Tôi nghỉ lại một nhà khách dành cho những người đến Cửa Lớn tắm biển. Tôi đến đây không phải để tắm biển. Mục đích chuyến đi của tôi coi như đã hoàn tất. Tôi lãnh đạm nhìn những kẻ mặc đồ tắm ôm phao chạy ra chạy vô. Nhẩy nhót hí hửng giỡn sóng như một đám bọt bèo biển mới xô dạt vào bờ. Rồi tôi sẽ quăng mình vào những chuyến tàu xuyên đại dương cơ. Đám người kia có trong mơ cũng chẳng dám mơ những chuyến đi xa như vậy, mạo hiểm như vậy. Thế mà tôi chưa muốn về ngay. Có một cái gì đó níu chân tôi lại. Sáng hôm sau, tôi lại leo lên núi, đến chùa Bảo Sơn. Mai Trừng đưa tôi đến gặp sư cụ, giới thiệu có anh Đông là bạn mới ở ngoài Hà Nội vào chơi. Sư cụ mắt đã kém, chỉ Nam Mô A Di Đà Phật, quý hoá quá, rồi cho phép Mai Trừng dẫn tôi đi vãn cảnh chùa. Chúng tôi lại ra ngồi chỗ bàn cờ tiên. - Đêm qua, em lại mơ đúng giấc mơ ấy. Mai Trừng nói. Giấc mơ ấy cô đã kể với tôi. Những ngày ở đây, thỉnh thoảng Mai Trừng lại mơ thấy có một bóng người đến dẫn cô đi. Đi qua một con đường lớn và dài. Rồi rẽ ngoặt vào một lối đi nhỏ trong rừng. Lướt qua những bụi cây cành cây gai góc bùng nhùng. Bay trên một cánh rừng đã dày rậm xanh lá, dù thảng hoặc vẫn chen lẫn những thân cây bị cháy thiêu trơ trụi. Đến bên một con suối cạn thì bóng người dẫn đường biến mất. Mai Trừng cũng tỉnh dậy. Phấp phỏng và hoang mang. Cảm thấy một điều linh báo mà không hiểu thực sự có chuyện gì. - Đêm qua, em lại đến bên con suối cạn. Như vậy là lần thứ tư em mơ thấy nó. Lần này em đã leo lên những tảng đá to bị bào trơn tròn trĩnh như những trái cây khổng lồ. Em ngồi trên một hòn đá ấy. Người dẫn đường ra hiệu vẫy em đi tiếp. Em chưa kịp đứng dậy thì cái bóng biến mất... Mai Trừng hơi gục đầu xuống. Hai bàn tay đỡ lấy gương mặt đang chìm đắm vào cõi rất xa nào. Tôi ngồi yên, chẳng biết giúp gì được cho cô. Bất chợt có tiếng chân thình thịch đi tới. Mai Trừng giật mình, trở về với thực tại. Giềng mang đến một rổ khoai lang luộc còn nóng. Ăn đi em, ăn đi cháu. Chị đưa rổ khoai cho chúng tôi. Vùng này chỉ có thứ khoai này là đặc sản. Ruột vàng nghệ và chắc, ngọt và bùi. Uống với nước chè xanh vàng sánh chỉ một lần cũng khó quên. Tôi đã gặp Giềng từ chiều hôm qua. Người đàn bà tầm thước, đôi bàn chân to lạ lùng. Chị cứ đi chân trần, một ngày gánh mấy gánh nước từ dưới chân núi lên chùa. Đang lúc khô hạn. Trời không cho một hạt mưa. Nhà chùa lâu nay chỉ cần dùng nước mưa chứa trong một cái bể lớn. Nước mưa giờ đã hết, phải nhờ vào người đàn bà lực điền sốt sắng làm công quả. Tôi ái ngại đưa cho Giềng đôi giầy bata cỡ 42 của mình. Chị cố thọc đôi bàn chân to dầy vào mà không được. Chân chị phải lớn hơn thế chừng hai số. Đôi bàn chân không cân đối với người. Đôi bàn chân nặng nề phiền muộn, sứt sẹo thương tích và chai sạn nỗi đau. Giềng định đi luôn, nhưng Mai Trừng vội giữ tay chị lại: - Cô Giềng, bác Miên kể rằng ngày trước ở gần trạm có một con suối. Cô có nhớ không? - Đúng rồi, có một con suối. Thỉnh thoảng ba chị em vẫn ra đó tắm giặt. Thì cha cháu cũng hy sinh ở đó. - Cô có nhớ đường đi tới nơi ấy không? - Lâu quá rồi. Hết chiến tranh, ai quay lại mần chi. Nhớ đường sao nổi. Người đàn bà lắc đầu. Chị định quay về chùa với chiếc đòn gánh và đôi thùng gánh nước. Mai Trừng vẫn nắm chặt tay chị. Cô nói như đang dò theo một con đường trong trí nhớ. - Cháu đã tới bên con suối. Nhưng suối biến thành suối cạn rồi. Lòng suối có những tảng đá to. Có ba hòn đá lớn, như ba trái xoài chụm vào nhau... - Rứa thì đúng rồi. Giềng thảng thốt kêu lên. Chị kể cả bọn ngày ấy vẫn bảo ba hòn đá đó là chỗ dành riêng cho ba chị em ngồi tắm. Cởi hết quần áo ra, mỗi đứa leo lên ngồi trên một hòn đá, có khác gì ba nàng tiên cá. Nhưng có bao giờ được tắm cả ba người cùng một lúc đâu. Một người tắm thì hai người phải cầm súng canh chừng ở hai đầu khúc suối. - Con suối ấy cạn rồi sao? Giềng như tự hỏi, như luyến tiếc. - Vậy thì cháu mơ nữa đi. Coi xem đường đi ra sao. Linh ứng lắm đó. O chỉ nhớ tên vùng đó là A Si. Đường sá thì quên mất rồi. Giềng ân cần dặn thêm. Tôi cũng thực lòng mong như vậy. Mai Trừng sẽ tìm ra lối cũ để thu lượm được dấu tích của mẹ của cha. Nhưng tôi cảm thấy mỗi giấc mơ là một hành trình thực sự khổ ải đối với cô. Người ta bay trong mơ cũng hao tâm tổn lực như trèo đèo lội suối vậy thôi. Sáng hôm sau, Mai Trừng nói đêm qua cô đã trèo lên ba hòn đá như ba trái xoài. Sau đó, cô đi men theo bên tả của con suối cạn, ngược lên phía thượng nguồn. Đến bên một gốc cây rêu phủ xanh rì thì rẽ trái đi về phía vách đá. Tới đây thì gặp dấu tích của một lán tranh đổ nát. Văng vẳng tiếng nói của người dẫn lối, một giọng nam trầm ấm. Con đã tìm ra đường rồi đó, lên đường đi con. Vậy là đã rõ. Mai Trừng phải lên đường. Cô sẽ tìm được hài cốt của cha mẹ. Tôi giở sổ tay, ghi lại tên vùng A Si, đến cây số bao nhiêu thì rẽ trái khỏi đường quốc lộ, xuyên qua những mốc nào để tới con suối cạn, quãng đường từ con suối cạn đi lên ra sao... Quãng đường từ con suối cạn ngược lên được chị Giềng xác nhận. Trong trí nhớ ít ỏi của chị, chỉ còn lại rõ ràng khoảng cách ấy. Tôi nói sẽ đi cùng Mai Trừng. Cô nắm tay tôi. Im lặng. Tôi đi sắm một bộ cuốc xẻng, xà beng. Hai con dao đi rừng. Hai chiếc áo mưa và mấy tấm vải nilông. Giày vải và ủng cao su cho hai người. Đèn pin và một tá bật lửa ga dắt khắp người. Thực phẩm khô và nước uống. Kem bôi chống muỗi và chống vắt. Tất cả được bỏ gọn vào hai chiếc ba lô du lịch. Địa bàn đã có sẵn bên chiếc đồng hồ đeo tay. Giờ đã đến lúc lên đường. Một chiếc xe, hai chúng tôi cùng với con Ki. Chúng tôi đi trở lại con đường vào chiến trường năm xưa. Dáng vẻ như cán bộ cấp tỉnh đi công tác. Càng đi sâu vào, con đường càng trở nên heo hút. Thảng hoặc gặp những tốp người dân tộc lẻ tẻ trên đường. Da dẻ đen sạm, héo hắt. Con đường bị lãng quên. Con người bị lãng quên. Một vùng rừng núi bị lãng quên. Sau hai ngày, chúng tôi đến gần vùng A Si. Không nên đi tiếp bằng ô tô. Tôi cho xe rẽ vào một thị trấn vùng cao. Thực ra chỉ là hai dãy nhà xây hai bên một con đường. Trẻ con, người lớn kéo ra xem một chiếc xe với họ là quá sang trọng. Mấy nhà trọ không nhận trông xe. Ở thị trấn này chiếc xe là cái đĩa bay từ hành tinh khác đến. Người ta sẽ kéo tới, trèo lên tường, lên cây, lên mái nhà để nhìn ngắm. Cả ngày. Cả đêm. Rốt cuộc, tôi phải đánh xe đến đồn công an thị trấn. Tôi xuất trình chứng minh thư, bằng lái xe, giấy chứng nhận sở hữu xe. Tôi giới thiệu Mai Trừng là người đi tìm hài cốt cha mẹ hy sinh ở vùng A Si trong chiến tranh. Trưởng đồn công an đồng ý cho gửi chiếc xe. Anh bảo nếu chúng tôi cần sẽ cử một chiến sĩ tên là A Dai quê ở vùng đó dẫn đường đi tiếp. Còn gì hơn thế nữa? Chúng tôi (tính cả con Ki) mang ba lô xẻng cuốc xà beng, đi bằng bốn chiếc xe ôm, loại xe Minsk, lên vùng A Si. Xe phóng qua một cái cột mốc thì Mai Trừng kêu xe dừng lại. Cô bảo đã nhận ra lối rẽ giống như lối rẽ cô đã thấy nhiều lần trong mơ. Chúng tôi thả cho bốn người xe ôm quay về. A Dai giành mang giúp ba lô và xẻng cuốc cho Mai Trừng. Anh ta và tôi đi trước, dùng dao phát quang các bụi cây và dây leo. Đi được một lát thì Mai Trừng trở nên bối rối. - Không được. Các anh phải để em đi trước. A Dai nói có nhớ mang máng một con suối cạn đâu đây. Hãy để anh đi trước dẫn đường. Anh xăm xăm định đi theo một lối mòn mờ mờ phía bên phải. Nhưng Mai Trừng bỗng reo lên: - Em đã nhận ra đường rồi. Cô chỉ tay về phía bên trái. Phía ấy không có lối mòn. Dây leo chằng chịt. Phải mất một thời gian khá lâu, chúng tôi mới chém chặt được các bụi cây, mở ra một lối đi. Loay hoay mãi cho tới trưa. Mai Trừng tiến lên, lùi lại, tạt sang phải thì gặp vực sâu, tạt sang trái thì phát hiện ra một con đường mòn bỏ quên đã lâu. Cỏ mọc cao và dây leo bò ngổn ngang. Cô như người đã bị nhập đồng, cứ lao đầu về phía trước. Đi như người mộng du. Đi như có người cầm tay dẫn đi thì đúng hơn. Chúng tôi bước gằn theo cô mà nhiều lúc không theo kịp. Khoảng hai giờ chiều thì gặp con suối cạn. Đúng như trong giấc mơ của Mai Trừng. Đúng như trong ký ức giản đơn của chị Giềng. Giữa lòng suối có rất nhiều tảng đá bị bào cho trơn nhẵn. Nổi lên giữa chúng là một cụm ba hòn đá lớn như ba trái xoài chụm đầu vào nhau. Tôi bất chợt tưởng thấy có ba nàng tiên cá nõn nà ngồi trên đó. Họ mỉm cười bí ẩn đằng sau một màn khói mờ ảo. Dòng suối nay chỉ còn là một dòng đá cuội màu trắng, có những viên sáng lấp lánh. Những hòn đá bằng nắm tay, bằng trái bưởi, bằng quả bí ngô. Những tảng đá to bằng cái chum nước rải rác đây đó. To nhất là ba trái xoài chụm đầu thành chùm. Cả một dòng suối đá khô khốc uốn mình len lỏi trong rừng. Mai Trừng lật đật chạy qua con suối đá. Sang đến bờ bên tả, cô chạy men theo bờ. Đang chạy, bất đồ cô vấp một cái, tung mình lên rồi ngã vật xuống cùng một tiếng thét vỡ toang lồng ngực. Cô nằm ngửa trên mặt đất, thân người quằn quại, thở hồng hộc như một người đang bị rạch bụng, bị moi sạch tim gan. Chân tay cô bất động như bị giữ rất chặt. A Dai và con Ki định lao tới, nhưng tôi ra hiệu cho tất cả đứng yên và giữ im lặng. Mai Trừng oằn người lên từng đợt. Oằn lên từng đợt. Cuối cùng, cô xuội hẳn chân tay ra. Nằm bất động. Thình lình Mai Trừng đứng vụt dậy. Không còn là cô gái ấy nữa. Đó là một linh hồn đang lao vút về phía thượng nguồn. Chúng tôi tức tốc đuổi theo. Cô băng qua những bụi cây, đâm đầu vào một gốc cây rêu phủ xanh rì. Cô ngã xuống, rồi đứng dậy ngay. Rồi rẽ trái, lao về phía một bức tường thành bằng đá.. Chạy qua dấu tích một cái lán tranh đổ sập đã lâu, chỉ còn ngổn ngang những cành tre nứa bầm dập, Mai Trừng cũng không dừng lại. Cô chạy thêm một quãng nữa. Cuối cùng cô hổn hển dừng lại bên một khoảng đất trống, cỏ mọc lút dầy. Hai tay sờ soạng về phía trước như một người mù. Mai Trừng lẩm bẩm điều gì đó. Người cô run lên. Run nhè nhẹ. Cơn rung lắc mạnh dần lên. Rồi cả thân người rung bần bật. Cô đổ vật xuống, nằm sấp trên mặt đất. Hai tay dang ra như ôm ngang một vật nào đó. Một lát, cô động đậy tay chân. Ngồi dậy. Rồi cô bò sang khoảng đất bên cạnh. Lại nằm sấp xuống. Lại dang hai tay như ôm một ngôi mộ. Con Ki hơi khịt khịt mũi. Mắt nó nhoèm nước. Tức là nó đã phát hiện ra nơi có hài cốt. Nó vốn thính nhạy với di hài của những người quá cố. Lâu sau. Mai Trừng bò dậy. Cô không còn biết đến chúng tôi đang đứng cách một quãng ở đằng sau. Cô quỳ gối, chắp tay khấn vái những gì nghe không rõ. Sau một lúc, giọng cô bỗng cao dần lên: - Con lạy cha, con lạy mẹ, cha mẹ hãy giải thoát cho con khỏi sứ mệnh đi trừng phạt cái ác. Hai mươi sáu năm con phải đi trừng phạt như vậy là dài quá rồi. Gió thổi xao xác. Từng lớp cỏ bị đè rạp như có người đang bước qua bước lại trên đó và suy nghĩ lung lắm. Có tiếng rì rào như bàn bạc, như khuyên nhủ. - Nhưng mẹ ơi, chừng nào còn cõi người thì còn cái ác, cũng như cái thiện vậy thôi. Diệt trừ cái ác là việc của mọi người, sao lại bắt một đứa con gái đơn độc như con phải làm việc ấy? Gió lại giận dữ thổi qua. Toàn thân Mai Trừng run lẩy bẩy. - Xin cha mẹ cho con trở về làm một đứa con gái bình thường. Con cũng muốn yêu và được yêu. Người ta yêu con thì đâu có gì là ác độc, cớ sao người ấy cũng bị xuống tay trừng phạt? Một tiếng gió âm trầm tràn qua. Một tiếng gió thanh thanh yếu ớt phản bác. Những lớp cỏ vừa ngóc lên lại bị đè rạp xuống. - Lần này con xin phép đưa cha mẹ về chùa Bảo Sơn. Cha mẹ hãy yên nghỉ vĩnh viễn ở đó. Cô Giềng cũng đang ở đó. Cô ấy sẽ chăm sóc khói hương cho cha mẹ thường xuyên. Mai Trừng cúi gục đầu rất lâu. Cô đang lắng nghe lời căn dặn của bậc phụ mẫu ở cõi vĩnh hằng. Hai luồng gió trầm ấm và thanh thanh cứ nối tiếp nhau tràn qua. - Con xin nghe theo lời cha mẹ... Hạnh phúc chỉ thực sự có chừng nào cha mẹ cho con thoát khỏi sứ mệnh ấy... Ôi, con biết là cha mẹ sẽ bằng lòng mà. Cô bỗng đổ vật xuống. Lại giãy giụa trong cơn run quằn quại. Một cái gì đó đang bị xé rách trong người cô, bị giật ra từng mảng, bị rút dần ra như một sợi dây mảnh và bất tận. Rồi vút một cái, tất cả bay thoát lên khỏi người cô. Mai Trừng quẫy đạp mấy cái nữa rồi lật nghiêng người. Cặp mắt lờ đờ hết hồn của cô dần dần trở lại tỉnh táo và tinh nhạy. Cô từ từ ngồi dậy. - Đây là cha em. Đây là mẹ em. Cô chỉ hai khoảng đất bằng, cách nhau chừng vài mét, chẳng có vẻ gì là hai nấm mộ. Con Ki lập tức xông đến. Nó hít nó ngửi cả hai nơi. Đuôi nó vẫy rối rít. Như vậy là nó đã xác nhận điều Mai Trừng nói. Ba chúng tôi dùng dụng cụ mang theo để khai quật hai nấm mộ. Những tấm vải ni lông quấn quanh tử thi vẫn chưa mục nát. Chúng tôi dùng những tấm ni lông mới bọc gọn hai bộ hài cốt lại. Xong xuôi thì đã xế chiều, nhưng tất cả đều quyết tâm quay trở ra. Chúng tôi có đèn pin và A Dai đã dự phòng mang theo mấy khúc nứa khô làm đuốc.