1. Lúc bấy giờ, các ngài Tuệ Mệnh Tu Bồ Đề, đại Ca Chiên Diên, đại Ca Diếp, đại Mục Kiền Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn dự ghi cho ngài Xá Lợi Phất sẽ thành vô thượng chánh đẳng chánh giác, sanh lòng hy hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Chúng con đứng đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi tòa thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hý thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ tát, lòng chúng con không ưa thích. Vì sao? Đức Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác của Phật dạy Bồ tát không hề sanh một niệm ưa thích. Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác, lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hy hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự đươc. 2. Thế Tôn, chúng cong hôm nay xin nói thí dụ chỉ rõ nghĩa đó. Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, dong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn quốc. Người cha từ trước đến nay, tìm con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu lớn của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, châu ngọc, v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi ngựa, xe cộ bò dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều. Bấy giờ, gã nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở. Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn. Ông tự nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thì của cải tản thất không người giao phó. Ông lại ân cần luôn nhớ đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo. 3. Thưa Thế Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đỡ chân, các hàng bà la môn, sát đế lợi, cư sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuỗi ngọc chân châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ tay cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho, v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy đức rất tôn trọng. Gã cùng tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua, hoặc là bật đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật. Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây, hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm." Gã nghĩ như thế rồi liền chạy mau đi thẳng. 4. Khi đó, ông trưởng giả ngồi nơi tòa sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: "Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta tuy tuổi già còn vẫn tham tiếc." Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại. Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm, cớ sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt nó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất. Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó." Vì sao? Cha biết con mình ý chí hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm cho con khiếp sợ. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý." Gã cùng tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc. 5. Bấy giờ ông trưởng giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người hình sắc tiều tụy không có oai đức: "Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thì nên nói với nói rằng: "Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm." Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên. 6. Bấy giờ, gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tụy, phân đất bụi bặm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách dính dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: "Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!' Dùng phương tiện đó được đến gần người con. Lúc sau lại bảo con rằng: "Gã nam tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo." Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không lòng dối khi trễ nãi giận hờn nói lới thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời trưởng giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "con". Khi đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ. 7. Thế Tôn! Bấy giờ trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta. Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất." Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được. 8. Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng sát lợi, hàng cư sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tuyên bố rằng: "Các ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sanh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thật là con ta, ta thật là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết." Thế Tôn! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: "Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến." 9. Thế Tôn! Ông phú trưởng giả đó là đức Như Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con. Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hý luận. Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn được đến Niết bàn, cái giá một ngày. Đã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng năng tinh tấn nên chỗ được rộng nhiều. Nhưng đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri kiến của Như Lai. Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết bàn một ngày, cho là được nhiều rồi, đối với pháp Đại thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí huệ của Phật, vì các vị Bồ tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó. Vì sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc. Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham Đại thừa, thì Phật vì chúng con mà nói pháp Đại thừa. Ở trong kinh nay chỉ nói pháp nhất thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ tát chê trách Thanh văn ham pháp tiểu thừa. Nhưng đức Phật thật dùng Đại thừa để giáo hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp vương tự nhiên đến, như chỗ nên được của Phật tử đều đã được đó." Bấy giờ ngài Ma Ha Ca Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: 10. Chúng con ngày hôm nay Nghe âm giáo của Phật Lòng hớn hở mừng rỡ Được pháp chưa từng có. Phật nói hàng Thanh văn Sẽ được thành quả Phật Đống châu báu vô thượng Chẳng cầu tự nhiên được. Ví như gã đồng tử Thơ bé không hiểu biết Bỏ cha trốn chạy đi Đến cõi nước xa khác Nổi trôi khắp nước ngoài Hơn năm mươi năm dài Cha gã lòng buồn nhớ Kiếm tìm khắp bốn phương Kiếm tìm đó đã mỏi Liền ở lại một thành Xây dựng nên nhà cửa Năm món dục tự vui. Nhà ông giàu có lớn Nhiều những kho vàng, bạc Xa cừ, ngọc mã não Trân châu, ngọc lưu ly Voi ngựa cùng trâu dê Kiệu, cáng đủ xe cộ Ruộng đất và tôi tớ Nhân dân rất đông nhiều Xuất nhập thâu lời lãi Bè khắp đến nước khác Khách thương người buôn bán Không xứ nào không có, Nghìn muôn ức chúng hội Vây quanh cung kính ông, Thường được bậc vua chúa, Mến yêu nhớ tưởng đến, Các quan, hạng hào tộc Đều cũng đồng tôn trọng Vì có các sự duyên Người tới lui rất đông, Giàu mạnh như thế đó Có thế lực rất lớn Mà tuổi đã già nua Lại càng buồn nhớ con Ngày đêm luống suy nghĩ Giờ chết toan sắp đến Con thơ dại bỏ ta Hơn năm mươi năm tròn, Các của vật kho tàng Sẽ phải làm thế nào? 11. Bấy giờ gã cùng tử Đi tìm cầu ăn mặc Ấp này đến ấp khác Nước này sang nước nọ Hoặc có khi được của Hoặc có lúc không được, Đói thiếu hình gầy gò Thân thể sanh ghẻ lác. Lần lựa đi trải qua Đến thành cha gã ở Xoay vần làm thuê mướn Bèn đến trước nhà cha. Lúc ấy ông trưởng giả Đang ở trong nhà ông Giăng màn châu báu lớn Ngồi tòa sư tử cao Hàng quyến thuộc vây quanh Đông người đứng hầu hạ Hoặc có người tính toán Vàng, bạc, cùng vật báu Của cải ra hoặc vào Biên chép ghi giấy tờ. Gã cùng tử thấy cha Quá mạnh giàu tôn nghiêm Cho là vị quốc vương Hoặc là đồng bậc vua Kinh sợ tự trách thầm Tại sao lại đến đây? Lại thầm tự nghĩ rằng: Nếu ta đứng đây lâu Hoặc sẽ bị bức ngặt Ép buộc sai khiến làm. Suy nghĩ thế đó rồi Rảo chạy mà đi thẳng Hỏi thăm xóm nghèo nàn Muốn qua làm thuê mướn. 12. Lúc bấy giờ trưởng giả Ngồi trên tòa sư tử Xa trông thấy con mình Thầm lặng mà ghi nhớ, Ông liền bảo kẻ sứ Đuổi theo bắt đem về. Gã cùng tử sợ kêu Mê ngất ngã trên đất Người này theo bắt tôi Chắc sẽ bị giết chết Cần gì đồ ăn mặc Khiến tôi đến thế này! Trưởng giả biết con mình Ngu dại lòng hẹp hèn Chẳng chịu tin lời ta Chẳng tin ta là cha Ông liền dùng phương tiện Lại sai hai người khác Mắt chột, thần lùn xấu Hạng không có oai đức Các người nên bảo nó Rằng ta sẽ thuê nó Hốt dọn các phân nhơ Trả giá bội cho nó. Gã cùng tử nghe rồi Vui mừng theo sứ về Vì dọn các phân nhơ Sạch sẽ các phòng nhà Trưởng giả trong cửa sổ Thường ngó thấy con mình Nghĩ con mình ngu dại Ưa thích làm việc hèn. Lúc đó ông trưởng giả Mặc y phục cũ rách Tay cầm đồ hốt phân Qua đến chỗ con làm Phương tiện lần gần gũi Bảo rằng: Ráng siêng làm! Đã thêm giá cho ngươi Và cho dầu thoa chân Đồ ăn uống đầy đủ Thêm nệm chiếu đầy ấm Cặn kẽ nói thế này: Ngươi nên siêng làm việc! Rồi lại dịu dàng bảo Như con thật của ta. 13. Ông trưởng giả có trí Lần lần cho ra vào Trải qua hai mươi năm Coi sóc việc trong nhà, Chỉ cho biết vàng, bạc, Ngọc trân châu, pha lê Các vật ra hoặc vào Đều khiến gã biết rõ. Gã vẫn ở ngoài cửa Nương náu ở am tranh Tự nghĩ phận nghèo hèn Ta không có vật đó. Cha biết lòng con mình Lần lần đã rộng lớn Muốn giao tài vật cho Liền nhóm cả thân tộc Quốc vương các đại thần Hàng sát lợi, cư sĩ Rồi ở trong chúng này Tuyên nói chính con ta Bỏ ta đi nước khác Trải hơn năm mươi năm, Từ gặp con đến nay Đã hai mươi năm rồi Ngày trước ở thành kia Mà mất đứa con này Ta đi tìm khắp nơi Bèn đến ngụ nơi đây Phàm của cải ta có Nhà cửa cùng nhân dân Thảy đều phó cho nó Mặc tình nó tiêu dùng. Người con nhớ xưa nghèo Ý chí rất kém hèn Nay ở nơi cha mình Được quá nhiều châu báu Và cùng với nhà cửa Gồm tất cả tài vật, Lòng rất đỗi vui mừng Được điều chưa từng có. 14. Đức Phật cũng như thế Biết con ưa tiểu thừa Nên chưa từng nói rằng Các ngươi sẽ thành Phật Mà chỉ nói chúng con Được có đức vô lậu Trọn nên quả tiểu thừa Hàng Thanh văn đệ tử Đức Phật bảo chúng con Nói đạo pháp tối thượng Người tu tập pháp này Sẽ được thành Phật quả Chúng con vâng lời Phật Vì các Bồ tát lớn Dùng các món nhân duyên Cùng các món thí dụ Bao nhiêu lời lẽ hay Để nói đạo vô thượng. Các hàng Phật tử thảy Từ nơi con nghe pháp Ngày đêm thường suy gẫm Tinh tấn siêng tu tập. Bấy giờ các đức Phật Liền thọ ký cho kia: Các ông ở đời sau Sẽ được thành Phật đạo. Pháp mầu rất bí tàng Của tất cả các Phật Chỉ để vì Bồ tát Mà dạy việc thật đó, Nhưng chẳng vì chúng con Nói pháp chân yếu này Như gã cùng tử kia Được gần bên người cha Dầu lãnh biết các vật Nhưng lòng chẳng mong cầu, Chúng con dầu diễn nói Tạng pháp báu của Phật Tự mình không chí nguyện Cũng lại như thế đó. 15. Chúng con diệt bề trong Tự cho là đã đủ Chỉ xong được việc này Lại không biết việc khác. Chúng con dầu có nghe Pháp tịnh cõi nước Phật Cùng giáo hóa chúng sanh Đều không lòng ưa vui. Như thế là vì sao? Vì tất cả các pháp Thảy đều là không lặng Không sanh cũng không diệt Không lớn cũng không nhỏ Vô lậu và vô vi Suy nghĩ thế đó rồi Chẳng sanh lòng ưa muốn. Chúng con đã từ lâu Đối với trí huệ Phật Không tham không ưa thích Không lại có chí nguyện, Mà đối với pháp mình Cho đó là rốt ráo. Chúng con từ lâu nay Chuyên tu tập pháp không Được thoát khỏi hoạn nạn Khổ não của ba cõi Trụ trong thân rốt sau Hữu dư y Niết bàn Đức Phật dạy bảo ra Chứng được đạo chẳng luống Thời là đã có thể Báo được ơn của Phật. Chúng con dầu lại vì Các hàng Phật tử thảy Tuyên nói pháp Bồ tát Để cầu chứng Phật đạo Mà mình đối pháp đó Trọn không lòng mong muốn Đấng Đạo Sư buông bỏ Vì xem biết lòng con Ban đầu không khuyên gắng Nói những lợi có thực Như ông trưởng giả giàu Biết con chí kém hèn Bèn dùng sức phương tiện Để hòa phục tâm con Vậy sau mới giao phó Tất cả tài vật báu Đức Phật cũng thế đó Hiện ra việc ít có Biết con ưa tiểu thừa Bèn dùng sức phương tiện Điều phục tâm của con Rồi mới dạy trí lớn. Chúng con ngày hôm nay Được pháp chưa từng có Chẳng phải chỗ trước mong Mà nay tự nhiên được Như gã cùng tử kia Được vô lượng của báu. 16. Thế Tôn! Chúng con nay Được đạo và chứng quả Ở nơi pháp vô lậu Được huệ nhãn thanh tịnh Chúng con từ lâu nay Gìn tịnh giới Phật chế Mới ở ngày hôm nay Được hưởng quá báo đó, Trong pháp của Pháp vương Lâu tu hành phạm hạnh Ngày nay được vô lậu Quả báo lớn vô thượng Chúng con ngày hôm nay Mới thật là Thanh văn Đem tiếng đạo của Phật Cho tất cả đều nghe Chúng con ngày hôm nay Thật là A la hán Ở nơi các thế gian Trời, người và ma, phạm, Khắp ở trong chúng đó, Đáng lãnh của cúng dường Ơn lớn của Thế Tôn Thương xót dạy bảo cho Làm lợi ích chúng con Trải vô lượng ức kiếp Ai có thể đền được. Tay lẫn chân cung cấp Đầu đảnh lễ cung kính Tất cả đều cúng dường Đều không thể đền được. Hoặc dùng đầu đội Phật Hai vai cùng cõng vác Trong số kiếp hằng sa Tận tâm mà cung kính, Lại đem dưng đồ ngon Y phục báu vô lượng Và các thứ đồ nằm Cùng các món thuốc thang Gỗ ngưu đầu chiên đàn Và các vật trân báu Để dựng xây tháp miếu Y báu lót trên đất Như các việc trên đây Đem dùng cúng dường Phật Trải kiếp số hằng sa Cũng không đền đáp được. Các Phật thật ít có Đấng vô lượng vô biên Đến bất khả tư nghì Đủ sức thần thông lớn Bậc vô lậu vô vi Là vua của các pháp Hay vì kẻ hạ liệt Nhẫn việc cao thượng đó, Hiện lấy tướng phàm phu Tùy cơ nghi dạy nói Các Phật ở nơi pháp Được sức rất tự tại Biết các hàng chúng sanh Có những điều ưa muốn Và chí lực của nó Theo sức nó kham nhiệm Dùng vô lượng thí dụ Mà vì chúng nói pháp Tùy theo các chúng sanh Trồng căn lành đời trước Lại biết đã thành thục Hay là chưa thành thục Suy lường những điều đó Phân biệt biết rõ rồi Ở nơi đạo nhất thừa Tùy cơ nghi nói ba. 0O0 Bậc thượng căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thật hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng tư, toàn giao phó cho con nhà. Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát (3 lần) Đức Như Lai dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các con đua giành ồn ào, trưởng giả mừng kheo, thọ ký quả Phật không sai. Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật (3 lần) 0O0 Sự tích Tả Kinh Thoát Khổ Nhà Đường, niên hiệu Long Sóc năm thứ ba, xứ Trường An, mẹ vợ ông Lưu Công Tín chết. Không bao lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần hồn đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thọ nhiều sự khổ. Khóc bảo con gái rằng: "Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp Hoa ngõ hầu thoát khỏi tội này." Nói vừa xong cửa đá liền khép lại. Cô họ Trần sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ ông Triệu Sư Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ Kinh Pháp Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ kinh đó vố là của một người họ Phạm ra tiền mướn tả, mà ông Tín thật chưa biết cũng tin là ông Triệu tả cho mình. Không bao lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng: "Mẹ chính vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vố là của nhà họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của mình?" Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên đó. Vợ chồng liền thuê người tả một bộ khác để cúng dường hồi hướng công đức cho mẹ. Than ôi! Công đức tả hay ấn tống lớn biết dường nào? Tội nặng bị khổ ở địa ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa là mình tựa ra công ra tiền ư!