Chương 3


Chương I
Thư gửi tuổi thơ ấu của Huế

Mi Ki thân mến,
Tôi phải nói với Ki về thành phố đó. Chúng ta đã sinh ra, đã sống ở đó, ít nhất là một phần của tuổi thơ ấu. Tuổi thơ ấu của Ki đã cho tôi thật đầy đủ. Những ngày ở bãi biển Thuận An, đi lang thang ngoài biển, bắt cào cào, đào trộm khoai, chơi cút bắt, hay thơ thẩn một mình ngoài đồng rộng chạy đuổi theo những bông cỏ lăn theo gió. Tắm ở phá Tam Giang, giữa trưa nắng, cát nóng bỏng như lửa. Ki đã chạy nhảy, chân giẫm từ đám cỏ khô này qua đám cỏ khô khác để tới rừng dương, nhìn một cái hồ nhỏ đầy cá mặt trăng. Cá mặt trăng, những mặt trăng nhỏ, trắng muốt của tuổi thơ chúng ta tung tăng trên mặt hồ, bên những cành dương rủ bóng, kênh kiệu một cách đáng yêu với bờ đê, với bãi biển kêu gọi, rủ rê suốt ngày tháng.
Rời bỏ Thuận An, Ki bé nhỏ, quê mùa của tôi bước chân lên thành phố. Bỡ ngỡ và rụt rè, bị bắt nạt, nước mắt, đó là đặc điểm của Ki thời đó. Bị bắt nạt là đáng lắm, bởi Ki chỉ biết có bãi cát trắng phau, với những đợt sóng liếm vào bờ suốt ngày không biết chán. Ki chỉ biết có những con đường làng cát bẩn rụng đầy hột keo khô, lẫn với vỏ nghêu, vò sò vỡ. Bị ném vào một thành phố đầy trẻ con tinh ranh, Ki làm sao chống đỡ nổi. Tội nghiệp Ki của tôi hồi tám chín tuổi với một phố Huế xa lạ, giục giã sự tò mò. Ki vẫn giữ khuôn mặt đen dịu, đôi mắt vàng chói nắng biển, mái tóc cắt ngắn kiểu con trai, mặc quần sọt với áo sơ mi bởi vì ba chúng ta muốn có một đứa con gái ngộ nghĩnh hơn là xinh đẹp. Ki bắt đầu đi học, Ki có bạn mới, Ki quên bãi biển Thuận An, quên làng quê buồn hiu nhưng thơ mộng đến nỗi có những đêm mơ thấy bầy cá mặt trăng bơi lội tung tăng trên mặt hồ đớp ánh sáng xanh mát, hoặc những cành dương dài như những cánh tay khẳng khiu vẫy vẫy, Ki đã khóc trong giấc ngủ. Hoặc đôi khi đang ngồi trong lớp học, Ki bỗng nghe thấy một âm thanh gì rì rào quen thuộc, Ki nôn nao cả người và chợt nhớ ra âm thanh đó giống tiếng sóng biển mà Ki đã nghe hoài huỷ hồi ở quê mẹ. Chúng ta thực tức cười phải không Ki, hồi đó chúng ta cứ tưởng Huế với Thuận An là hai miền xa cách như bây giờ Sài Gòn với Hà Nội vậy. Vừa biết Huế, gia đình ta ở An Cựu, cạnh nghẹo đường xay. Chúng ta có thể chạy lông bông, nhưng không còn được thong thả như hồi ở nhà quê nữa vì chúng ta phải canh chừng những chiếc xe nhà binh với những ông Tây to lớn, mặt luôn luôn đỏ kè như say rượu. Chúng ta thấy phía này có ruộng, phía kia có bờ sông, có cầu đúc nối sang bên chợ. Ki có còn nhớ cây bông búp cao mọc ở cạnh chân cầu đó chớ. Cây búp mà chúng ta thường ao ước nhặt những búp khô rụng, thổi phồng lên như đã từng thổi chiếc bong bóng lợn của dượng Tin cho hồi còn ở Thuận An. Thêm một hai tuổi gì đó, chúng ta rời An Cựu, được gửi học nơi nhà một ông giáo nhà ở tít dưới Mù U, Ki đã trốn học, đã khóc và bị ăn roi đến quắn đít vì bướng. Ki đi học đàng hoàng. Mùa nắng Ki mặc áo hoa, đi guốc. Mùa mưa, Ki còn nhớ không, chúng ta mang cái tơi bằng lá, tròng từ đầu xuống cổ, có sợi dây thừng nhỏ rút trước cổ, buộc chặt cho gió khỏi bay. Ngôi trường tiểu học ở thật xa tít giữa bãi hoang có nhiều đất sét. Xung quanh lại có nhiều mồ mả nữa. Những đứa trẻ tinh quái thường doạ có nhiều mả Tàu Ô lắm, rồi chúng ta được nghe nhiều chuyện kinh hoàng về giặc Tàu Ô. Nhà chúng ta ở nơi một con đường rất dốc. Dốc cao đến nỗi người lớn nói đứng trên đầu dốc có thể nhìn thấy cột cờ Phú Văn Lâu. Nhưng Ki nghểnh cổ, nhón chân, cũng chỉ nhìn thấy những đọt phượng mùa hè đầy bóng đỏ rực, mùa đông lủng lẳng những quả dài sắc cong như lưỡi mác. Phía trên đầu dốc kia là Đàn Nam Giao, nghe nói đường đi xa lắm, chân của Ki thì quá ngắn. Cho tới khi tôi đi được chiếc xe đạp, ngang qua con đường đất vòng quanh Đàn Nam Giao, tôi cười mãi về sự tưởng tượng của Ki hồi còn nhỏ, và nhớ Ki như một phần hồn, phần thơ ngây của mình đã mất vĩnh viễn.
Ki còn nhớ không, trước mặt nhà chúng ta là ngôi nhà cô bạn nhỏ tên Chín. Trước sân nhà Chín có vài cây nhãn, dưới gốc cây bọn con nít thường chơi trò buôn bán với vỏ hến, lá cây hoặc những sa thạch vò nát đẹp phơi nắng. Bọn nhỏ còn đánh thẻ, đánh thẻ nẻ đau, đôi khi bầm tím cả đôi chân. Tụi nhỏ còn đánh ô làng bằng hạt cây thầu đâu, cây thầu đâu mà khi lớn lên tôi biết nó còn được gọi thêm hai ba tên là sầu đâu hay sầu đông cũng được. Trong căn nhà của Chín, Ki thường hay thắc mắc về một ông cụ già mà người lớn gọi là ông Huyện. Ông thường đội khăn đóng, mặc áo dài đen, mỗi lần sang Chín chơi trông thấy ông Ki thường núp sau bể cạn. Người ta nói thời trước ông Huyện oai lắm, ông làm quan, dân đi ngang qua nhà phải cúi đầu không thì bị lôi vô đánh đòn. Ki không những cúi đầu mà còn trốn biệt sau chiếc bể cạn, Ki sợ đánh đòn lắm. Nhưng ông Huyện hiền lành lắm, ông lôi Ki ra chỗ núp cười bảo vô nhà chơi với Chín. Ông nhìn tụi nhỏ nghịch đất cát, ông ngồi ngắm mấy chậu cây. Ki vô nhà thấy có treo tấm ảnh của ông lớn lắm, ông ngồi trên chiếc ghế chạm trổ có lính hầu đứng quạt nữa. Một tấm gỗ láng bóng nổi lên ba chữ nho to tướng như bằng vàng, giữa nhà có sập gụ. Ki lấy làm ngạc nhiên vì nhiều nhà có những thứ lạ mắt như thế. Huế cũng quyến rũ Ki lắm chứ, những ngày đi học, ghé vô sân chùa lượm me rụng, đào rụng, hay tha thẩn dọc đường hái trái ngũ sắc chín đen, trái mắm ruóc chín vàng, ăn ngọt đỡ khát nước. Dần dà Ki quen với Huế, thân với Huế hẳn hoi, Ki thường ngẩn ngơ ngắm những chị lớn tóc xoã dài, áo trắng đội nón lá, đi thướt tha yểu điệu. Trông họ đẹp và rườm rà quá. Rồi chính Ki, Ki cũng bỗng theo họ từ lúc nào. Nhưng khổ thay càng ngày Ki càng thấy trong cái thân thể Ki đang trú ngụ bỗng xa rời Ki mãi. Cho tới lúc cái thân thể đó rũ bỏ chiếc áo ngắn để thay bằng chiếc áo dài lụa đầu tiên, mái tóc ngắn được nuôi dài và biết che bằng nón lá. Nó đã hất hủi ánh nắng mặt trời vàng tươi Ki mang từ biển, tay chân nó trúng, cả thân thể Diễm bay kẹt vào một bụi cây. Chỉ nghe chừng đó Phan đã bụm mặt khóc oà, chàng không còn đủ sức hỏi thăm thêm gia đình Diễm nữa. Mười mấy ngày sau, khi bến Ngự đã dẹp xong, Phan là người trước nhất đi dọc theo đường rầy xe hoả về bến Ngự. Dọc đường, Phan đã nhận ra xác Diễm. Diễm chỉ còn lại đầu tóc, gương mặt đã bầm dập, cả người đã sinh thối, nàng kẹt vào giữa bụi cây, và những dòng nước vàng đã chảy xuống. Cánh áo phin trắng của Diễm đã rách nát, nhưng nơi ngực áo, hai chữ P D lồng nhau thêu bằng chỉ trắng vẫn chưa bị mục, và nhờ đó Phan nhìn ra xác Diễm. Diễm mất một cánh tay, và nơi bàn tay còn lại, Phan không nhìn thấy ngón đeo nhẫn đâu hết. Ngón tay đeo nhẫn của Diễm đã bị cắt lìa. Phan tìm cùng khắp không thấy vết tích đốt tay và chiếc nhẫn đó nữa.
Khi đem xác Diễm về tẩm liệm, mọi người phát giác ngón tay đeo nhẫn của nàng đã nằm gọn trong đám ruột bầy nhầy, không ai hiểu tại sao, và chiếc nhẫn cũng không tìm thấy.
Chôn cất Diễm xong, Phan đi tìm mẹ Diễm, bà đang nằm tại một bệnh viện của Mỹ. Phan tìm tới ngôi nhà cũ của Diễm, ông nội nàng đã chết, chị Tư cũng đã chết, xác của Văn, của ông nội, của chị Tư bị chó chui vào gặm nát, người mất tay, người mất chân. Khi dở cái sập gụ ra để lôi những xác chết, Phan đã tìm thấy bức thư của Diễm.
Chiếc xe của Diễm vẫn còn nguyên, dựng ở một góc tường chưa bị sập. Phan dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà, chàng dắt đi bộ chớ không ngồi lên đạp.
Căn nhà của Phan chỉ bị thủng mấy lỗ đạn. Những ngày sau đó, bạn bè của Diễm còn sống sót, chiều đi ngang qua con đường hàng Đoát thấy Phan ngồi trên chiếc xe đạp, dắt theo một chiếc xe đạp, và bên ghi đông chiếc xe không người, lủng lẳng cột một chiếc nhẫn vàng. Bạn bè không ai dám hỏi thăm, dám an ủi, vì Phan không bao giờ trả lời, không bao giờ đứng lại nghe ai nhắc tới tên Diễm.
Con đường hàng Đoát đến bây giờ vẫn còn đẹp, và chiều chiều vẫn còn những đôi tình nhân song song đạp xe đi trên đó. Bóng dáng của Diễm cũng như những đống gạch vụn, những dấu bom đạn đã lùi dần trong trí nhớ bạn bè. Người ta bắt đầu quen dần với cảnh Phan vừa đi vừa dắt thêm một chiếc xe đạp bên cạnh. Không ai còn thì giờ nhắc tới mối tình của họ.