1. Quản lý là một khoa học và một nghệ thuật đòi hỏi phải học tập, có bản lĩnh và sự dũng cảm tìm đến cái mới, tính hiệu quả và đáp ứng những lợi ích của nhân viên. 2. Muốn gây uy tín như một áp lực ảnh hưởng đến nhân viên thì người quản lý luôn ý thức mình là người đứng đắn, có năng lực lãnh đạo, đáp ứng những lợi ích của nhân viên, không làm tổn hại đến lợi ích của họ. 3. Trong việc quản lý, người thủ trưởng phải gieo sự kính phục vào lòng cấp dưới. 4. Người quản lý phải quan sát và giải quyết những vấn đề đại cục (quan trọng) chứ không nên bị thu hút vào một vài công việc nhỏ nhặt nào đó, mặc dù họ vẫn phải quan tâm đến những vấn đề nhỏ. Điều quan trọng là họ phải nhìn được một cách tổng quát những nhiệm vụ lớn phải giải quyết. 5. Người quản lý nên nêu gương thực hành những nội dung, chỉ thị mà bản thân mình đề ra cho cấp dưới, đừng bao giờ miệng thì ra luật nhưng hành động lại phá pháp luật. Người quản lý cần gương mẫu để nhân viên noi theo. 6. Người quản lý không cần làm hết mọi việc mà điều quan trọng là phải phân công ai làm cái gì hợp với sở trường, sở đoản của họ, còn cái gì không được làm hay làm bậy thì phải ngăn chặn kịp thời. 7. Người quản lý phải biết đâu là sở trường, sở đoản của mình để biết được công việc nào thì mình phải đích thân làm và có thể làm được, và việc nào thì phải nhờ đến nhân viên, hoặc thậm chí phải cộng tác với cơ quan khác để nhờ họ, dù là nhờ người mà mình thân hoặc không thân. 8. Người quản trị doanh nghiệp không bao giờ được quên rằng sở dĩ mình có quyền, mình mạnh, có uy tín lớn là nhờ ở lực lượng ủng hộ là nhân viên. Vì thế, không được khinh rẻ nhân viên, không được tưởng rằng lực lượng, uy tín lớn lao đó tất cả là do mình tạo ra. Nhân viên yêu mến người quản lý chính là một lực lượng quan trọng không thể thiếu được để củng cố uy tín của người quản lý. Vì thế, một người quản lý khôn ngoan không bao giờ được ly gián, xa lánh cấp dưới. 9. Một doanh nghiệp bao giờ cũng cần phải ổn định để mọi người an tâm làm việc. Vì thế, người quản lý phải sống sao cho nhân viên mỗi lần nhìn vào cảm thấy lòng tin tưởng, yên tâm phấn đấu. 10. Người quản trị nên tôn trọng ý kiến của nhân viên, lắng nghe các ý kiến của họ, nhưng khi quyết định thì phải chủ động trên cơ sở thâu tóm hết các ý kiến rồi chọn lấy cái hay, cái đúng để đúc kết thành những điều có ích cho tập thể. 11. Người quản lý phải biết yêu mến nhân viên, nếu muốn gây uy tín. Tình cảm đó phải được hun đúc cùng với lòng kính phục, tín nhiệm trước những lợi ích lớn lao mà người quản lý đem lại cho tập thể. 12. Khi có ai đó oán trách hay chỉ trích một nhân viên nào vắng mặt thì chỉ nên nghe để biết chứ không được a dua mà nói xấu nhân viên của mình trước mặt cũng như khi vắng mặt họ. 13. Nhà doanh nghiệp phải biết nỗ lực để thực tiễn hóa, sinh động hóa những điều mà mình học trong sách vở, phải đối chiếu sách vở với cuộc sống và phải biết bổ sung những kinh nghiệm của cuộc sống vào quá trình quản lý. Không có một công nghệ nào trong sách vở lại có thể cố định mãi mãi và điều quan trọng là nhà quản lý phải biết bổ sung thêm cho kiến thức sách vở từ những tình huống mới nảy sinh trong trường đời. 14. Người quản lý thường phải đến nơi làm việc đúng giờ và phải rời chỗ làm việc cuối cùng. Tại sao vậy? Bởi vì họ phải đúng giờ giấc một cách sát sao trước rồi hãy bắt mọi nhân viên làm theo. 15. Người quản lý phải có ít nhất 6 đức tính sau: a) Tín (Nói làm, thực hiện các hợp đồng như đinh đóng cột). b) Trí (Khôn ngoan, thông thạo chuyên môn và chỉ huy giỏi). c) Dũng (Giàu nghị lực, dám mạo hiểm tìm cái mới và áp dụng cái mới). d) Quan hệ rộng rãi với: Chính quyền, giới thương gia, giới trí thức. e) Nhân (Có đạo đức, có lòng nhân ái, yêu mến nhân viên mà không nhờn và không bị lạm dụng). g) Nghiêm (Công bằng, chính tắc mà không quá khắc nghiệt). 16. Người quản lý phải quyền biến, tức là tùy tình hình thực tiễn trong kinh doanh mà ra lệnh. Phải tùy thời chứ không xu thời. 17. Người quản lý phải trung thành với luật pháp, nhưng khi áp dụng thì phải linh hoạt, quyền biến. Nên áp dụng lời của một nhà tâm lý nổi tiếng: “Càng cứng rắn càng thương người”. 18. Người quản lý không phải bỗng dưng đã có ngay đầy đủ các phẩm chất của người quản lý mà phải học kinh nghiệm của những nhà doanh nghiệp nổi tiếng, những nhà lãnh đạo nổi tiếng trong nước và trên thế giới để điều chỉnh, sửa cách quản lý, cách ứng xử của mình. Mao Trạch Đông đã thường xem phim, truyện của Pi-e Đại đế, của Napôlêông... để sửa mình. Còn Napôlêông thì cũng đã có lúc phải sửa dáng đi, dáng đứng của mình để tăng thêm uy quyền đối với cấp dưới. 19. Luôn coi các hoạt động trong doanh nghiệp phải tuyệt đối trật tự; bởi hỗn độn, xáo trộn sẽ làm giảm hiệu quả của các hoạt động kinh doanh. Không được bỏ qua sự lộn xộn của nhân viên. 20. Có những khi nhân viên bị hiểu lầm, bất mãn, cãi cọ thì người quản lý vẫn phải trầm tĩnh để nghe họ tự vệ; qua đó, người quản lý vạch ra cho họ thấy phải trái và nếu cần thiết thì sẽ kỷ luật họ sau. 21. Người quản lý không nên dùng những lời nói cay độc, cử chỉ hiểm ác với nhân viên. 22. Người quản lý khôn ngoan là người biết khéo léo hòa mình trong giới nhân viên, giao thiệp với thái độ bình dân. Khi có công việc gì, biết tham khảo ý kiến mọi người nhưng không thụ động để nhân viên quyết định. 23. Nhà doanh nghiệp nên tập thói quen quyết định nhanh chóng những công việc hàng ngày để sao cho không ùn tắc ngày này sang ngày khác. 24. Người quản lý không nên ỷ mình là cấp trên mà coi thường bất cứ ai dưới quyền mình như hạt cát, hạt bụi. Bạn phải kính trọng người khác trước. 25. Người quản lý không nên ích kỷ, đề cao cái “tôi” của mình khiến người khác ghen ghét. 26. Người quản lý phải rèn luyện nghệ thuật dẫn dụ: Từ phong cách đi đứng, cử chỉ cho đến ngôn từ, người quản lý phải có tiềm lực để thu phục người khác qui phục mình. 27. Người quản lý muốn nâng cao uy tín, uy quyền thì phải thường xuyên tự đào luyện trên các phương diện sau: a) Luôn luôn tự học, tự đọc một cách nghiêm túc các tài liệu về chuyên môn của mình và am tường đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Một Tổng giám đốc nổi tiếng của một công ty gang thép Đài Loan đã luôn luôn chịu khó đọc các tạp chí chuyên môn để nâng cao kiến thức và vận dụng ngay trong xí nghiệp của mình. Trên bàn giấy của ông thường để nhiều các tạp chí hơn là các chỉ thị, công văn. Vì thế công ty của ông phát triển rất nhanh. b) Luyện đức độ để nhân cách phát triển. c) Luyện phong độ bên ngoài cho điềm đạm. 28. Người quản lý phải tùy thời, hành động của con người không thể trái với thời thế nhưng muốn nắm được thời thế để hành động cho có hiệu quả nhất thì người quản lý phải tự tạo cho mình những khả năng, bản lĩnh, kiến thức, quan hệ cần thiết và đó chính là tạo thế; nếu không có thế, thì dù thời cơ đến, nhà doanh nghiệp cũng đành chịu bó tay, hoặc là không khai thác hết thời cơ đem đến. Cho nên, nhà doanh nghiệp phải biết kết hợp thời và thế trong kinh doanh. Người quản lý cũng phải biết linh hoạt khi vận dụng lý luận trong thực tiễn sản xuất kinh doanh. Người quản lý phải hành động theo lý thuyết cơ bản về kinh doanh thì mới bảo đảm được hiệu quả. Nhưng không phải lúc nào cũng rập khuôn máy móc theo lý thuyết, mà điều quan trọng là phải biết biến hóa, tức là phải biết “quyền biến” khi thực tiễn kinh doanh đã thay đổi. Như vậy, nhà kinh doanh phải nắm chắc chữ “thời”, tùy thời mà ra những quyết định đúng đắn để hiểu “trời” và biết “người”. 29. Cái cốt lõi của uy quyền trong quản lý là phục vụ, bởi vì nếu không nhằm phục vụ công ích, hay nói cách khác là để thỏa mãn những lợi ích của nhân viên thì nhân viên cũng không thể vâng lời của người quản lý. 30. Người quản lý cần phải thường xuyên đọc tiểu sử những nhà quản lý trong nước và trên thế giới để noi theo kinh nghiệm của họ và học những ưu điểm của họ sao cho phù hợp với điều kiện Việt Nam, biết tránh những khuyết điểm của kẻ đi trước. 31. Người quản lý thường lúc nào cũng phải đứng đắn, từ phong độ, cử chỉ đến ngôn ngữ, chữ viết. Nhưng không nên nghiêm trang đến mức ra vẻ kiểu cách. Không kiêu căng để tự ly gián mình với người khác, chỉ nên đứng đắn và mềm mỏng. 32. Nên biết chọn bạn và phải có nhiều bạn trong nhiều lĩnh vực nhưng phải chọn người bạn tri kỷ chứ không phải những người bạn chỉ biết đàn đúm, rượu chè, nhảy múa. Những người bạn thân không có nghĩa là lúc nào cũng phải cụng ly chúc tụng mà cái chính là tâm đầu ý hợp, ủng hộ và khích lệ nhau trong công việc và kế hoạch tương lại. Tình bạn sẽ gia tăng sức mạnh và trí tuệ cho anh trên đường đời. 33. Bạn nên giúp ích cho người khác và khi cần cũng nên biết nhờ người khác giúp mình. Mỗi người trong cuộc sống đều có những xu thế, khiếm khuyết, bạn bè và cộng sự chính là những người sẽ bổ sung cho bạn, gia tăng ưu thế cho bạn và hạn chế những khiếm khuyết. Không một ai trong chúng ta lại có thể xem thường dư luận hoặc xem nhẹ cảm tưởng của những người chung quanh. Cần phải giao du để người khác có thiện cảm với mình. Trong cuộc đời nhiều khi chúng ta nhờ ân sủng mà làm nên những sự nghiệp lớn. Không bao giờ được quên bạn bè, khi anh có một vài người bạn sát cánh với anh cả cuộc đời thì đó là vốn đáng quí nhất. 34. Người quản lý giỏi là người luôn bình tâm mỉm cười trước những khó khăn thách đố để tìm ra phương án vượt lên, phải đón nhận được những cơ may ẩn giấu trong những khó khăn thách đố. 35. Người quản lý phải biết bình tĩnh có kế hoạch, không vội vã khởi sự một công việc gì, mà phải hành động đúng chương trình đã hoạch định khiến cho các công việc cứ từ từ hoàn thành mà họ vẫn ung dung thanh thản. 36. Người quản lý phải biết dồn tâm lực vào một công việc nào đó để hoàn thành, dám vứt bỏ những công việc phụ để thành công những việc lớn. 37. Tỉnh táo, tỉnh táo và tỉnh táo. Tại sao vậy? Bởi vì dù gặp chuyện gì trong doanh nghiệp thì người quản lý vẫn phải tỉnh táo vì đục rồi thì cũng đến lúc phải trong; đừng hấp tấp, hãy điềm đạm chờ đợi để tìm cách giải quyết hữu hiệu. 38. Nhiều khi, những lời chỉ trích, lời khuyên không hiệu lực bằng sự mỉm cười độ lượng của người quản lý. Nó sẽ có sức mạnh cảm hóa sâu xa với nhân viên. 39. Điều quan trọng đầu tiên mà các nhân viên hy vọng và đòi hỏi trước hết ở người quản lý là phải công bằng với mọi người. Người quản lý gương mẫu phải biết quan điểm của các nhân viên, sẵn sàng nhận những điều hay của họ hơn là cố gắng giành thắng cho kỳ được. 40. Trong nhiều trường hợp, người quản lý phải biết linh hoạt sao cho luật pháp không bị khinh rẻ mà quyền lợi chính đáng của cá nhân khỏi bị tổn thương. Tôn trọng pháp luật nhưng cũng phải biết thực hành linh hoạt để khỏi gây bất công và uất hận. 41. Sự công bằng, lòng chính trực tự nhiên lan ra xung quanh, tự nhiên gây ra sự mến phục của nhân viên, họ sẽ bắt chước những đức tính của người quản lý công bằng, cương trực. 42. Dùng người đúng sở trường, sở đoản và cho họ quyền lợi tương xứng thì chính là lãnh đạo công bằng. 3. Muốn công bằng thì người quản lý không chỉ biết căn cứ vào luật pháp. Tránh chính sách đánh đồng thành tích của mọi người, cái chính là phải dựa vào đức tính, tài năng của mỗi cá nhân hay những cống hiến đặc biệt mà đối xử phù hợp chứ không nên công bằng một cách mù quáng để gây bất công. 44. Người quản lý cũng không nên ỷ quyền chức mà cố ý gây nhiều bất công. Người quản lý chẳng những phải cư xử công bằng với mọi nhân viên mà còn khuyến khích họ hy sinh, phục vụ cho quyền lợi công cộng. 45. Người quản lý luôn thương mến những người cộng sự, phải thích thú công việc của mình và luôn luôn tìm cách cải thiện những công việc đó cho tốt hơn, phải có cao vọng muốn thăng tiến. 46. Dù bạn làm nghề gì thì bạn cũng nên giành một thời gian nghiên cứu chiến lược tiếp thị trong bán hàng. Bởi những kiến thức này rất cần cho mọi người. Điều cốt lõi trong nghệ thuật bán hàng là: ) Gây chú ý của khách. b) Làm cho khách thấy lợi ích. c) Gợi sự ham thích của khách. 47. Để luôn phát triển trong nghề quản trị doanh nghiệp, trước khi kiểm soát nhân viên, người quản lý nên tự kiểm soát mình. Người quản lý phải rất nghiêm minh và rất kỹ lưỡng: bắt nhân viên thi hành nhiệm vụ đề ra nhưng đừng tỏ ra vẻ nhỏ mọn. Bắt tuân theo pháp luật nhưng tấm lòng lại rất yêu nhân viên. 48. Khi nhân viên mắc lỗi thì người quản lý cần phải trừng phạt. Nếu không phạt thì trật tự doanh nghiệp bị tổn thương nhưng khi phạt thì phải bình tĩnh và phải phạt vì lợi ích của kẻ lầm lỗi chứ không phải là để hả cơn giận của người quản lý. 49. Làm quản lý cũng nên biết quảng đại, bỏ qua những lỗi nhỏ nếu có ích cho đại nghĩa. 50. Người quản lý không được ỷ quyền hành mà lầm tưởng cái gì mình cũng biết. Cần phải nhận thấy trong khối nhân viên còn có những người ở một khía cạnh nào đó hơn mình để từ đó biết sử dụng và cất nhắc họ vào những công việc phù hợp. 51. Người quản lý không được khinh người, xa lánh nhân viên. Nếu nhà quản lý yêu mến nhân viên thì mới hy vọng tạo ra sự ổn định và phát triển. 52. Một nhà doanh nghiệp gương mẫu phải thực hiện được hai công việc song song: a) Khiêm tốn và nghiêm túc tuân phục cấp trên. b) Có nhiều sáng kiến và thực hiện các sáng kiến đó. 53. Cần phải nắm chắc 6 giai đoạn của một người bán hàng: a) Tiếp đãi khách... b) Dò ý khách. c) Trình bày hàng cho khách xem. d) Tuyển chọn hàng. e) Bán thêm hàng. g) Tiễn khách. 54. Người quản lý cũng cần phải biết tổ chức cho những người quản lý khác hợp tác và liên kết với nhau. Muốn vậy, trước hết phải khiêm tốn, khéo léo gợi sở thích và lợi ích của người mà mình muốn hợp tác trong làm ăn. Từ đó mà thực hiện được chương trình sản xuất kinh doanh. 55. Tỏ ra khiêm tốn, tuân phục cấp trên trước mặt nhân viên của mình là một hình thức gián tiếp dạy họ tôn kính mình một cách hiệu quả nhất. 56. Người quản lý nào xử thế khiêm tốn nhưng dứt khoát càng được cấp trên quan tâm và cấp dưới kính trọng. Có khiêm nhường thì mới học được cái hay và chừa được cái dở. 57. Người quản lý đôi khi phải biết tĩnh lặng để nuôi một bầu không khí thuận lợi cho suy nghĩ, trù kế, liệu mưu. Nếu có trong khối nhân viên gần gũi một vài người thân tín, có tính tình điềm đạm, sâu sắc thì nên bàn luận với họ những công việc quan trọng. 58. Người quản lý cũng không nên hứa vì vui miệng, hứa lung tung. 59. Người quản lý cũng phải bình dân nhưng nhất định không nên cho nhân viên biết quá rõ về con người của mình mà cần phải giữ lại những bí quyết để cho nhân viên phải tưởng tượng về mình. 60. Làm quản trị doanh nghiệp là lặng im được chừng nào hay chừng ấy, không nên thao thao bất tuyệt, cần phải nói năng cẩn thận, chính đáng để gây quyền uy đặc biệt. 61. Người quản lý phải thận trọng khi nói năng để tránh đụng chạm trên dưới, ngang dọc không cần thiết, để khỏi ảnh hưởng đến công việc. 62. Người quản lý nói chung cần tránh nói về mình, kể cả những lúc vui vẻ. 63. Người quản lý phải coi trọng mọi điều, không có điều gì là không cẩn thận, bí mật. Phải tuyệt đối giữ kín kế hoạch, giấy tờ, ghi chú các chương trình học tập. 64. Không nên để cho nhân viên thấy được tính do dự (nếu có), bàn đi tán lại của mình. 65. Chúng ta đều lên án những kẻ độc tài, mù quáng, nhưng trong nhiều trường hợp sau khi đã suy tính kỹ lưỡng mà thấy phương án đúng đắn cho dù là mạo hiểm thì người quản lý phải cương quyết hành động. Trong những trường hợp như vậy, sự sáng suốt, độc tài lại khiến cho công việc trôi chảy, lợi ích doanh nghiệp mới được đảm bảo. 66. Người quản lý không thể là người độc đoán, không có quyền ăn nói thô lỗ, nhưng phải là người cương nghị, có chí khí, phong độ, dũng cảm, khi cần thì phải cương quyết và dám tham cứu ý kiến cấp dưới, song bao giờ cũng phải quyết định bằng đầu óc của mình. 67. Làm quản lý doanh nghiệp là phải dám thưởng kịp thời và phạt không chậm trễ. 68. Người quản lý chân chính là người đặt công ích lên trên tư ích. 69. Người quản lý không nên có đầu óc tự cao tự đại nhưng làm việc gì cũng tin chắc mình thành công và phải chuẩn bị các phương án để thành công. 70. Người quản lý phải biết nhẫn nại, phải biết lao động miệt mài trong lĩnh vực chuyên môn của mình; phải biết suy tư, sẵn sàng thử nghiệm làm đi làm lại, thắng không kiêu, bại không nản và không được nói tiếng “không thể được” khi gặp khó khăn, mà phải đem đầu óc tháo vát ra giải quyết và cố gắng giải quyết cho kỳ được. 71. Người quản lý phải biết lựa chọn các quyết định, phải biết bỏ những việc nhỏ để dồn vào những việc lớn hơn mà không tổn hại đến công ích. 72. Không nên câu nệ bàn giấy mà phải quan sát thực tiễn, nắm bắt những diễn biến của thực tiễn, đối chiếu với hệ thống thông tin bàn giấy để đưa ra một quyết định phù hợp. 73. Người quản lý chỉ nên khéo léo chứ không nên xảo quyệt. Cần phải tận dụng tài tháo vát của mình để tạo ra những mưu cơ và dùng năng lực xã giao để thu phục kẻ khác. 74. Người quản lý phải dùng mọi thời gian của mình để lợi tức hóa cho công việc chung, hay nói cách nói khác là để phong phú hóa lợi ích của công chúng. 75. Thái độ ham trách nhiệm của người chủ doanh nghiệp tự nhiên làm cho bản thân mình hấp dẫn, lây lan cho nhân viên lòng can đảm và khiến ai cũng được thấy mình là kẻ phục vụ cho lợi ích công cộng. 76. Có thể nói một câu ngắn gọn về quản lý: “Phục vụ chứ không phải được phục vụ”. 77. Thành công của người quản lý là con đẻ của sự suy tính, nỗ lực, của tổ chức thực hiện, kiếm tìm những phương án hay, nhẫn nại lao động chứ không phải là phần thưởng cho những người chờ sung rụng. Người quản lý phải tránh việc chỉ lo thưởng mà không lo phạt, kẻ có công vớ vẩn cũng được thưởng mà kẻ có tội cũng không bị phạt. 79. Người quản lý phải tìm cách nào để nhân viên khi thi hành mệnh lệnh phải ít tốn công, tốn của nhất mà vẫn thu được lợi nhuận tối đa. Càng thương nhân viên bao nhiêu càng thực hiện được tinh thần đắc lực bấy nhiêu. 80. Quản lý cũng đồng nghĩa với sự giáo dục nhằm phát huy những đức tính tốt đẹp của nhân viên. Chuẩn bị cho họ tự hành động trong việc có qui trình, tự tin và hiệu quả. Người quản lý không nên có định kiến đối với kẻ nọ người kia. Biết bỏ qua những khuyết điểm mà nhân viên khó tránh, phải có tinh thần tha thứ hơn là vạch lá tìm sâu. Cần phải ước muốn cho người khác có được nhiều quyền lợi, ta vì quyền lợi của họ chứ không phải vì sự đánh giá của cá nhân ta. 81. Nhiều khi người quản lý phải quan tâm đến người nghèo khó, cô đơn, bần cùng để nêu tấm gương bác ái cho mọi người. 82. Khi nhân từ mà không hại đến công ích thì người quản lý nên áp dụng nhân từ hơn là nghiêm. 83. Người quản lý không muốn lụy tới mình thì cũng nên giúp cho người khác hiểu được, cũng không làm khó dễ để không ai lụy đến thân mình. Vì thế, không lo gì doanh nghiệp không hưng thịnh. 84. Không phải chỉ đợi những việc to tát mới tỏ ra giúp đỡ nhân viên mà còn tận tụy làm mọi cách bênh vực quyền lợi của họ trong những việc nhỏ nhất. 85. Trong bất cứ một trường hợp nào cũng phải có óc sáng kiến linh hoạt, tùy cơ ứng biến, không khoanh tay chờ thời mà để trôi đi những cơ may. 86. Càng phải tiết kiệm sự ra lệnh bao nhiêu thì đòi hỏi ta phải hành động bấy nhiêu. Quản lý là phải đồng nghĩa với làm việc và làm việc không mệt mỏi. 87. Phải biết lợi dụng thời cơ và trí tuệ hơn là chỉ lo thực hành sức lực, khi tận dụng thời cơ thì chỉ tốn một mà lợi nhuận thì hàng trăm, hàng nghìn. 88. Cần phải phân biệt giữa táo bạo và can đảm. Táo bạo là tật xấu, không lượng sức mình mà ra tay làm ẩu. Còn can đảm là chỉ ra tay sau khi có suy nghĩ và có phương án cẩn thận. 89. Khi gặp những hoàn cảnh cấp bách thì cần phải suy tính kỹ và quyết định nhanh, không được chần chừ. 90. Hàng ngày nên có 1 đến 2 giờ để suy nghĩ và nghiên cứu sách vở, bởi sách cho ta những kinh nghiệm quý báu của các thế hệ trước tích lũy lại. Hơn nữa nó cũng là cách để người quản lý tránh những náo nhiệt, xô bồ ở ngoài đời mà tĩnh dưỡng, trở về với cái tôi bình tĩnh của mình, suy xét hiện tại để đối phó với những thách thức, chớp lấy những cơ may và sắp đặt cho tương lại. 91. Người quản lý phải thường xuyên tham khảo sách báo, đặc biệt là sách báo chuyên môn liên quan đến ngành của mình và những sách về hội lãnh đạo, về công tác thanh niên và thậm chí cả một số sách về kiến thức phổ thông để có thể dễ tiếp xúc với mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội. 92. Đừng nghĩ sách là lý thuyết suông mà phải biết rằng sách là nơi ghi chép những kinh nghiệm, kiến thức quý giá của người đi trước để lại, nó có thể đúng với lúc bấy giờ hay chỉ đúng với thời điểm mà tác giả đã viết trước đây. Điều quan trọng là từ những gợi ý trong sách, ta phải có những phương pháp để vận dụng sao cho phù hợp với điều kiện mới mà mình đang sống. Muốn áp dụng sách có hiệu quả thì phải thực hiện một số nguyên tắc sau đây: a) So sánh điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội hay là những giả định mà tác giả đã đề cập trong sách với điều kiện hiện thời có gì khác nhau, có gì giống nhau để có thể bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới về kinh tế - chính trị - xã hội hay là những điều kiện mới trong các doanh nghiệp, chứ không nên dập khuôn hoàn toàn những điều sách nói trong hoạt động thực tiễn. Bởi vì, khí hậu, phong tục tập quán, điều kiện, kinh tế - chính trị - xã hội mỗi nơi, mỗi lúc, mỗi quốc gia đều khác nhau. b) Phải căn cứ vào những phát minh mới nhất của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để thấy rằng những nhận định trong sách còn phù hợp thì giữ lại, những nhận định nào cần phải bổ sung một chút cho phù hợp thì phải bổ sung. Về cơ bản, khi điều kiện kinh doanh, điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội và bản thân những phát minh trong khoa học đòi hỏi chúng ta phải lý giải theo những cách mới phù hợp với thực tiễn đang đặt ra. Chỉ có cách đọc sách như vậy thì chúng ta mới thấy rằng mọi cuốn sách đều có những gợi ý quí giá mà không có cuốn sách nào là vô nghĩa cả. Vấn đề là cần phải có một tư duy biện chứng khi đọc sách và vận dụng sách vào các hoạt động kinh doanh và bất cứ hoạt động gì khác trong cuộc sống. 93. Khi có thời gian rảnh thì cần phải đọc tiểu sử của những nhà doanh nghiệp nổi tiếng hay những thủ lĩnh nổi tiếng trên thế giới. 94. Người quản lý bao giờ cũng muốn nhân viên của mình thi hành chu đáo những mệnh lệnh ban ra, không được bỏ sót một vấn đề gì và phải trung thành với sổ sách. 95. Không được tham lợi trước mắt mà quên điều hại ở sau lưng. Nói cách khác là không nhằm cái lợi một tấc mà để mất cái lợi một dặm. 96. Luôn luôn phải biết lo xa và phòng bị, phải khôn ngoan dự báo các tình huống trong kinh doanh để xây dựng những chương trình chiến lược, để chớp lấy những cơ may và vượt lên những thách thức trong kinh doanh. 97. Một số khâu quan trọng mà chúng ta không thể bỏ qua là: Suy nghĩ, tính toán cẩn thận, quyết định kịp thời và cương quyết, bắt buộc thi hành các chương trình, dự đoán các tình huống, kiểm tra, theo dõi quá trình thực hiện của nhân viên. Trong những khâu đó thì khâu dự báo, tiên đoán là khâu quan trọng nhất. Ví dụ như: Khổng Minh do đã tiên liệu được đa số các tình huống xảy ra trên chiến trường nên đã sắp xếp, trù bị các mặt trận một cách chính xác, do đó đã thu được những thắng lợi lớn lao. 98. Người quản lý đồng nghĩa với năng lực tổ chức, với khả năng cấu trúc khôn ngoan các nguồn lực: Con người, tài nguyên, đất đai, công nghệ, các quan hệ và thời thế. Sự tài ba của người quản lý phụ thuộc vào sự biến báo, khai phóng các yếu tố trên để thực hiện mục đích của một doanh nghiệp, một cơ quan hay một tập đoàn, quốc gia. 99. Vấn đề nào cần phải giải quyết ngay thì phải quyết định nhanh chóng để có thể dồn tâm vào tiến triển chung của bộ máy hoạt động trong doanh nghiệp. 100. Muốn giữ bình tĩnh nội tâm, người quản lý phải biết từ chối tiếp khách quá nhiều hay bận việc đến nỗi quá mệt mỏi để thiếu tự chủ. Cái chính là chỉ nên tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản, còn phải biết phân quyền cho cấp dưới những quyền hành mà mình không nhất thiết phải nắm hết. 101. Hãy chia những nhân viên dưới mình ra từng nhóm phù hợp để dễ chỉ huy. 102. Người quản lý phải có cách làm cho nhân viên hăng say thực hiện công việc, phải cho họ biết những tiến bộ của họ, những cống hiến của họ và phải ban cho họ những lời khích lệ và khen thưởng chính đáng, thậm chí cả về vật chất. Đôi khi người quản lý sẵn sàng bỏ tiền túi của mình để thưởng cho những nhân viên tích cực. 103. Nhân viên thường có thói quen ham lợi, đó là một thói quen thường tình. Điều quan trọng là người quản lý nên kích thích hoạt động của nhân viên để họ nhận được những phần thưởng xứng đáng khi họ thi hành xuất sắc công việc. 104. Một lời khen đúng lúc, đúng nơi của người quản lý có giá trị gấp vạn lần lời chỉ trích hay dạy dỗ. 105. Khi khen ai thì phải khen thành thật từ đáy lòng, không nên hà tiện lời khen nhưng cũng đừng hoang phí quá, khi khen cần phải cho người ấy một lý tưởng để thực hiện trong tương lai và tạo cho họ một chương trình để theo đuổi. 106. Cần phải tạo điều kiện để những nhân viên cương trực thành hậu thuẫn cho mình nhằm thực hiện những lợi ích chung. 107. Phê bình ai, phạt ai là vì lợi ích chung chứ không phải vì nhẹ dạ hay vì báo oán. 108. Mới nắm quyền thì phải tạo ra một môi trường nề nếp để thực hiện biện pháp, tức là tạo cho họ thói quen tuân thủ để sau này đỡ nhọc công hướng dẫn. 109. Lắm lúc chỉ cần thái độ im lặng, tránh không gặp mặt cũng là cảnh cáo người nhân viên có lỗi. Nhưng bất kỳ lời phê bình nào của người quản lý cũng phải mang tính xây dựng, thổi lên lòng nhiệt tình cho nhân viên. 110. Thành công của một doanh nghiệp không phải do bản thân người quản lý tạo ra mà là do sự cộng tác đắc lực của nhân viên, nói cách khác là do nhiều người tài đức âm thầm quanh mình giúp mình một cách đắc lực. Phải tìm đến họ, bắt tay cộng tác với họ, đừng phụ ơn họ, chỉ có như vậy mới dẫn đến thành công lớn. 111. Bất cứ một sự hợp tác nào của người quản lý với cấp trên, đồng cấp hay cấp dưới đều xuất phát từ lòng chân thành thì mới thành công lâu dài. 112. Người quản lý khi dùng người phải tìm hiểu được cá tính, sở thích, sở trường, sở đoản của họ để dùng người đúng việc, đúng chỗ. 113. Mỗi lời nói của người quản lý buông ra đều phải dựa trên nguyên tắc nhân ái và công bằng. 114. Các chỉ thị, mệnh lệnh có được thi hành đắc lực hay không là tùy thuộc vào trí tuệ, tình cảm và sự chú ý của nhân viên nhiều hay ít. Vì thế, người quản lý phải biết được trách nhiệm của nhân viên và những năng lực của họ để giao thiệp, phải tính thời gian đủ để họ làm hoàn thành và tính toán để thưởng phạt kịp thời. 115. Phải quan sát, trắc nghiệm tâm lý để biết được ai có năng lực hoặc không có năng lực ở lĩnh vực nào để bổ nhiệm họ vào vị trí phù hợp. 116. Người quản lý phải biết trọng dụng người có tài đức, thu phục được những kẻ ngang ngạnh nhưng có tài ở những lĩnh vực nhất định. Thường những người bướng bỉnh lại là những người có thể giúp cho doanh nghiệp làm nên những nghiệp lớn. 117. Người quản lý không cần bắt tất cả các nhân viên hành động giống nhau mà phải khai thác năng lực của từng người để họ thực hiện những lý tưởng chung dưới nhiều hình thức khác nhau. 118. Dùng người như dùng cây. Vì thế, không nên vì một chỗ hư, mà bỏ cả cây gỗ quí. 119. Nếu để những người tài đức tản mát trong một doanh nghiệp hay trong xã hội thì rất là lãng phí. Cần phải tập trung, phân công họ để họ có điều kiện phục vụ nhiều cho doanh nghiệp và đất nước. 120. Nếu cần dùng người thì người quản lý hãy dùng những người giám chỉ trích mình. Vì chính những người đó mới làm nên những việc lớn. 121. Một doanh nghiệp hay một quốc gia sẽ phát triển mạnh mẽ nếu có một cơ chế trưng dụng, cất nhắc được đúng chỗ những người tài đức của quốc gia. Hán Cao Tổ, Mao Trạch Đông... là những người có tài điều binh khiển tướng như vậy. Mưu trí cao nhất của người quản lý là tập trung vào tay mình nhiều người hiền tài, tin cậy họ, giao cho họ những việc lớn. 122. Người quản lý phải có khả năng nhưng không tự mình làm hết tất cả mọi việc vì họ cần phải nhìn xa, trông rộng. Do đó, họ không đích thân làm tất cả mà phải có nghệ thuật chiêu dụ, trọng dụng nhân tài để những người tài trong mỗi lĩnh vực giúp đỡ họ thực hiện được mục đích của mình. 123. Những người bạn đắc lực là những người nhiệt tình dám can gián khi bạn làm việc không hiệu quả, đề xuất cho bạn những phương án hay, khích lệ bạn làm những việc tốt có lợi cho công ích cũng như cho gia đình. 124. Người quản lý khôn ngoan là người phải chú ý khai phóng những năng lực tiềm tàng của mình và của những nhân viên trong doanh nghiệp cũng như đất nước. 125. Một trong những động lực thúc đẩy mọi người là sự ganh đua cầu thị vượt lên, tức là một khát vọng hoàn thiện. 126. Người quản lý cũng cần phải biết quan sát để bắt chước những điều hay trong cư xử, trong quan hệ với những người xung quanh để hoàn thiện mình. 127. Một người quản lý càng kính trọng nhân cách và chăm lo phát triển tài năng, nhân cách của nhân viên thì càng được coi trọng và có uy tín trong doanh nghiệp và trong xã hội. 128. Người quản lý cần phải quan tâm đến kiểm soát công việc. Kiểm soát nhất định phải gắt gao, nhưng khi cho điểm hoặc bổ nhiệm thì rộng rãi, quảng đại. 129. Không nên tưởng ra lệnh ở bàn giấy là xong, bởi vì còn việc thi hành lệnh có chu đáo hay không lại là việc khác. Vì thế, đôi khi người quản lý ra lệnh một đường mà nhân viên lại hiểu và làm theo kiểu khác. Vì thế không được quá tin tưởng vào họ mà cần phải tự bản thân mình theo dõi và kiểm soát một cách khéo léo để giúp nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ. Hoặc là dùng người khác bí mật kiểm soát giám sát người thi hành công vụ để báo lại với người quản lý nhằm kiểm soát đắc lực quá trình thực thi mệnh lệnh. Tất nhiên, khi ra những mệnh lệnh thì phải biết mệnh lệnh đó có hợp lý không, giao cho nhân viên có khả năng không và có đủ điều kiện thực hiện hay không. Sức mạnh của một tổ chức là người quản lý phải kiểm soát tốt các mệnh lệnh chứ không phải là ra lệnh chất đống rồi buông trôi. 130. Đừng quá say mê lời khen ngợi của nhân viên. 131. Nếu tàn bạo quá sẽ sinh mầm phản, nhưng từ bi quá sẽ dẫn đến sự khinh rẻ. 132. Người quản lý phải khéo tạo ra những nhân viên thừa hành những nhà chỉ huy trong quyền lợi cho phép của họ. Tức là một người quản lý với những nhà quản lý cấp dưới như vậy sẽ dễ quản lý hơn. Bạn không thể với tay trực tiếp đến nhân viên nhưng thông qua đội ngũ quản lý trung gian bạn có thể nắm bắt được tình hình của nhân viên. 133. Người quản lý phải dám liều mới được việc. Trong kinh doanh phải có gan lao vào những lĩnh vực mới, mới hy vọng giành được những thị trường độc quyền. 134. Người quản lý phải am tường hoàn cảnh của nhân viên, hiểu được những vất vả của họ. Thương nhân viên một cách thật lòng thì không ngại gì họ lại không ủng hộ mình. 135. Phải thống nhất mọi nhóm người trong một doanh nghiệp thành một tập thể thống nhất. Chính khối thống nhất đó mới là một lực lượng mạnh mẽ. Vì thế, người quản lý không nên chỉ lo cho một vài cá nhân nổi bật mà bỏ qua các nhân viên khác. 136. Quản lý mà thấy điều dở thì phải tìm cách sửa ngay, cố gắng sửa sớm chừng nào hay chừng ấy. 137. Người quản lý cần phải có óc phân tích và tổng hợp, nhưng sự tổng hợp cần hơn, bởi họ có bổn phận nuôi dưỡng những ý tưởng tổng quát. Nhân viên cần họ có nghệ thuật trưng dụng những nhà chuyên môn giỏi trong tay họ. 138. Đừng làm hết mọi việc nhưng không việc nào thiếu sót lại để yên. Đó là cốt lõi của quản lý. 139. Phải đổi mới liên tục sản phẩm (Về mẫu mã, kết cấu, hình dáng và công dụng) phải đưa thêm những chức năng mới vào sản phẩm. 140. Phải biết tạo vốn, biết dùng đòn bẩy vốn của người khác để xây dựng cơ nghiệp. 141. Phải đi tìm thị trường mới ở những nơi xa xôi hẻo lánh hoặc thậm chí ra những nước khác. 142. Phải đổi mới liên tục và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng sao cho ngày càng tốt hơn. 143. Phải có chiến lược phân hóa giá luôn luôn để phù hợp với túi tiền của các nhóm người tiêu dùng. 144. Phải luôn dự báo những dịch vụ mới hay những hàng hóa mới sẽ nảy sinh trong tương lai để từ đó đổ xô vào kinh doanh những mặt hàng mới đó. 145. Phải đa dạng hóa các lĩnh vực kinh doanh để tránh những rủi ro trong kinh doanh. 146. Phải phân tích được, nắm bắt được những thông tin về khả năng tài chính của khách hàng. 147. Khi nói trước đông người, nếu có thể được thì cần viết vào giấy riêng, tập trung các vấn đề cần phát biểu thành hệ thống, rồi trình bày rõ ràng, mạch lạc. 148. Người quản lý cũng phải giàu trực giác, biết trước những đòi hỏi, nhu cầu của nhân viên để tìm cách đáp ứng một cách chính đáng. 149. Người quản lý đừng sợ những người tài cao và hay ăn nói ngang ngược, hãy mạnh dạn dùng những người ấy bởi vì họ không phải bất trị từ bản chất mà do chưa gặp người tài hơn để quy phục. Bất cứ người nào, kể cả những tên ăn cướp cũng đều chứa đựng những phần trăm nhỏ nhoi của cái tốt. 150. Người quản lý phải gần gũi nhân viên, giúp đỡ họ gặp những khó khăn, nguy khốn. 151. Phải cố gắng tìm cách phụng sự nhân viên, giúp đỡ họ bất cứ lúc nào mà mình có thể làm được. Hy sinh cho nhân viên là xây một cột trụ vững bền của lòng tín nhiệm và yêu mến, nó cũng là những viên gạch xây nên uy quyền cho bạn. 152. Cố gắng khích lệ nhiệt huyết của nhân viên, thúc đẩy nhân viên cùng mình thực hiện những lợi ích chung. 153. Dù có tài đến đâu người quản lý cũng đừng quên soạn kỹ những gì nói trước đông người để ngôn ngữ của mình mạch lạc, hấp dẫn, không dư thừa. 154. Nhiều khi người quản lý cũng phải trực tiếp nắm bắt tình hình thực tiễn qua việc ngụy trang xâm nhập thực tiễn để biết được một cách khách quan những thông tin từ thực tiễn để từ đó có những quyết định chính xác. 155. Người quản lý phải có nghệ thuật biết nghe một cách chân thành người khác nói chuyện để từ đó có những lời khuyên hay sự đồng cảm tới người nói chuyện. 156. Trong kinh doanh không được lộ chiến lược. 157. Người nào tung ra hàng hóa mới, kịp thời thì người đó sẽ chiến thắng. 158. Muốn có nhiều lợi nhuận thì phải biết cho người trước, tức là phải đem lại nhiều tiện lợi hơn cho khách hàng. 159. Chỉ sản xuất và tung ra thị trường những thứ hàng hóa và dịch vụ mà thị trường cần. 160. Hãy xâm nhập vào thị trường dễ xâm nhập, những nơi vắng bóng những kẻ cạnh tranh.