Khi mọi người đã ngồi lại, ông Học trấn an bằng cách nhồi thuốc vào tẩu, thong thả mồi lửa, cố tạo một không khí bình thản, nghiêm trang. Ông hút một vài hơi và nói với em gái: "Liên cảm phiền, anh tạm giữ khẩu súng của cô cho đến khi nào cô rời Tây Phố". Không để Liên phản đối, ông gọi già Năm tới. Bốn người con của bà Thịnh Phước và lão gia nhân bắt đầu họp mặt trong hoà khí tạm vừa tạo được. Ông Học bảo già Năm ngồi xuống một chiếc ghế đôn bên cạnh nói: "Già bắt đầu kể lại cho lần lượt". "Vâng" – ông lão khép hai tay giữa đùi, lúng túng tìm lời – "Già ở với cụ từ trên ba mươi năm nay, lúc cậu Học mới bắt đầu đi học khai tâm ở nhà cụ Cử, nên già vô phép thường coi như mình là người của gia đình họ Nguyễn. Bởi thế những lời già kể lại đây với các cậu, với cô là những lời chân thật của già. Lão nhìn qua mọi người, nói tiếp: "Kể từ ngày cô ra đi, cụ bà buồn lắm, mặc dầu trước đó cụ không yêu thương cô bằng yêu thương các cậu. Rồi những năm lộn xộn tới, cậu Học phải lánh mình một nơi, cụ thường đăm chiêu hơn. Trong nhà bấy giờ không có ai là gái, nên cụ càng nhắc nhở đến cô. Một phần các cậu cứ lên, người này đến người khác đi xa, cụ càng chểnh mảng công việc. Cơ sở nhà ta bây giờ suy yếu lắm, vì không ai để tâm trông nom, người ta nợ nần không trả cũng lắm. Cho đến khi cậu Hiệp đi làm xa, cụ hầu như đau yếu thường xuyên. Buôn bán bị Hợp tác xã chèn ép. Mà cụ nhất định không cho đi tìm các cậu với cô về. Các ngài thường bảo: "Đứa nào có nhớ đến ta thì nó về, quê hương đất tổ chúng còn lơ là, ta sống hay chết cũng thôi chứ làm gì". "Năm ngoái, bỗng dưng cụ cho mời ông Chưởng khế Đỗ Văn Tu đến nhờ ông làm di chúc. Thật là điềm gở quá. Già không biết di chúc đó ra làm sao, nhưng già hằng lo sợ, vì cái quân Tây Phố này chúng một ngày một lộng lắm. Chỉ thiếu điều chúng ăn cướp nhà này mà thôi. Hồi xưa, khi cụ ông còn tại chức, cụ gây thù oán cũng nhiều. Chúng rắp tâm làm hại mình từ lâu rồi. May sao năm ngoái già bắt được tin cậu Học, nên khi cụ mất, sáng hôm kia, già đi tìm cậu Học ngay". Lão ngừng lại, lau mép, nhìn một lượt anh em nhà họ Nguyễn: "Vả lại, khi cụ nằm vào áo quan rồi, cỗ áo quan cụ đặt làm sẵn từ nửa năm trước, cụ có trăn trối với già rằng: Đợi ba ngày sau khi cụ nhắm mắt rồi hãy hạ huyệt. Ý cụ là muốn các cậu với cô về đủ mặt ngày táng. Cụ còn dặn lại khi cụ mất thì báo cho ông Chưởng khế biết ngay…" Liên ngắt lời: "Già có làm đúng như lời cụ dặn không?" "Vâng, già đi báo ông Chưởng khế rồi mới đi tìm cậu Học. Không hiểu sao các cậu với cô đã biết mà về trước". "Chúng tôi nhận được điện tín do ông Chưởng khế đánh đi". "Lạ quá, ông ta làm sao biết địa chỉ các cậu với cô?" "Sao già nói thế?" "Chính ông hỏi tôi: Biết các cậu với cô ở đâu mà báo tin hay chờ đợi. Ông còn gia hạn: trong một ngày phải an táng cụ, quàn lâu nguy hiểm lắm, nhất là cá đang ướp dở… lại gặp mưa trái thường". "Ly kỳ đấy chứ? Tôi làm mãi vùng núi đá miền thượng du mà người ta cũng biết để gọi về". "Chắc mẹ cho ông ta hay. Mẹ có thể nhờ ông ta làm di chúc thì còn gì mẹ giấu ông ta nữa". Ông Học nói xong liền vỗ bã thuốc khỏi lòng điếu, cất tẩu vào túi và đứng lên, dáng điệu e ngại. Ông đến gần khung cửa có quả nắm bằng đồng. Sĩ đứng dậy đi theo: "Khoá chắc lắm, tôi mở thử mãi rồi". "Già Năm, chìa khoá đâu?" "Thưa cậu, để lấy thêm nến đã". Ông già vào căn phòng trống mang ra hai bao nến lớn, châm thêm hai cây rồi ngần ngừ nói với Học: "Cậu yếu lắm, để tôi vào trước mở cửa sổ cho thoáng hơi đã". Hiệp sửng sốt hỏi: "Già Năm, thì hài mẹ tôi quàn trong phòng này sao?" Anh ta hỏi xong cũng đứng vội dậy. Với quần áo nhàu nát, trông anh ta có vẻ mệt mỏi truỵ lạc. Ông già nghiêm giọng: "Vâng, tôi quàn thi hài cụ trong này". Hai người anh lớn của Hiệp đứng sau lão gia nhân, tay nâng cao ngọn nến trắng. Trong lúc ông lão lúi húi lần chùm chìa khoá, căn phòng chìm vào sự nín thinh nặng nề. Sự yên lặng tĩnh mịch đó khiến Hiệp có cảm tưởng vừa nghe được một tiếng động lịch kịch đâu đó bên tai. Chàng mở mắt ngó chị. Liên cũng như đang nghe ngóng không khí bưng bít giữa những cánh cửa đóng kín, sặc mùi sáp nến khét lẹt. Nàng nhìn xuống mặt bàn, trông thấy tấm hình bà Thịnh Phước lồng trong cái khung lớn mà hôm qua Sĩ hạ từ trên tường xuống. Nàng nhìn Hiệp. Hai chị em lặng lẽ nhìn nhau như cùng dò hỏi về một linh cảm mường tượng thấy vong hồn người chết quanh quẩn nơi bàn ghế. Hiệp bỗng chăm chú nhìn lên trần nhà quét vôi trắng. Chàng nghĩ đến những con chuột trên rầm thượng mà hơn hai năm nay chàng không nhớ tới. Già Năm lúng túng tra chìa khoá vào ổ. Già đặt bàn tay nhăn nheo lên quả nắm bằng đồng, khẽ xoay một vòng. Già đẩy mạnh hai cánh cửa gỗ lim nặng nề của căn phòng quàn thi hài. Và già hấp háy cặp mắt trong ánh nến lù mù, bàng hoàng quay lại: "Cậu Học, cậu Học, cậu thấy gì không?" "Cái gì đó?" "Chúa tôi!" "Cái gì đó hả?" "Cái quan tài đâu rồi?" Liên cố gắng để không nắm lấy tay Hiệp. Nàng sững sờ dựa lưng vào tường, ngó thất thần vào căn phòng vừa được mở ra. Một cái giường gụ đen kiểu cổ, nệm bông soi bóng trên nền đá hoa sáng. Một cái tủ, một cái kệ, một cái bàn thấp cạnh giường. Và hai cái giá gỗ sơn quang dầu chơ vơ giữa khoảng trống, xếp hàng song đôi để đỡ một cái áo quan không có ở trên đó. Lão gia nhân thảng thốt ngó mọi người bằng cặp mắt khô ráo không muốn chớp. Khuôn mặt già nua của lão căng ra, bất động, như một mặt tượng. Lão không thể hiểu cũng như không thể nói được nữa. Sĩ rung động toàn thân. Cái khối thịt trắng bệu bạo ấy muốn lả tả rụng xuống từng mảnh. Liên thấy ông anh khác mẹ của nàng là một con búp bê nhựa đã cũ, làn sơn tô mắt mũi tóc miệng đã lạt, những dây cao su nối tứ chi đã lỏng, để rũ xuội xuống trong dáng điệu chết đuối. Riêng ông Học phẫn nộ. Ông nắm ngực áo lão gia nhân: "Thế là thế nào hả, hả?" – Ông thọc tay vào túi áo để khẩu súng nhưng rút vội ngay ra. Tay kia cũng rời ngực áo lão già – "Già Năm, già nhớ rõ chứ? Mẹ tôi đâu, hả?" Lão gia nhân bỗng mếu máo. Nhưng Liên khóc trước lão. Nàng cắn chặt môi để khỏi kêu thành tiếng. Nàng úp mặt vào tường, nuốt sống những hơi thở sợ hãi. Lão già bật lên tiếng phân trần: "Chúa tôi! Tôi không biết! Tôi không biết! Chính tôi đậy nắp áo quan, chính tôi khoá cửa cẩn thận mà! Chúa tôi!" "Già thử xem có quên không?" "Cậu bảo quên cái gì?" "Hoặc là mẹ tôi được an táng rồi. Hoặc là già không khoá cửa?" "Làm sao tôi quên quái gở thế được kia, cậu? Tôi đã an táng cụ đâu?" "Khi tôi về đây, trưa hôm qua, phòng khách không khoá". "Thật sao cậu? Tôi khoá rõ mà" – ông lão ngơ ngẩn trong một lát – "mà nếu già này lú lẫn thì chỉ quên phòng ngoài thôi. Phòng này chính các cậu mở mãi không được. Phòng này chính tôi vừa mở ra trước mắt mọi người đó thôi". "Các người im lặng". Ông Học đi quanh gian phòng, thử các chốt cửa sổ, xem xét thật kỹ khung cửa mở xuống Suối Cá Thần. Tất cả đều đóng chặt. Ông bỗng nói: "Như thế có người mở được gian phòng này, bằng chìa khoá riêng". "Ai mới được chứ? Để làm gì mới được chứ?" "Anh Học, phải gặp ông Chưởng khế và ông Hội đồng". Trong khi mọi người tính toán, Hiệp đến ngồi trên chân cầu thang gỗ thường dùng để trèo lên rầm thượng, bằng lỗ hổng vuông nhỏ đục trên trần, ngay trên đầu thang phía nóc tủ, Hiệp nhớ xưa có bao nhiêu mâm đồng, đỉnh đồng, mẹ chàng đều cho cất trên rầm thượng hệ thống, hình như để tránh han rỉ. Thoáng nhớ đến thời thơ ấu đùa nghịch leo trèo, Hiệp ôm đầu nhớ mẹ. Chàng ngó lên lỗ hổng trên trần, có ý muốn lên đó. Song Liên đã gọi chàng: "Chú Hiệp, chú với già Năm ra Trụ sở Hội đồng Tỉnh đi". "Để anh Sĩ". "Được, để tôi". Thình lình có tiếng gõ cửa mạnh. Mọi người nhìn sững một giây. Ông Học bảo các em và lão gia nhân ra hết phòng khách. Ông khoá trái cánh cửa có quả nắm bằng đồng lại, tự nhốt mình trong đó. Lão gia nhân hé cửa nhìn ra hiên. Khi nhận ra ông Chưởng khế và ông Hội đồng tỉnh, lão mở một bên cửa cho họ vào. Ở phía trong, Hiệp cũng mở rộng một cánh cửa sổ. Mọi người khép mắt vì ánh sáng chói loà. Liên tắt vội ngọn nến còn cháy trên bàn. Một ngày mở ra trong ngôi biệt thự âm u của nhà Thịnh Phước. Qua những khung cửa phía sau, thung lũng Suối Cá Thần hiện ra trong khoảng xanh âm u tẻ nhạt. Hai viên chức hàng tỉnh bước vào, ngồi xuống ghế. Trên hai ghế kia là Sĩ và Liên. Hiệp đứng sau lưng chị, lão gia nhân đứng sau lưng Sĩ. Ông Chưởng khế ôm một cái cặp da lớn, mang kính trắng. Ông Hội đồng khoác áo veste nâu tương tự của ông Học, quần vàng, giày đỏ, trán bóng, môi dày. Ông ngó khắp lượt bằng cặp mắt sắc, rồi ông rút thuốc mélia vàng ra hút. Trong khi vỗ vỗ điếu thuốc lên tấm ảnh bà Thịnh Phước đặt trên bàn, ông chậm rãi nói: "Cụ mất đột ngột, thật chúng tôi lấy làm buồn lắm. Chúng tôi định tổ chức ngày đám cụ cho long trọng. Ở Tây Phố này có lẽ cụ là bậc niên trưởng nhất đấy. Vả lại" – ông ta cười – "nhờ cụ và các ông, với lại cô, chúng tôi được nương cậy nhiều lắm. Song tiếc rằng các ông với cô về có hơi chậm, già Năm lại bỏ đi ngay, nên tôi và ông Chưởng khế đây vạn bất đắc dĩ, đã phải cho chuyển linh cữu cụ ra khỏi nhà". "Các ông làm thế là vô phép". "Chúng tôi về từ hôm qua, tại sao ông làm vội thế?" Mong cô bớt giận. Cô không ở Tây Phố" – ông ta luôn luôn giữ nụ cười thủ thế – "cô không rõ. Mùa này cá đều đang ướp dở dang, mưa lại thất thường, dân chúng họ không chịu để cụ như vậy. Nếu cô cần chứng cớ…" Ông ta móc túi áo lấy ra hai lá thư viết trên giấy học trò, gấp tư, đưa cho anh em Liên. Liên chỉ ngó qua không buồn đọc, rồi đặt trả hai lá thư khiếu nại xuống bàn. Nàng lạnh lùng nói: "Chúng tôi có nhà cửa đàng hoàng, lý gì các ông mang thi hài mẹ tôi ra khỏi nhà? Các ông để ở nhà xác chứ gì? Các ông coi mẹ tôi như một cái xác vô thừa nhận sao?" "Chúa tôi!" Ông Hội đồng xếp giấy lại, cho vào cặp, ngẩng mặt lên: "Không. Ai bảo cô là thi hài cụ để ở nhà xác? Đời nào chúng tôi làm thế?" "Cảm ơn các ông". "Vậy thi hài mẹ tôi đâu?" "Chúng tôi chôn rồi. Ông Sĩ đứng dậy: "Cái gì hả? Ông nói sao?" Từ ban nãy Hiệp vẫn đứng im sau ghế, bình thản nhắc lại: "Ông ta chôn rồi". "Các ông muốn gì hả?" "Chúa tôi!" Liên hỏi: "Ông Hội đồng, ông tự ý làm thế chứ?" "Thưa cô, dân chúng khiếu nại quá… Có ông Chưởng khế đây biết, phải không ông Chưởng?" Người được hỏi từ nãy vẫn ôm cái cặp, tay cầm mùi soa nhàu nát, ông ta nhìn tất cả mọi người: "Vâng, thật là vạn bất đắc dĩ, thưa cô. Ai muốn để cụ về một cách buồn thảm như thế". Người anh kế của Liên bất lực, thở dài: "Mẹ tôi ăn ở bạc ác gì hả? Sao các ông làm thế?" Liên nói: "Không phải lúc để kể tình kể oán. Ông an táng mẹ tôi ở đâu, ông Chưởng khế?" "Thưa cái đó ông Hội đồng quyết định". "Ông Hội đồng?" "Thưa cô, ngoài nghĩa địa chung của thị trấn, cạnh Suối Cá Thần". Người lão bộc kêu lớn: "Cụ tôi khi sống, luôn luôn mong được an táng ở đỉnh đồi Lương Sơn. Hai viên chức hàng tỉnh nhìn nhau. Viên Chưởng khế buột miệng: "Tôi quên mất việc đó rồi!" "Ông không được việc gì cả! Ông im đi!" "Ông quên chi đó, thưa ông Chưởng khế?" "Tôi lú lẫn quá. Cụ có nói với tôi…" "Thôi, ông im đi" – ông Hội đồng gắt và quay sang phía Liên – "Thưa cô, sự đã rồi. Dù sao cụ cũng đã được ồ yên mả đẹp". "Chúa tôi!" "Chú Hiệp, chú tính sao?" "Chị Liên?" "Ông Hội đồng, ông được phép an táng mẹ tôi chứ?" "Vâng, hàng tỉnh đã uỷ quyền cho tôi. Có giấy tờ phiên họp uỷ quyền đây". "Tôi không công nhận cái giấy ấy". "Ý cô muốn sao?" "Ông Chưởng khế, ông là người được mẹ tôi uỷ thác làm tờ di chúc phải không?" "Vâng, hồi còn sinh thời, tôi thường được cụ cho giúp việc giấy tờ" – ông ta cười – "Cụ đối với tôi thật là…" "Vậy mà ông đối xử với mẹ tôi như thế?" "Thưa cô, có điều gì đâu. Chúng tôi tưởng các ông với cô không về kịp, nghĩ đến lòng tốt của cụ nên chúng tôi đã đứng ra lo việc an táng". "Cảm ơn tấm lòng tốt của ông. Chứ không phải vì tờ di chúc sao?" "Tôi không hiểu ý cô". "Chúng tôi không chấp nhận việc làm của các ông. Chúng tôi sẽ cải táng mẹ tôi ngay hôm nay!" "Chúa tôi!" "Cô Liên! Cô tính đào mả mẹ sao?" "Tôi vô phúc mất dạy vậy đó" – nàng kêu lớn – "Anh Học, bộ anh còn ở đó sao?" Ông Học rời căn phòng vẫn đóng kín bước ra trước sự ngạc nhiên của hai viên chức, một tay ông để trong túi áo veste, dáng điệu điềm đạm vững vàng. "Già Năm, đóng cửa giùm tôi". Khi lão gia nhân bước vội ra kéo cửa cài chốt lại thì Sĩ đứng dậy nhường ghế cho anh. Ông Học ngồi xuống. "Chào các ông. Tôi là trưởng nam của bà Thịnh Phước". Hai viên chức lúng túng gật đầu chào. Trong khi ông Học lấy tẩu mồi thuốc thì Liên thân mật nhưng vội vàng thò tay vào túi áo veste của anh lấy lại khẩu súng. Nàng lấy vẻ bình tĩnh đặt khẩu súng vào cái xắc ôm trong lòng, nói với ông Chưởng khế: "Bây giờ xin ông cho chúng tôi biết về tờ di chúc đó". Hiệp thân mật cúi xuống sát vai chị, định nói gì đó nhưng Liên khẽ ra hiệu: "Hiệp im lặng nghe đọc di chúc". Ông Chưởng khế lấy mùi xoa lau mặt, sửa lại kính, liếc nhìn cái xắc của Liên, mở cặp lấy ra một tập hồ sơ. Ông lôi một cái phong bì lớn có gắn xi lên mặt bàn. Bằng hai bàn tay run rẩy như người có bệnh tê thắp, ông xé mép, rút tờ di chúc ra. Song ông quá xúc động không đọc nổi, Liên giơ tay. Ông trao xấp giấy cho nàng. "Tôi xin tóm tắt để các người nghe. Tôi miễn đọc phần thủ tục. Đây là những phần chính". Nàng chăm chú một lát rồi lên tiếng: … "Khi tôi từ trần rồi, gia tài của tôi, gồm số tiền mặt là 1.500.000 đồng gửi ở Đông Dương Ngân hàng và các bất động sản có ghi phía dưới, sẽ được chia ra như sau, tuỳ hai trường hợp: "Trường hợp thứ nhất: Nếu các con tôi về họp mặt đông đủ ba đứa là trưởng nam Nguyễn Văn Học, con thứ Nguyễn Văn Sĩ, con út Nguyễn Văn Hiệp, thì trưởng nam lo việc ma chay, hưởng một phần ba số tiền mặt gửi ở nhà Đông Dương Ngân hàng và tất cả các bất động sản. Và phải giữ lại lão gia nhân Trần Văn Năm cho lão 100.000 đồng trong số trưởng nam được hưởng nếu lão còn sống, và phải lo ma chay cho lão, nếu lão từ trần sau đó". "Phần còn lại sau khi khấu đi 100.000 đồng cho con riêng của chồng tôi là Nguyễn Phương Liên nếu nó còn sống và trở về, còn sẽ chia đều cho hai con trai của tôi. Trường hợp con cả chết, con kế phải lo ma chay và số tiền dôi ra sẽ giúp vào quỹ xã hội. Phần mộ tôi phải xây bằng đá ông trên đỉnh đồi Lương Sơn, hướng mặt về phía biển". Liên ngừng đọc, rời mắt khỏi tờ giấy nhưng không nhìn ai. Nàng thở có vẻ mệt nhọc nhưng lại cúi xuống đọc tiếp: "Trường hợp thứ hai: Nếu các con tôi không đứa nào có mặt kể đến lúc an táng tôi nơi phần mộ đã định sẵn như trên, thì người nào có công đứng ra lo ma chay cho tôi, - bất cứ là ai, không phải con tôi - sẽ hưởng được một phần năm số tiền mặt 1.500.000 đông. Số tiền còn lại và các bất động sản sẽ được chia ra như sau…" "Di chúc này được trao cho Chưởng khế Đỗ Văn Tu thi hành…". Liên đọc xong, trao tờ di chúc cho ông Học. Ông ta đeo kính đọc qua. Liên liếc nhìn Sĩ. Ông ta có vẻ thản nhiên như không. Liên cảm thấy Hiệp đứng sát sau lưng ghế, chạm vào tóc nàng, nhưng nàng không muốn quay lại ngó mặt em. Thình lình nàng hỏi: "Thưa ông Chưởng khế, ông là Đỗ Văn Tu?" "Vâng. Đỗ Văn Tu là tôi". "Ông không phải Đỗ Văn Tu". "Cô nói sao? Thẻ căn cước và thẻ cử tri của tôi đây". "Có nghĩa là chúng tôi không coi ông là người được thi hành bản di chúc này. Ông đã tiết lộ điều khoản của trường hợp thứ hai cho ông Hội đồng. Các ông muốn chia một phần năm số tiền một triệu rưỡi". Ông Hội đồng cười nhạt, đứng dậy: "Cô sẽ bó tay. Tôi bảo cho mà biết. Nếu cô muốn lôi thôi". "Rất tiếc các ông đã lầm lẫn. Phải chi các ông an táng mẹ tôi ở đồi Lương Sơn". "Lỗi ở ông Chưởng khế" – ông ta quay sang ông này – "Ông làm hỏng hết! Ông đ… được việc gì cả!" Người anh cả lạnh nhạt nói: "Xin từ giã các ông". Ông vừa nói, vừa xé vụn tờ di chúc. Một viên chức run lên vì giận và luống cuống… "Ông Học. Ông làm thế cũng vô ích. Ông nên nhớ chúng tôi còn giữ bản chính". Sĩ hét lớn: "Bước!" Lão gia nhân mở cửa cho hai viên chức bước ra. Họ hầm hầm nhìn mọi người. Ông Hội đồng cười nhạt: "Rồi các người biết tay tôi. Các người sẽ cuốn gói khỏi Tây Phố này trong ngày hôm nay". Ông Học đăm chiêu ngó xuống tấm hình mẹ vẫn đặt ngửa trên bàn. Ông vuốt mái tóc cắt ngắn, rồi ngửng mặt lên ngó em gái, mỉm cười: "Anh rất hài lòng về cô". Liên cố giấu phản ứng. Nàng ngần ngừ trong giây lát rồi trao khẩu súng cho anh: "Anh giữ lấy, anh Học". Ông Học tươi tỉnh đưa tay ra. Ông đỡ khẩu súng bỏ vào túi áo và bảo lão gia nhân: "Các cửa khác đóng lại, riêng phòng khách cứ để mở. Xong lão đi mua giùm tôi vài cái cuốc, cái xẻng, mấy tay đòn. Đêm nay chúng ta sẽ đào mộ cụ, mang thì hài cụ về đây. Liên nhìn trầm ngâm ra khu vườn, mưa đã ngớt.