. Tôi cũng chú ý không biết tại sao nó đi xa ra để ăn một mình, hoặc ăn mà xoay lưng lại phía tôi và các đứa trẻ kia. Nó thật can đảm, tôi thầm nghĩ, ngắm nhìn nó làm việc cặm cụi trong bóng râm của buổi sáng. Ngày hôm sau, khi nó đứng phía trước tôi đợi phát khẩu phần ăn, tôi mới biết rằng Cheng để đầu cá trong cái khăn. Tôi muốn xin nó vài đầu cá, nhưng tôi thấy sợ mấy tên chhlop đang đứng bên cạnh bà bếp. Tôi liếc nhìn nó, rồi tên chhlop, và sự lo lắng làm cơn đói càng cồn cào hơn. Tôi bồn chồn, nhưng táo bạo hơn. Tôi bước lên phía Cheng và thì thào “Cho mình vài cái đầu cá được không?” “Athy, ngừng nói chuyện với mình đi. Bọn chhlop thấy chúng ta đó” Cheng xuỵt thật nhỏ. Nhưng tôi đã thu hút sự chú ý của tên chhlop. Hắn quay mình, đếm hàng thực phẩm, và tôi vội quay nhìn đi chỗ khác, giả vờ như mình không hề nói tiếng nào. Khi hàng người tiến lên một bước, tôi cũng tiến lên giống mọi người. Khi lãnh khẩu phần xong, tôi ngồi xuống ăn bên cạnh bọn trẻ kia, không ngồi cạnh Cheng. Nhưng khi bọn chhlop đi khuất, tôi bèn xích lại gần nó ngay. Tôi gọi nhỏ “Cheng!” Tôi đợi. Không có tiếng trả lời, rồi, cuối cùng là “đây này!” Tay Cheng đưa nhẹ ra, chạm vào tôi. Tôi nắm một nắm đầu cá, chỉ lớn bằng ngón tay cái. Các đầu cá bé xíu này thật ngon, tuy có mùi tro nhưng rất đáng kể, và tôi muốn ăn thêm nữa. Ngày kế tiếp trong lúc chờ ăn, tôi cũng không thấy Cheng sắp hàng. Tôi nhìn quanh và thấy chỉ có một tên chhlop đang đứng giúp bà đầu bếp phát khẩu phần. Tôi bèn lẻn ra suối, tìm nơi các bà bếp có thể vất rác, gồm c’ả những thứ bỏ đi khi làm cá, như ruột, vây đầu…Tại đây, tôi hy vọng tìm thấy Cheng, nhưng tôi cũng hồi hộp sợ bà Mekorg và các “con cưng” của bà bắt gặp. Rồi tôi thấy Cheng và hai đứa trẻ khác đang xục xạo đống rác gần một bụi cây để kiếm thức ăn. Chúng banh đống rác lạnh, ít ỏi còn nhan hơn khi thấy tôi đi đến. Bấu lấy tí thịt nào còn sót, trông chúng tôi giống bốn con kên kên đói khát vây quanh rìa xác chết. Cheng, khi nắm tay đã đầy, quay người khỏi đống rác, nhét mớ đầu cá vào chéo khăn. Tôi chụp được hai đâu cá còn dính ruột lòng thòng. “Mày lấy đầu cá của tao! Trả lại đây!” một con bé vừa đòi, vừa nắm lấy tay tôi. Tôi không thèm để ý đến yêu cầu của nó. Tôi chỉ đưa mắt quét kỹ trong đống rác xem còn sót tí thừa nào không. Con bé kia cũng thôi đòi. Nó đã biết các đầu cá tôi lấy không phải của nó. Nó đành quay người chú ý vào đống rác. Tôi ước chi tôi có thể đem cho nó mấy cái đầu cá tôi lấy, nhưng tôi cũng đói. Chúng tôi thật tệ hơn lũ ăn mày. Trước khi trở về sắp hàng lãnh phần ăn, chúng tôi tìm một chỗ có lửa để nấu mấy cái đầu cá kiếm được. Trong số các hố bên cạnh suối, có một hố còn củi cháy âm ỉ phủ đầy tro. Chúng tôi bèn ném đầu cá vào đó rồi đi đến chỗ xếp hàng. Ngày hôm sau, chúng tôi chuồn thật sớm, có lẽ cả hai tiếng trước giờ ăn. Đến gần khu nấu bếp, chúng tôi thấy vài bà bếp đang chuẩn bị thức ăn trưa cho chúng tôi. Có một bà bếp làm việc một mình, xa khỏi những người kia. Chúng tôi lại gần bà, chậm như rùa, để thử xem việc này có được phép không. Bà quay lại nhìn chúng tôi và nói với một vẻ quan tâm của người mẹ - một người nông dân, giọng bà không có cái vẻ sắc nhọn điển hình của các lãnh đạo Khmer Đỏ. “Sao các cháu không làm việc? Coi chừng bị họ gặp thì phiền đấy”. Giọng nói dịu dàng khuyến khích tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy sự thôi thúc muốn nói cho một người Khmer Đỏ nghe cơn đói của mình. “Con đói quá. Cho con xin vài cái đầu cá đi. Dì ơi, dì đừng ném đi”, tôi van nài, gọi bà bằng dì thay vì “đồng chí”. Tôi tin cậy bà và cảm thấy thoải mái khi bà cho chúng tôi biết phần ăn hôm nay có gì. Bữa trưa có cơm và xúp cá. Buổi tối lại còn có thêm rau, một thứ lá màu xanh giống lá cây mù tạt. “Họ bắt tụi cháu dậy đi làm việc rất sớm sáng nay” Cheng nói nhỏ, xúc cá đã làm sạch vào rổ “Ngày nào tụi cháu cũng rất mệt và đói nữa”. Đột nhiên bà bếp dùng dao đẩy đầu cá dính ruột về phía chúng tôi. Không do dự, chúng tôi chộp lấy đầu cá, kéo bỏ ruột bằng cách cà vào thân cây. Rồi buộc áo lại làm thành chiếc túi tạm thời, chúng tôi tống hết vào bên trong. Rất ngạc nhiên, bà bếp còn đưa cho chúng tôi hai con cá mà bà vừa chặt đầu xong. “Đây này. Đi đi trước khi họ tóm được các cháu. Trước khi họ trừng phạt các cháu. Đi liền đi!” bà nóng ruột bắt đầu ra hiệu cho tôi và Cheng đi ngay. Chúng tôi dang rời nơi đó thì một nhóm kên kên khác xuất hiện. Một bọn con trai vọt ra khỏi hàng cây hướng về phía bà nấu bếp, khiến bà giật mình té ngồi xuống. Bà vội chạy đến với mấy bà bếp khác, gọi một người nào đó bằng giọng hoảng hốt “Nak! Nak! Nhiều…nhiều đứa trẻ chạy đến đây đòi cá, tôi…tôi sợ”. Bà vừa nói lắp vừa đưa tay chỉ đám trẻ con đói khát đang sục sạo khu vực làm cá. “Các đồng chí trở lại làm việc không thì tôi báo cáo với trưởng đoàn đấy” bà vừa cảnh cáo vừa sải bước về phía bọn nhỏ. Bọn trẻ chạy biến nhanh chóng khuất sau hàng cây, Cheng và tôi cũng vậy. Sau biến cố này, tôi thôi không trốn đi tìm đầu cá nữa. Miếng ăn quá nhỏ không đáng để cho tôi phải liều mạng. Buổi chiều sau bữa ăn, Cheng và tôi đợi đến khi việc phát phần ăn chấm dứt. trước khi nhà bếp mang những chiếc nồi đen lớn ra suối rửa, chúng tôi chạy theo họ hỏi thử xem có cho chúng tôi phần cơm cháy dính vào đáy nồi không. Có khi họ nạy lớp cháy à đưa cho chúng tôi từng miếng, có khi họ bảo chúng tôi tự làm lấy. Cơm cháy đắng khét, nhưng dầu sao vẫn là thức ăn. Về sau, mọi người đều biết đến sáng kiến này, và thế là có thêm nhiều đứa trẻ đến xin nên cơm cháy không còn được bao nhiêu nữa. Chúng tôi thường xuyên kiếm thêm thức ăn. Một ngày nọ, khi đang uống nước bên dòng suối, tôi thấy hàng đàn cá nhỏ bơi trong chỗ nông ở sát bờ. Vào những ngày nóng nực chúng lượn lờ gần hơn, tụ tập dưới bóng mát của các tàn cây phủ trên dòng suối. Tôi nôn nóng muốn bắt cá, ước sao mình có được chiếc vợt đánh cá để chỉ cần múc chúng lên. Đêm đó tôi bảo cho Cheng biết về phát hiện hấp dẫn của mình. Ngày hôm sau chúng tôi lẻ ra địa điểm bí mật, ra sức vẹt các cành cây đan vào nhau để chui ra bờ suối, nơi đó các cành cây phủ một bóng mát xuống dòng nước. chúng tôi nhìn nhau cười khi thấy đàn cá bạo dạn bơi lượn lờ trong tầm nhìn của chúng tôi. Lần đầu tiên tôi thấy hạnh phúc – được ở đây, được kề cận với thiên nhiên, và có được tình bạn với Cheng. Tôi lại thấy mình trở thành một đứa bé – thật là một ân sủng lớn. Ở đây, không ai quát tháo chúng tôi, ra lệnh cho chúng tôi này nọ. Về sau, Cheng và tôi lên kế hoạch bắt cá. Trong buổi ăn trưa, chúng tôi tin cậy thổ lộ với Larg, một đứa cũng thuộc “dân mới”. Trước đây, nó chiếm được cảm tình của chúng tôi, và chúng tôi kết bạn với nó. Sau khi làm việc xong, chúng tôi sẽ tắm suối ở xa chỗ ở, nơi đó không ai thấy chúng tôi được. Ở đó, chúng tôi sẽ nói chuyện nhớ mẹ và các vấn đề khác. Chúng tôi chia cho nhau cơm cháy khi một trong chúng tôi có được nhiều hơn hai đứa kia. Ba chúng tôi lên kế hoạch bắt cá bằng cách lấy khăn cột với nhau thành một cái lưới đánh cá. Chiều nọ, sau khi làm việc xong, chúng tôi đi ra suối, lén lút như ăn trộm, luôn luôn nhìn lui xem có ai nhìn hoặc đi theo không. Chỗ mà tôi nhìn thấy thì quá nhỏ không chứa đủ ba chúng tôi. Vì vậy, thay vào đó, chúng tôi đi xa hơn cho đến khi tới một địa điểm yên tĩnh và tương đối rộng. Chúng tôi dùng dây leo thật nhỏ buộc mấy cái khăn lại. Cheng và tôi đứng đón cá trong khi Larg thì cố xua đàn cá đi về hướng chúng tôi đang giăng lưới. Chúng tôi bước nhẹ trong làn nước lạnh và nông trong khi Larg xau đàn cá về phía chúng tôi. Làm đi làm lại nhiều lần, nhưng chúng tôi không tóm được con cá nào. Lần cuối cùng chúng tôi đang cố thử thì bỗng Larg loạng choạng rồi té úp mặt xuốngười, nước bắn tung tóe về phía Cheng và tôi. Trong khoảnh khắc, tôi sợ điếng người, tê liệt khi thấy thân hình Larg chầm chậm chìm xuống vùng nước cạn Rồi Cheng và tôi chạy đến giúp đỡ nó. “Mình thấy choáng váng”, nó thì thào “rồi chân mình chìm xuống”. Hoàn hồn, Cheng và tôi nhìn Larg run lập cập sau khi chúng tôi giúp nó lên khỏi dòng suối. Chúng tôi đi về trại tay không như lúc đi đến suối. Tôi tiếp tục nghĩ cách làm sao để bắt được cá. Sau khi tắm trong suối, với bộ quần áo cũ rích, tôi chú ý thấy cái khuy bằng kim loại nơi áo bị sút ra. Tôi bứt nó luôn ra khỏi áo và quan sát độ sáng của chiếc khuy, không có kim chỉ, chẳng có cách gì khâu nó lại được. Nhưng tôi thấy sợi dây kim loại uốn cong phía sau chiếc khuy. Đột nhiên tôi nghĩ ra một ý. Tôi chạy vội về lều, tìm một cái kim băng trên áo sơ mi. Như một người thợ kim hoàn, tôi cẩn thận kéo sợi dây kim loại ra, giờ nó là cả một tài sản quý giá. Tôi kéo thẳng đầu dây. Đầu kia tôi mài trên đá cho nhọn hoắt. Xong tôi uốn cong nó lại thành hình lưỡi câu. Một lưỡi câu nhỏ, rất nhỏ - có lẽ chỉ dài độ hai phân, nhưng bằng dây đồng rất chắc. Thật là một phát minh huy hoàng. Ngày mai tôi đến địa điểm bí mật, nhưng tối nay cần nén lại cảm xúc, hy vọng kế hoạch sẽ thành công. Tôi không hở một lời ra với ai, kể cả với Cheng. Khi bà Mekorg đi tuần sau bữa ăn trưa, tôi bèn lẻn đi với một cái cuốc trên vai. Làm như thế để nếu có bị bắt gặp, tôi tuyên bố là tôi đi bot chhurng thom, nghĩa là “ngồi xổm”, một cách nói lịch sự thay cho “đi đồng”. Một mình ở địa điểm câu cá, tôi lấy ra lưỡi câu và một đoạn dây nhựa – đó là dây câu tận dụng từ một bao gạo cũ – và một nắm cơm nhỏ tôi đã để dành từ suất ăn trưa. Bây giờ tôi cần thêm một cần câu nữa. Tôi bèn bẻ một nhánh cây rồi tuốt hết lá đi. Tôi bóp cơm thành một miếng mồi. Tôi nhẹ nhàng để dây câu chìm dưới nước để khỏi cản trở đường bơi của cá. Một vài con cá đột ngột chuyển động, đuôi quẫy nhanh hơn, đẩy chúng phóng tới. Tôi thầm nói, dỗ ngọt chúng: nào, đớp mồi đi, đớp mồi đi nào. Tôi lập đi lập lại câu dỗ đó nhiều lần trong khi cố gắng giữ cho cần câu đừng dao động. Một chú cá lại gần, quan sát miếng mồi. Đột ngột, hàm nó mở rộng và miếng mồi biến mất, tôi vội kéo cần. Một con cá bạc cỡ cái thìa bay lên không trung, giật khỏi lưỡi câu nhưng đã rơi xuống bên bờ suối. Tôi chạy nhào tới chụp con cá bằng cả hai tay. Tôi bóp đầu nó cho đến khi nó thôi cử động. Trong một lúc các ngón tay tôi cứng đờ trong niềm sảng khoái chiến thắng. Nắm con cá torng cả hai tay, tôi biết rằng sự sống đang chầm chậm chảy thoát ra khỏi người nó. Nhưng điều đó khiến tôi can đảm mang nó đi, bởi tôi sợ nếu còn sức nó sẽ vuột khỏi tay tôi và rơi xuống bờ suối ngoài tầm tay với. Để an toàn, tôi mang nó đi xa ra vài bước nữa mới đặt xuống rồi trở ra lại bờ suối. Tôi lại nhẹ nhàng đặt lưỡi câu xuống nước và liền tóm được hai con khác cũng theo cách hồi nãy. Rồi tôi hạ mồi xuống, và ngay khi một con khác đớp mồi, tôi kéo cần. Tôi đưa mắt nhìn theo cái cần trên không, rồi nhìn xuống đất, nhưng chẳng thấy con cá nào. Tôi bèn nhìn xuống nước. Nơi đó có một con cá đang bơi đi cùng với sợi dây nhựa, miếng mồi và lưỡi câu. A, chú cá này hẳn còn đói bụng hơn cả mình nữa, tôi nghĩ. Dẫu sao, tôi cũng bắt được một số rồi. tôi bèn quấn ba con cá vào lưng quần thun để giấu đi. Cheng trợn tròn cả mắt khi tôi đưa cho nó xem mấy con cá. Nó nhướng mày lên khi nghe tôi kể cho biết tôi đã bắt cá như thế nào. Nó bèn đưa tay ra để đòi xem lưỡi câu. Tôi bảo là tôi đã mất cả lưỡi câu lẫn dây câu, nhưng tôi hứa rằng tôi sẽ chỉ cho nó và Larg cách làm lưỡi câu. Thế là cả ba chúng tôi chui xuống dưới bụi cây để làm thêm lưỡi câu. Bây giờ thì áo sơ mi của chúng tôi gài bằng dây leo hoặc kim băng. Chúng tôi đi câu cá bất cứ lúc nào một trong ba đứa có thể chuồn đi. Cá bắt được chia đều cho chúng tôi, bỏ vào chỗ than tàn để nấu nướng chút ít. Trong một thời gian, số cá này giúp cho cuộc sống của chúng tôi rất nhiều. Về sau, người ta quan sát chúng tôi kỹ hơn và chúng tôi sợ không dám bỏ việc nữa. Dù sao thì chúng tôi vẫn còn có nhau. Nhiều tháng trôi qua. Chúng tôi sống trong nỗi khao khát không ngừng. Suốt buổi sáng chúng tôi mong chờ đến giờ ăn trưa. Lòng khao khát phần ăn tối thôi thúc chúng tôi suốt ngày. Đó là vòng tròn của sự đói khát. Nó xoá đi mọi thứ khác – cái nóng, sự mệt nhọc, nỗi cô đơn. Mỗi ngày chúng tôi làm nô lệ cho Khmer Đỏ trên cánh đồng rộng lớn trơ trụi, đào mương, hì hục xúc đất vào thùng…nhưng chúng tôi cũng làm nô lệ cho chính cơn đói của mình nữa. Đói khát và mệt nhọc, tôi hầu như không nhấc nổi chân lên nữa với hai thúng đầy đất và đè nặng nơi hai đầu đòn gánh trên vai. Tôi nhìn qua thì thấy Cheng ở ngay bên phải, đang nghiêng thúng, hất đất đi. Nó thì thào với tôi “Athy, bạn có muốn ăn cỏ ngọt không? Lần trước khi đi tiểu, mình thử mút một cây cỏ cao này, thấy có nước trong đó. Vị giống như vị mía”. Cheng nhanh nhẹn hất đầu làm hiệu. Miệng tôi chảy nước bọt khi nghĩ đến mía. Cái tiếng này thật cũ kỹ, xa vời. Tính ra đã hơn một năm kể từ khi Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh. Đột nhiên tiếng “mía” làm sống dậy những hình ảnh của thời kỳ tốt đẹp cũ. Tâm trí tôi theo đo lướt về Takeo ngày ấy. Đây là Mak, vừa đi chợ về đến cổng, xách một thúng trái cây, cong người vì nặng. Avy, anh Than và tôi chạy ùa ra đón mẹ. Mỗi đứa chúng tôi đều nôn nả lục xem Mak đã mang về cho chúng tôi món tráng miệng nào. Chúng tôi háo hức gọi “Mak, Mak” như lũ chim non réo gọi mồi. Anh Than bèn xới cả rổ trái cây lên. Anh tìm thấy mấy túi bánh ngọt. Anh đưa cho tôi một túi. Tôi vừa reo lên vui sướng vừa hí hoáy mở túi. Mak đặt thúng xuống nền xi măng, rồi bước đến phía cầu thang, nhìn lên cười với Avy, tiếng lanh lảnh của nó hoà thêm vào sự ầm ĩ của chúng tôi. Nó dang hai cánh tay bé xíu đòi Mak bế lên…Rồi là những cuộn phim hay, là nơi xa vời và dễ chịu mà tôi thường dùng để trốn thoát thực tại. Cả một thế giới tưởng tượng bỗng sống lại chỉ bằng một tiếng quen thuộc, “mía”. “Athy!” Cheng gọi, kéo tôi trở lại với cái nóng và với thực tại. “Mình sẽ xin phép và Mekorg để đi tiểu. Sau khi mình khi khỏi đây rồi thì bạn xin phép. Mình sẽ đứng đợi bạn”. Cheng có vẻ thận trọng, rồi biến mất trong đám đông trẻ em, đi tìm bà Mekorg. Cheng gặp tôi nơi cánh đồng cỏ phía xa, cáhc hẳn chỗ chúng tôi lao động. Mỗi đứa chúng tôi mang theo một cái cuốc, đó chính là dụng cụ kiếm ăn, bởi chúng tôi sẽ dùng cuốc để cắt cỏ ngọt. Chúng tôi chạy đến chỗ các bụi cỏ cao màu kem, trông chẳng có gì giống với cây mía cả. Cheng nhổ một bụi, tôi nhổ bụi tiếp theo. Không do dự, chúng tôi giơ cuốc lên cao, chặt xuống bụi cỏ. Tôi nhặt lên một thân khô, cỡ bằng ngón tay cái, và mút chất ngọt từ đó. Cả hai chúng tôi không nói gì, nhất thời mê man trong cơn đói, liên tục uống chất nước ngọt, gặm hết thân cỏ này đến thân khác. Đột nhiên, cái đầu của bà Mekorg và một tên chhlop bỗng nhô lên khỏi đám cỏ cao đang lắc lư. Tôi cứng người, hàm tê liệt khi cái nhìn độc ác, giận dữ của họ đè xuống người tôi. Tôi muốn báo động cho Cheng, nhưng không mở miệng được. “Các đồng chí làm gì ở đây? Đáng lẽ các đồng chí phải làm việc mà?” bà Mekorg gầm lên, bước chân thình thịch tiến lại gần. Cheng quay nhìn lại. Nó giật phắt cả người, chiếc cuốc rơi khỏi tay. “Đem các đồng chí này đi cải tạo!” bà trưởng đoàn nắm lấy cánh tay tôi. Bà ta xô tôi, làm tôi té bò xuống đất. Tôi nhỏm dậy, chạy lảo đảo thật nhanh về phía trước nhưng đã muộn. Cheng đưa mắt hốt hoảng nhìn tôi, tôi nhìn lại nó qua làn nước mắt. Tôi cũng biết việc tôi làm là liều lĩnh. Nhưng sự sợ hãi, đau đớn, mệt nhọc và đói khát đã khiến chúng tôi không kìm giữ được. Tôi cũng biết đúng ra tôi phải trở lại làm việc sớm hơn. Bây giờ thì đã quá muộn, tôi nghĩ một cách tiếc nuối. Hẳn họ đã đứng quan sát hai chúng tôi rất gần, nhưng chúng tôi vì đói quá nên không chú ý. Bây giờ thì đã nằm trong tay bọn họ. Họ đẩy vào lưng chúng tôi và đưa chúng tôi về trại. “Trói chúng lại và không cho chúng nhận phần ăn! Gọi các đứa khác đến xem và lấy đó làm gương!” bà Mekorg ra lệnh cho tên chhlop, vừa đưa tay chỉ một thân cây gần lối vào chỗ ở của bọn con gái. Mặt cá, cánh tay, bàn tay tôi bị cột chặt ra sau lưng, dựa vào lớp vỏ xù xì của thân cây. Chưa bao giờ trước đây tôi thấy vô phương tự vệ, nhục nhã đến như vậy. Tên chhlop dùng một sợi dây thô và chắc vòng quanh người tôi nhiều lần rồi trói lại. Tôi không còn có sức kháng cự nào. Chhlop bỏ đi sau khi trói Cheng vào phía đối diện thân cây, tôi oà lên khóc. “Athy, đừng khóc dữ vậy” Cheng sụt sùi “ngừng khóc đi…” “Cheng…mình…mình nhớ mẹ quá…” tôi nấc lên. “Thì mình cũng nhớ mẹ…”Cheng sụt sịt. Mặt trời lặn. Cẳng chân tôi lả đi. Sợi dây trói cấn chặt vào người tôi. Tôi buồn ngủ và mê sảng. Chợt tôi nghe tiếng ai đang lại gần. Tôi chầm chậm quay đầu lại và thấy bà Mekorg, các tên chhlop và một đoàn thiếu nhi sắp hàng bước đi trở về từ nông trường. Như những người lính ngoan ngoãn, họ đi theo hàng một, ngang qua chỗ chúng tôi. Những cái đầu quay sang chỗ chúng tôi rất nhanh và ném một cái nhìn về phía hai phạm nhân. Chúng tôi là bài học làm gương cho họ. “Đây là điều sẽ xảy đến với các bạn nếu các bạn không tuân lời Angka Leu” Bà Mekorg đen đúa, xấu xí đưa cây gậy chỉ tôi và Cheng “Nhìn đi các đồng chí…” Đêm xuống. Khẩu phần ăn đã được phát. Rồi bọn trẻ con đi ngủ. Chỉ còn chúng tôi phải đứng suốt đêm, không được cả thức ăn lẫn nước uống. Rồi đêm trở thành ngày. Bọn trẻ lại đi ngang qua trước mặt chúng tôi, có bà Mekorg đi kèm đến chỗ làm việc. Hơi thở hổn hển, tôi cố cựa người nơi sợi dây trói ngang ngực. Thân thể tôi gục xuống nơi thân cây. Mình đang ở nơi ngưỡng cửa của cái chết, tôi nghĩ, và chính điều đó làm cho tôi kinh hoàng. Tôi thở chầm chậm. Mỗi hơi thở của tôi là cho cái thân thể nặng nề đang chết đi trong cánh tay, cườm tay và đôi chân – tất cả chúng đang cần không khí. Quang cảnh thật vắng lặng. Cheng thì chắc đã chết rồi. Nó phải chết thôi. Nó không phát ra một tiếng động nào từ lúc bọn trẻ đi ngang qua chúng tôi trên đường ra làm việc. Tôi gọi tên nó. Mọi bộ phận trong cơ thể tôi căng lên chờ đón câu trả lời của nó. Cuối cùng có một tiếng rên nhè nhẹ. Tôi nhẹ nhõm, nhưng sau đó người tôi tê cứng. Nó không còn đủ sức tự giữ mình đứng như thế này được nữa, và tôi sợ rằng việc máu không lưu thông được nơi chân tay sẽ giết chết tôi. Rồi khi đêm xuống, cũng chính tên chhlop đó đã đến thả chúng tôi. Hắn cảnh cáo rằng chúng tôi sẽ bị trừng trị nghiêm khắc hơn nữa nếu chúng tôi lập lại vi phạm một lần nữa. Khi hắn bỏ đi, một bóng đen xuất hiện, đó là Larg, nó mang cho chúng tôi phần cơm, đặt xuống bên cạnh thân cây. Chân tay tôi chầm chậm thức dậy, nóng lên như thể máu đã tìm đường trở lại nơi đó. Cheng và tôi bèn đi vào lều. Trong bóng tối, chúng tôi vội vã nuốt chửng cơm vào miệng. Tôi đã tưởng mình sẽ không còn biết đến mùi vị của cơm và muối nữa. Bắt đầu từ lúc này chúng tôi bị quan sát chặt chẽ hơn. Điều kiện làm việc thì càng ngày càng tệ hại. Hằng ngày chúng tôi bị đánh thức rất lâu trước khi mặt trời mọc và chỉ trở về sau khi mặt trời đã tắt nắng. những người lãnh đạo chúng tôi nhấn mạnh trong các cuộc họp rằng đó là để chúng tôi làm kịp ngày ấn định, hoặc vượt chỉ tiêu. Để thi đua với các đoàn khác cũng đang đào mương thuỷ lợi sẽ nối liền với đường mương của chúng tôi. Tôi nhẩm tính tiến độ công việc làm của chúng tôi theo từng tấc đất. Tôi đo từ độ cao của con đường trên mương đến đáy mương nơi tôi làm việc hàng ngày. Cứ tính tóan như thế suốt ngày, cả thế giới chung quanh tôi toàn là đất. Rồi những ngày dài lao động cưỡng bách bắt đầu để lại dấu ấn trên chúng tôi. Nhiều đứa đã ngã bệnh. Một số ngã xuống vì sốt rét. Số khác thì sốt và tiêu chảy. Đêm đêm tôi thường nghe những âm thanh của đau đớn và bệnh tật. Ngay gần chỗ ở đầy những dấu hiệu của bệnh tiêu chảy bị ruồi nhặng bu đầy. Rồi chẳng bao lâu sau chính tôi cũng bị tiêu chảy, và tình trạng càng lúc càng tệ hơn. Tôi bị như em tôi, em Vin đã bị, bệnh kiết lỵ. Hàng ngày tôi nằm bất động trong chiếc lều trống rỗng, được cất ngay gần cánh đồng trông ra chỗ chúng tôi làm việc. Người tôi khô quắt, lả đi vì mất nước. Tôi thường xuyên làm bẩn quần. Thế mà tôi chỉ có hai chiếc quần. Đêm đêm tôi nằm nghĩ đến Mak, Map và Avy. Tôi nhắm mắt và tưởng tượng mình đang nằm trong lều bên cạnh mẹ. Nỗi khát khao này cũng là một cơn đau thể xác, bên cạnh cơn đau nhói bụng vì bệnh tật. Tôi phải cố gắng tự trấn tĩnh, ít ra mình còn may mắn có Cheng bên cạnh. Nó luôn chăm sóc tôi. Vào giờ ăn tôi nằm đợi Cheng mang phần đến cho tôi. Trong lều, nó quỳ xuống, cúi người nâng tôi ngồi dậy. Đưa tay chỉ vào cái bát nhựa để bên, nó nhắc tôi rằng nó mang cả nước uống cho tôi, thực ra là một thứ nước đục màu nâu nhờ như sô cô la. Rồi ngay lập tức, tiếng của chhlop réo lên, ra lệnh cho bọn trẻ trở lại làm việc. Cheng phải tuân lời, nhưng tôi biết nó sẽ quay trở lại, đó là điều duy nhất mà tôi nương tựa vào. Buổi tối nó còn phải giặt quần áo cho tôi, và dùng chiếc khăn duy nhất của nó đắp lên che người tôi. Nó đành để đầu trần làm việc dưới ánh nắng mặt trời chói chang. Thế mà chưa bao giờ Cheng phàn nàn một tiếng. Sự hy sinh thầm lặng của nó làm trong tôi dâng lên một lòng biết ơn sâu xa mà tôi chưa bao giờ có. Đêm tiếp theo, chính Cheng làm tôi thức giấc. tiếng chân nó bước vội vã ra khỏi lều. Vài phút sau nó trở về, bụng đau nhói. Nó nằm co quắp phía sau tôi, rên rỉ. Người nó nóng lên khác thường, rõ ràng có dấu hiệu bệnh. Tôi lo cho Cheng, sợ cho cả hai chúng tôi. Làm sao chúng tôi tồn tại nếu cả hai đều bệnh? Ai lấy thức ăn cho chúng tôi? Chắc chắn không phải là bà Mekorg, mặc dù bà ta là người chịu trách nhiệm trông coi chúng tôi. Bà ta lạnh lùng, chỉ chú ý chúng tôi khi chúng tôi còn sức khoẻ để làm việc. Nếu bạn ốm, bạn là đồ vô dụng. tôi cũng biết chúng tôi không thể nhờ vào Larg. Từ khi bị trừng phạt, chúng tôi càng ngày càng ít thấy nó hơn. Sáng hôm sau, như thường lệ, bà mekorg đánh thức mọi người dậy. Bà thò đầu vào lều của chúng tôi và ra lệnh cho Cheng dậy đi làm, tôi thì không vì bà biết tôi đã bị bệnh. Cheng bảo bà rằng nó bị tiêu chảy, nhưng bà vẫn bảo Cheng phải đi làm thôi. Cheng vâng lời. Nó lặng lẽ ngồi dây, rồi biến mất giữa các lều. Đến trưa, với bộ mặt nhăn nhó và nhợt nhạt, nó xuất hiện, mang về lều phần ăn của tôi. Đến đêm nó phải dậy nhiều lần vì bị tiêu chảy. Đó là triệu chứng kế tiếp của bệnh kiết lỵ. Đến chiều hôm sau, Cheng mang phần ăn về cho tôi và giảng giải cho tôi biết điều nó đã hoạch định từ đêm trước. “Athy ơi, mình phải trốn khỏi chỗ này” nó bắt đầu nhẹ nhàng “Bạn bệnh và mình cũng đang bệnj như bạn. Nếu chúng ta ở đây, chúng ta sẽ chết cả. Chúng ta cần nghỉ ngơi và thuốc men”. Cheng nói chững chạc như người lớn, giọng nói mạnh mẽ, trấn an mà tôi thường nghe Pa hoặc Mak dùng khi tôi bị sốt hoặc lên cơn suyễn “Nếu bạn không trốn đi với mình, bạn sẽ không bao giờ thấy lại mẹ của bạn nữa đâu”, Cheng nhìn vào mắt tôi. Nó biết, và tôi cũng vậy. Khmer Đỏ không bao giờ cho tôi thuốc men gì cả. Họ chỉ đưa mắt nhìn qua một cái – như thể chẳng có gì đáng cho họ bận tâm. Nhưng dù sự lãnh đạm của họ có tàn nhẫn đến đâu chăng nữa, cũng còn hơn là bị họ đánh đập đến chết, tôi nghĩ, nhớ lại những lời họ cảnh cáo về những gì sẽ xảy ra đôi với ai cố tình trốn chạy. Tôi càng muốn gặp Mak chừng nào thì càng sợ điều đó hơn. Cơ hội thật là bấp bênh. Tôi phải chọn lựa giữa nguy cơ bị chết ở trại này vì một căn bệnh không gì chế ngự được, hoặc liều mình vì có thể bị trừng phạt bằng cái chết nếu trốn đi mà bị bắt lại. Tôi nghĩ tới nghĩ lui để chọn lựa, nhưng không có gì rõ ràng. Thật kỳ cục khi phải vật lộn với câu hỏi mình có thể chết như thế nào. “Mình phải trốn. Nếu mình ở lại đây, mình sẽ chết. còn nếu trốn đi có thể mình không chết”. Cheng khẳng định “Mình sẽ giúp bạn ngày mai nếu bạn đi với mình, Athy ơi, còn mình không thể ở lại đây được nữa” Nó có vẻ buồn nhưng rất cương quyết. “Nhưng mình không còn sức bước nổi nữa. Mình cũng không thể đi xa như vậy. Cheng ơi. Và họ sẽ bắt gặp tụi mình mất. Họ sẽ thấy khi tụi mình băng qua cánh đồng trống trải. Không có đủ cây cối để che phủ tụi mình”. Tôi hình dung cảnh chúng tôi chạy trốn. Lòng tôi muốn cùng đi với nó, nhưng tôi không biết có tin cậy được đôi chân mình không, có đứng nổi không. “Mình sẽ giúp bạn đi. Mình vừa đi vừa đỡ bạn, ngày mai tụi mình sẽ trốn đi lúc họ ăn trưa. Còn bây giờ mình phải trở lại nơi làm việc”. Nói xong Cheng vội vã chuồn ra, trở lại nơi làm việc vì tiếng réo lanh lảnh của tên chhlop đang rít lên từ xa. Ngày chúng tôi trốn thoát đã đến. Tôi chuẩn bị sẵn sàng chờ Cheng, sẵn sàng cả tâm trí lẫn thể xác. Ngồi chờ trong lều, tâm trí tôi diễn tập cuộc trốn chạy, hình dung cảnh Cheng và tôi chạy, đúng hơn là bước, bởi tôi đâu đủ sức chạy. Buổi sáng mát mẻ chuyển thành một ngày ấm nóng. Không nhìn, nhưng chúng tôi phải quan sát bầu trời. Khi ánh mặt trời chiếu sáng trên lều. Cheng bước vào, vẻ lo âu. Nó nhíu mày, nheo mắt vì ánh sáng mặt trời. “Athy, sẵn sàng chưa? Họ đang sắp hàng lấy phần ăn. Mình phải đi ngay!” “Sẵn sàng” tôi mau lẹ trả lời, mặc dù bên trong tôi sợ đến run cả người. Tôi muốn nói điều đó với Cheng, nhưng một cái gì đó đã giữ miệng tôi lại. Mình không thể nói với nó bây giờ, bây giờ không được. Cheng thì thào hỏi tôi đĩa của tôi đâu. Cùng với đĩa của nó, nó đút cả hai vào trong áo ngoài, buộc dây phía dưới cho khỏi rơi. Tôi nhìn nó ngạc nhiên. Tại sao lại mang đĩa đi? Không thể đi tay không sao? Nhưng Cheng chắc đã tính hết mọi chuyện này. Chúng tôi cứ tiến hành theo kế hoạch của nó. Im lặng, Cheng hất đầu ra hiệu cho tôi bò ra khỏi lều. Rồi nó nắm lấy tay phải của tôi và chúng tôi bước đi chầm chậm, thận trọng khi đi ngang qua lều của mấy đứa trẻ khác. Cheng choàng cả hai cánh tay nó qua vai tôi, giúp tôi đi đều bước, còn tôi thì cố bước đi bằng đôi chân đã yếu hẳn của mình. Cheng mang trên vai một cái cuốc, để làm ra vẻ nó đang đỡ tôi đi đại tiện ngoài đồng. Ở đàng xa, khoảng chừng một dặm, là một hàng cây – đó là mục tiêu thứ nhất của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng ít nhất đi đến được chỗ đó, tấm màn của tự nhiên sẽ che chắn cho sự trốn chạy của chúng tôi. Bất cứ lúc nào tôi cũng chờ thấy một bàn tay chụp lên vai tôi, hay nghe thấy tiếng chân lẹt xẹt phía sau chúng tôi trên cánh đồng cỏ. Chúng tôi cố không nhìn lui, chỉ hướng về phía trước. Mỗi bước, hàng cây lại trông như xa ra. Tôi tưởng tượng các tên chhlop và bà Mekorg đang đuổi theo chúng tôi, hầu như là đợi chờ điều đó. Tôi nghĩ, lần này mình sẽ không còn chịu nổi bất cứ hình thức trừng phạt thể xác nào nữa, với tình trạng bệnh tật như hiện nay. Càng nghĩ đến điều đó, tôi càng sợ hãi, và một nguồn năng lượng ùa tăng trong thân thể tôi, đẩy tôi về phía trước với một sức lực mà tôi không bao giờ nghĩ là mình có được. Bây giờ chúng tôi đã ở quá xa chỗ lều trại cho nên không ai nghĩ rằng chúng tôi đi tiêu nữa. Nếu tụi chhlop thấy được chúng tôi, chắc chắn là chúng biết chúng tôi đi trốn. Vì thế tôi càng bước nhanh hơn. Cheng nắm tay tôi thật chặt. Chúng tôi bước, rồi chạy. Bước nhảy của tôi khó khăn, khập khiễng, thế mà trong trí tôi, tôi còn muốn hàng cây lại gần hơn nữa. Vừa đến được đó, Cheng buông cây cuốc xuống đất và ra lệnh: Cheng kéo tôi đi, và tôi để mặc nó. Tôi trôi dạt phía sau nó như một chiếc neo khi bàn tay nó ra sức kéo cái thân hình mảnh dẻ của tôi đi. Trong cơn sợ hãi, tôi lại cảm thấy mình tự do. Tôi không còn nghĩ đến bọn chhlop và bà Mekorg đang đuổi theo mình nữa, cũng không cần biết đến các ngọn cỏ khô đang cứa vào mắt cá chân, không nghĩ đến bắp thịt yếu đuối của mình nữa. Tôi chỉ nghĩ về nơi mà tôi đang chạy đến, chứ không về cái gì tôi đã bỏ lại phía sau. Tôi nghĩ về Mak, và ý tưởng này chảy cuồn cuộn trong mạch máu tôi như tạo một nguồn sức mạnh mới. Với mỗi bước chân, những nỗi lo sợ lỏng ra trong trí tôi. Tôi tự do. Mặc dù chúng tôi đã vượt qua được hàng cây, chướng ngại đầu tiên, chân trời xem ra vẫn còn xa tít. Giữa Cheng và tôi không ai nói tiếng nào, chỉ có tiếng thở nhẹ, hào hển. Nó kéo, tôi theo. Chúng tôi tiếp tục bước nhanh, dùng các bụi cây chúng tôi vượt qua làm dấu định mốc. Chúng tôi đã đi được một quãng khá xa, một vài dặm, theo tôi nghĩ. Ngoài âm thanh của bước chân mình, tôi nghe có tiếng người vang lại gần. Chúng tôi ngừng bước, gập người xuống, đưa mắt nhìn nhau, sợ hãi. Cùng lúc, cả hai chúng tôi đều ép người xuống, bò sát đất, như những người lính lắng nghe tiếng quân thù. Cheng kéo tay tôi. Chúng tôi vùng chạy, nhô lên, hụp xuống. Chạy đến một bụi cây rậm rạp, chúng tôi cố nén hơi thở hổn hển lại. Tiếng nói của mấy người đàn ông đang đi lại gần. Chưa gì tôi đã hình dung cái khoảnh khắc khủng khiếp xảy ra cho chúng tôi. Nhưng khi họ đến gần, tôi ngạc nhiên nghe thấy họ trò chuyện về việc đánh cá chứ không phải về chúng tôi. Tôi cảm thấy yên tâm nên thò đầu ra khỏi bụi cây, một người vác lưới đánh cá trên vai, còn người kia mang một cái gàu đã cũ. Cheng và tôi đưa mắt nhìn nhau, nhẹ nhõm. Không có bản đồ, chúng tôi đành để phong cảnh hướng dẫn. Chúng tôi tìm từng bụi cây, để cho ký ức dẫn đường. Khi Cheng và tôi dự tính làm thế nào để về được làng Daakpo lúc chạng vạng, cảm xúc trong người tôi dâng trào, trộn lẫn với sợ hãi, bồn chồn và phấn khích. Chúng tôi vượt qua hai ngôi làng. Rồi con đường đất bắt đầu trở nên quen thuộc. Sợ gặp bọn chỉ điểm, chúng tôi tránh đi trên đường mà đi theo hình chữ chi, cố để không ai nhìn thấy mình. Trong bóng tối, cuối cùng chúng tôi cũng tìm được đường trở lại làng Daakpo. Nhưng đến lúc này, chúng tôi lại lo lắng. Nếu chúng tôi không gặp được mẹ thì sao? Trước khi rẽ mỗi người một ngả, Cheng đưa ra lời yêu cầu cuối cùng “Trong trường hợp họ bắt được mình, nếu bạn gặp mẹ mình, nhớ bảo mẹ mình rằng mình cùng trốn với bạn”, Cheng chia tay, nhưng quay lại một lần nữa, như thể để nhìn tôi cho kỹ, rồi mới biến đi trong bóng đêm. Tôi chạy theo nó trong bóng tối, cũng để yêu cầu như vậy “Nếu mình không gặp mẹ mình, bạn cũng nhớ nói với mẹ mình như vậy nhé?” Còn lại một mình, tôi càng phải cảnh giác. Tôi rất lo lắng, nhưng tôi cũng nóng lòng muốn gặp lại Mak. Tôi cố nén lại nỗi khao khát muốn chạy ùa lao vào vòng tay của mẹ tôi. Thay vì vậy, tôi đi vào làng một cách thận trọng. Như một người lớn, tôi đã biết trước các trở ngại, nên cố tránh để mình thu hút sự chú ý. Khi tôi nhận ra hàng cây cao gần bên lều mình, dấu mốc của riêng tôi, tôi cảm thấy phấn chấn tột độ. Ngọn lửa bếp nơi góc toả ra một ánh sáng mờ mờ nơi lối vào. Cuối cùng, tôi đã thấy mẹ. Mak ngồi bên ngọn lửa – điển hình, bình thường như thể tôi chưa bao giờ rời bỏ bà. Mak nhìn đăm đăm vào nồi, bà đang quan sát món ăn trong nồi như một bà thầy bói, đang đoán tìm xem có phát hiện được gì dưới mớ lá trong nồi không. Trong một lát, người tôi như đông cứng lại, tê cứng vì niềm sung sướng. Rồi, tôi nhào đến Mak, choàng tay ôm lấy bà. “Mak! Con về đây!” Chỉ cần nói chừng đó tiếng là lòng tôi tràn đầy kiêu hãnh và hân hoan, một cảm giác căng đầy tôi chưa bao giờ biết đến kể từ khi họ đem tôi đi lao động. Được ở gần Mak như thế này, được ngửi mùi quen thuộc từ mẹ. Trong khoảnh khắc, tôi nhận ra tôi yêu mẹ thâm sâu biết chừng nào. Bây giờ tôi hiểu rõ tôi cần mẹ biết chừng nào, cần cho sự sống còn của tôi biết chừng nào. Mak quay người lại, giật nẩy mình. Bà nhảy nhổm lên, giọng vỡ ra vì mừng rỡ “Athy, koon đấy à, họ để con về rồi! Con đã làm xong…” Mak lắp bắp tìm lời. “Mak!” tôi nói nhỏ “Đừng nói lớn tiếng” Tôi đưa mắt nhìn quanh lều, mẹ cũng làm theo. Tôi chú ý thấy Map và Avy đang nhìn Mak và tôi một cách lo âu. Tôi nghiêng người vào mẹ và nói nhỏ vào tai bà “Con trốn khỏi trại lao động”. Mẹ lùi lại, kinh hãi. Vẻ mặt bà làm cho tôi sợ. Tôi cứng người. Tôi nhìn Avy và Map. Sự im lặng của chúng càng làm cho tôi sợ hơn. Cái đói đã vắt kiệt tinh thần của chúng. Tim tôi nhộn lên khi nhận thức ra hậu quả của việc mình chạy trốn. Bây giờ tôi mới thấy sợ không biết việc mình lén trở về nhà có thể gây cho gia đình mình điều gì. Ở trại lao động Phnom Kambour, chị Chea đã cảnh cáo tôi rằng lẽ ra tôi phải ở nhà với Mak cùng Avy và Map và chăm sóc cho hai đứa em. Vào lúc này lời chị làm cho tôi thấy tội lỗi và sợ hãi, như một điềm xấu. Bây giờ tôi ở đây, tôi hy vọng được ở lại đây và mong đừng có gì xảy ra nữa. Sau bữa ăn tối với lá nấu nhừ cùng với muối cùng Mak, Avy và Map, tôi nằm dài xuống bên cạnh cái lưng ấm áp của Mak, như tôi đã hằng tưởng tượng. Lặng lẽ, tôi cầu Đức Phật và linh hồn của Pa cho bọn chhlop và bà Mekorg đừng bao giờ đến bắt tôi trở lại Oh Runtabage. Để tránh khỏi bị bọn chhlop nhìn thấy, Mak dặn tôi không được rời khỏi lều khi bà đi làm việc với Avy và Map. Tôi phải ở trong lều suốt ngày. Bà để sẵn lá nấu nhừ cho tôi để tôi khỏi phải đi ra ngoài nấu ăn. Dẫu vậy, bọn chhlop vẫn có thể kiểm tra lều bất cứ khi nào chúng muốn. Biết vậy, tôi phải chuẩn bị tinh thần khi nghe tiếng bước chân, phải ép mình vào bức vách bằng lá dừa khô, nín cả thở vì sợ một cử động nhỏ nhất cũng gây nên tiếng sột soạt nơi đám lá dừa khô. Chỉ khi tiếng chân xa dần tôi mới thở ra, nằm xuống sàn lại, chắt chiu từng lúc nghỉ ngơi quý báu của mình. Đến tối, khi ánh mặt trời chuyển thành hoàng hôn, tôi trông chờ Mak trở về. Trong tình trạng tự cô lập mình như vậy, tin tức thường đến với tôi rất chậm. Dù tôi không dám đi ra hỏi quanh hàng xóm – tôi chỉ muốn ẩn mình chứ không muốn gặp ai cả - tôi cứ nghĩ rằng hẳn Cheng đã tìm được chỗ nghỉ ngơi dễ chịu như tôi. Nhưng tôi đã lầm. Vài tuần sau qua đứa em gái của nó tôi biết rằng Cheng đã chết vì bệnh phù thủng. Sao lại như vậy? Cái cô gái mạnh mẽ từng kéo tôi qua đám cỏ cao và những bụi cây dày, cô gái đã giúp tôi trốn thoát lại chết sao? Tại sao nó lại ra đi nhanh đến vậy? Có phải căn bệnh kiết lỵ đã làm nó sợ mà quay trở lại trại? Tim tôi kêu thét lên gọi nó trong nỗi đau đớn dâng tràn. Hình ảnh nó chăm nom tôi khi tôi bệnh trở lại trong trí tôi, tôi nhớ những ngày tôi rên rỉ và mê sảng vì sốt và Cheng nằm bên tôi, vỗ nhẹ vào cánh tay tôi để an ủi. Nó đã cứu tôi khỏi trại lao động chết chóc. Không có thuốc men hiện đại, Mak cố chữa cho tôi bằng phương pháp dân gian. Bà nấu vỏ cây ổi chiết lấy chất nước đắng nghét để tôi uống nhằm ngăn bệnh tiêu chảy. Là một bệnh nhân ngoan ngoãn, tôi siêng năng uống cái chất nước cô đặc đó, mạnh đến nỗi thấy tê cả não. Rồi dần dần, Mak chữa cho tôi mạnh trở lại. Nhưng liền đó, một tên chhlop phát hiện ra tôi. Bộ mặt trẻ, lấm tấm tàn nhang của hắn thò vào lều và trông thấy tôi. Kỳ lạ thay, tôi không bị tra tấn hành hạ cũng không bị gởi trả về Oh Runtabage. Thay vào đó, họ đưa tôi đi lao động ở một ruộng lúa gần làng. Có lẽ Khmer Đỏ chẳng thèm quan tâm đến việc của từng người và điều đó thành ra có lợi cho tôi. Họ đã quên tôi là ai và đáng lý ra tôi phải ở đâu. Chú thích:[1] Toà nhà bằng gỗ nơi được tổ chức các cuộc mít tinh. Đây cũng là nơi chế biến lúa và phân phối thực phẩm cho dân làng Daakpo. [2] Người lãnh đạo đoàn