Chương 3

Khoảng một giờ sau, người anh mệt mỏi về nhà, đầu tóc rũ rượi, quần áo ướt sũng nước mưa. Ông đứng rất lâu trước gian phòng khoá cứng, nhiều lần đặt tay trên quả nắm bằng đồng mà không thiết xoay nữa. Khi ông tới trụ sở Hội đồng tỉnh, nơi này không có một ai. Ông gõ hoài công, cánh cửa nín thinh. Ông đội mưa ra về, mở thử căn phòng nhà mình lần nữa. Không một ai có thể cho ông biết thi hài mẹ ông quàn ở đâu, hay đã an táng rồi, vào một giờ khuya muộn như thế ở Tây Phố. Cuối cùng ông đặt mình xuống một trong hai chiếc ghế bành còn lại, ngủ qua đêm.
Bấy giờ Liên đã chợp mắt, đầu tựa lên vai ghế, giày rút ra khỏi chân. Hiệp cố thức canh giấc ngủ cho chị. Chàng không hỏi Sĩ một lời nào suốt từ đó trở đi, vì biết là vô ích. Cả ba đều chờ đến ngày mai.
Vào lúc rạng đông, một chiếc xe ngựa bánh cao su dừng lại trước ngôi biệt thự của bà Thịnh Phước. Chấm đèn bão le lói đầu xe là điểm sáng duy nhất trên con dốc Ngô Thời Nhiệm. Ngoài hơi thở dồn thoát mệt nhọc của con ngựa, chiếc xe, người xà ích và hai người khách không gây một tiếng động lớn nào.
Hai người đàn ông bước xuống tay không. Với chiếc thổ mộ này, họ phải từ một miền núi hẻo lánh nào khác ghé về, nên không dùng xe đò và phải đi đêm. Đợi cho chiếc xe ngựa về bến đậu, họ mới mở cánh cổng sắt bước lên lối đi lát gạch. Khi họ hiện ra trước vùng ánh sáng vàng vọt của ngọn nến, Sĩ và Hiệp đều tỉnh giấc, rời khỏi mặt ghế. Hai người mới tới là hai người họ đang mong đợi: người anh cả và lão gia nhân. Sĩ chào đón:
"Anh Học, tôi tưởng anh không về kịp.
Người đàn ông đứng tuổi chỉ mỉm cười chào lại mà không lên tiếng. Ông ta mặc áo veste nâu có sọc trắng, gầy, khuôn mặt hốc hác, mang kính lớn gọng, râu mép rậm, dáng chững chạc nhưng suy yếu. Ông ngồi xuống chiếc ghế trống còn lại, ngả lưng nghỉ ngơi. Sĩ và Hiệp ngồi lại chỗ cũ, một người dáng chờ đợi, một người vẻ bình thản hoài nguy không suy chuyển. Người anh cả và lão gia nhân chăm chú ngó Liên. Trong một thoáng họ mỉm cười, nhưng lặng lẽ như không hề ngạc nhiên, không hề cảm động, tuồng như họ biết trước hay không từng để ý đến sự có mặt của nàng.
Sĩ hỏi:
"Già Năm, lúc cụ mất, già có ở đây không?"
Ông Học giơ một bàn tay ra hiệu cắt đứt câu chuyện, ông nhỏ nhẹ bảo em:
"Để sáng mai đã, chú Sĩ. Còn nhiều việc phải làm trước".
Liên choàng dậy bởi những lời đối thoại đó. Nàng nhận ra hai người thân xưa kia, liền sửa dáng ngồi lại ngay ngắn:
"Anh mới về".
Và nàng đăm đăm nhìn người lão bộc. Theo lời người phu xích lô, lão đã đi mất ngay sau khi bà Thịnh Phước từ trần. Sự trở về của lão, cùng với Học, là một câu trả lời sáng tỏ. Ông anh cả của nàng vẫn sống với cái tác phong bí mật của các nhân vật nàng thường đọc thấy qua các bài hải ngoại ký sự được đăng một cách trịnh trọng trên báo chương vào những năm sau chính biến.
Ông Học thong thả gỡ kính rồi lấy tẩu từ túi áo veste ra nhồi thuốc. Ông làm việc đó một cách thư thái, nghiền ngẫm, coi nó như là một lạc thú hằng ngày. Ông mồi lửa bằng hộp quẹt máy nội hoá, thứ quẹt bán nhiều ở các tiệm tạp hoá bình dân. Ông bắt đầu từ người em kế:
"Lâu nay chú vẫn bình thường, chú Sĩ?"
"Vâng, cũng sống được".
"Vẫn mở trường?"
"Vâng, mới khai thác thêm một trường nữa ở Sài Gòn. Anh tính…"
"Sao tưởng chú ở Đà Lạt".
"Vâng. Ở cả hai nơi" – ông dừng lại, ngượng nghịu. "Tuỳ theo công việc. Mùa hè…"
"Ở như thế làm sao chú ứng cử được?"
"Tôi khai sổ gia đình ở Đà Lạt. Ứng cử ở các tỉnh nhỏ, mình có lợi. Là giám đốc một trường lớn… Mà sao anh biết rõ thế?"
Người anh lặng lẽ nói:
"Dù anh em lâu không gặp mặt nhau, tôi vẫn theo dõi từng người. Thím Hai vẫn khỏe mạnh? Thím ấy thi cử nữa hay thôi?"
"Vâng, cảm ơn anh" - ông hài lòng - "nhà tôi vẫn như thường. Thôi, không thi cử gì nữa".
Ông Học đột ngột nói ngừng tiếng:
"Tôi vạn bất đắc dĩ không thể ở nhà được nên mới nay đây mai đó, trốn tránh chỗ đông người. Còn chú, nhẽ ra chú nên ở nhà với mẹ".
"Tôi có mời mẹ lên Sài Gòn, mẹ không ưng. Các cụ khó tính… Tôi ló mặt về là chửi, anh tính".
"Ai trông cơ sở ở đây nếu mẹ nhận lời mời của chú? Chú đừng viện nhiều lý lẽ. Chứ không phải cái vụ thím Hai, còn chút nữa chú phải đóng cửa trường à? Tôi không bảo chú thế là tội lỗi đâu, chú đừng ngại. Nhưng chú cứ tưởng mình là người có tội, nên không dám nhìn mặt mẹ, cũng như không dám về Tây Phố này. Trong khi nhẽ ra phải cho chúng vỡ mặt ra ấy chứ. Chú biết khi mẹ sắp mất, ở đây chúng kháo nhau làm sao không? Chúng muốn vùi mẹ xuống đất như vùi một tàn tích lỗi thời. Dẫu người ta có lỗi thời thật đi nữa, chúng phải nhớ đến cái lúc người ta đương thời chứ? Láo! Xỏ lá! Tôi về đây là để triệt tụi hạ lưu đó. Và ở lại. Ở lại. Tâm trạng các chú bây giờ tôi thừa hiểu ra sao rồi. Tôi đi guốc vào bụng các người. Cái thứ tâm trạng đại phương, cái thứ đánh đĩ chín phương còn một phương lấy chồng, cái thứ tâm trạng lớn lên ở chỗ khác không quê hương quá khứ, cái thứ đồ bỏ đó, cái thứ đê tiện đó, cái thứ chó đẻ khốn nạn! Tôi biết các người về đây để thanh toán quá khứ, rồi chia nhau đi, rồi làm mặt lạ. Phải thế không chú Sĩ, chú Hiệp?"
Người thanh niên bình tĩnh đáp lại:
"Tôi tưởng anh không thể ở lại đây được".
"Tôi sẽ ở lại".
"Tôi hy vọng tôi nghĩ giống chị Liên.
Liên lắc đầu cười:
"Tây Phố không phải là phương tôi lấy chồng.
Người anh cả thở mạnh, chớp mắt rồi điềm đạm nói:
"Liên, anh không ghét cô cũng như không lên án cô đã đi làm cái nghề ấy, nhưng cô ra đi là phải hơn. Chuyện anh vừa nói với chú Sĩ là chuyện thái độ. Chuyện cô thuộc phạm vi chuyên môn: Có những nghề hoàn toàn đoạn tuyệt với quá khứ. Khi mình theo nghề ấy, mình phải bị hy sinh".
"Cũng như có những nghề phải sống bằng quá khứ, xâu chuỗi, thành tích như nghề chính trị của anh. Tôi tưởng nó cũng là nghề chuyên môn. Trên căn bản, chúng ta toàn là chuyên viên, anh hay tôi cũng vậy. Chỉ khác anh làm việc bằng tinh thần, còn tôi" – nàng cười – "tôi lao động tay chân".
Ông Học cười nhạt:
"Cô không nên dùng giọng nhà nghề ở đây".
"Cảm ơn anh. Tôi chưa là một nhà nghề thực thụ. Quê hương Tây Phố chúng ta chưa đủ tư cách để đào tạo những gì gọi là nhà nghề, trên lãnh vực nào cũng thế. Nó chưa là một thành phố, nó mới là một thị trấn đang cố thích nghi với đồ dùng nhập cảng. Anh Sĩ là kẻ đầu nước, anh là kẻ cuối nước, chú Hiệp trôi theo và tôi mắc kẹt. Nên chúng ta lần lượt là bọn lợi dụng, bọn khí tiết, bọn dửng dưng và bọn thoả hiệp".
"Cô nói láo".
"Tôi không thiết nghĩ xem chị nói đúng hay sai".
"Cái đó tuỳ mọi người. Duy tôi muốn nói với anh Sĩ điều này: Nếu anh còn giữ giọng đó, tôi xin phép coi như anh không có mặt ở đây".
"Liên, cô không được vô lễ với anh cô".
"Già Năm đâu?"
Ông già lục đục một lát rồi từ căn phòng trống ló mặt ra, ngó mọi người dò hỏi. Sĩ nói:
"Già có cần đi ăn uống gì thì đi đi".
Ông Học phác một cử chỉ:
"Nếu không già có thể cứ ở trong đó. Các người khỏi lo, già là người tin cẩn".
"Tôi rất tiếc phải trái lời anh, nghĩa là phải vô lễ, anh Học; vì hôm nay không có chuyện vô lễ hay không".
"Tôi chắc cô sẽ không ân hận. Điều tôi mong muốn là chúng ta cùng ở lại Tây Phố sau khi an táng mẹ, trừ cô. Ở lại một cách êm đẹp, một cách anh dũng. Ở lại cho Tây Phố chúng tự câm họng hoặc làm chúng câm họng".
"Tôi đi hay ở là ý thích của tôi".
"Từ giờ phút này không ai được nói đến ý thích hết. Từ giờ phút này phải hy sinh những thứ đó. Tôi không thể để nhà Thịnh Phước suy sụp. Khi nào nơi này còn đánh được cá, còn phơi được muối, thì còn nhà Thịnh Phước. Song vì tôi không thể ló mặt ra ngoài, nên không thể để dân thị trấn biết tôi về đây. Rất may là mẹ mất vào tháng này, khi mùa muối và mùa đánh cá tạm ngưng. Sang tháng sau chúng ta phải thông thạo công việc".
"Tôi nhắc anh một điều: Tôi không biết gì về ngư nghiệp hết".
Ông Sĩ ngửa người trong ghế:
"Cô khỏi lo, chắc không phải nhờ đến tài chuyên môn của cô".
"Cũng chưa biết chừng".
"Chúng ta nói chuyện qua tình anh em. Liên, những lời anh nói với cô là những lời của một người anh".
"Tôi thì khác. Tôi đã nói rồi".
"Vậy với tư cách nào chú ngồi nói chuyện với cô Liên trong gian phòng này".
"Tôi đã nói từ lúc anh chưa về. Tôi tạm coi cô Liên và tôi là hai người lạ mặt về giúp đám tang nhà Thịnh Phước".
"Tôi chưa hề và không bao giờ chấp nhận đề nghị ấy. Tôi có mặt như người con trong gia đình, dù là con hoang, con trên giấy tờ".
"Người con cô nói đó chết từ lâu rồi".
"Hoặc anh chết từ lâu rồi".
Hiệp cúi đầu, nói không nhìn ai:
"Nghĩa là trong hai người cần có một người phải chết. Mẹ có phước lắm, nên mới có con chết theo đó".
"Chú câm mồm. Bây giờ không phải lúc đùa".
"Làm thế nào khác được nếu tôi thấy anh cũng như chị Liên đều còn sống, nhưng người này lại không chấp nhận người kia. Một là thế, hoặc ngược lại, cả hai đều đã chết. Anh muốn cách nào?"
"Chú muốn cách nào?"
"Cách của tôi".
"Tôi muốn hỏi: Cách nào trong hai cách của cô Liên và của tôi".
"Tại sao không có cách thứ ba?" - Chàng hài hước - "Thế giới còn có ba phe nữa là gia đình chúng ta".
"Phe thứ ba là lợi dụng".
"Tôi cũng chẳng rõ. Nhưng tôi có ý riêng".
"Ban nãy tôi có nói: Chú Hiệp là người trôi theo".
"Xin lỗi, miễn chị bình phẩm. Chỉ có tôi làm việc đó với mình".
"Tôi nhắc lại cho chú và cô Liên hay: Việc chúng ta là việc chung. Tôi mong các người quên mình trong một thời gian".
"Tôi rất tiếc, anh Học. Nếu tôi quên được tôi là thằng Hiệp, thằng Nguyễn Văn Hiệp của cái gia đình này, tôi đã không về đây. Nhưng tôi đã về đây, nên tôi không thể quên mình được nữa. Lý lẽ của anh là để áp dụng cho lý tưởng anh. Tôi lấy làm buồn phải thú nhận ở đây, tôi không thể theo những lý lẽ cao cả đó được. Tôi chỉ biết yêu mình, tôi ích kỷ".
"Tôi gần đồng ý với chú, chú Hiệp. Nói thế không có nghĩa là tôi muốn liên minh với chú đâu. Tôi cũng chỉ yêu mình và ích kỷ". Liên nói.
"Phải trơ trẽn lắm mới nhận được mình là kẻ ích kỷ như các người".
"Tôi hãnh diện dám nhận rằng mình ích kỷ".
"Tôi biết nghĩ sao, tôi sống thế nào thì nói thế".
"Tôi không ngờ ngày nay người ta bẩn đến thế đó".
"Tôi tự hào như vậy".
"Có gì mà ngờ hay không ngờ. Thái độ đó là thái độ bàng quan. Tôi nói thẳng: Chúng ta chỉ khác nhau ở chỗ hèn mạt hay can đảm".
"Đồ điếm".
"Tôi điếm với thiên hạ, không thèm điếm với anh".
"Cô điếm với tôi!"
"Mong đó không phải là nguyện vọng của anh".
Ông Sĩ hét lớn:
"Đó là sự thực. Trời ơi".
"Mong anh lầm. Tôi chưa cầm của anh tờ giấy bạc nào".
"Cô điếm vì muốn được ngang hàng với kẻ khác. Người ta điếm nhiều khi không vì tiền, cô biết không?"
"Thật là thú vị". Hiệp nói.
Già Năm hiện ra trên khung cửa phòng trống. Già nhìn Học và nói: "Sắp sáng rồi, cậu Học". Học gật đầu ra hiệu cho già lui vào. Ngoài cửa sổ, trời hừng dần.
"Chú Sĩ, chú im lặng. Phải nhận chúng ta đều là con của gia đình, đều là anh em một nhà dù cô Liên là con riêng của thầy và sống một lề lối khác chúng ta".
"Tôi không bao giờ nhận sự nhục nhã đó".
"Nếu trong di chúc, mẹ nhận thì sao?" Hiệp hỏi.
"Kệ mẹ".
"Câu trả lời của anh ấy rất rõ ràng".
Chợt cái xắc tay của Liên thấm lệ nến, bắt lửa. Chiếc khăn san mỏng của nàng vắt ở đó cháy vèo như cánh chuồn. Hiệp hất cái xắc xuống sàn nhà, đứng lên dập tắt ngọn lửa. Khi chàng nhấc cái xắc lên chàng trông thấy một khẩu súng lục nhỏ trong đó. Chàng cầm lên tay, nói:
"Tôi không ngờ chị chơi súng".
"Chú làm ơn đưa cho tôi".
"Tôi muốn mua một khẩu. Trong núi đá nơi tôi làm việc nhiều nguy hiểm lắm. Làm sao mua được?"
"Ở đây khí giới chỉ bán buôn, không bán lẻ. Nếu cần một khẩu thì phải tìm cách đổi".
"Làm sao để đổi được một khẩu".
"Với chú không biết phải làm thế nào".
"Xin lỗi đã hỏi chị".
Anh ta nói và nhân thể cúi xuống nhặt cái mũ đang nằm ngửa cạnh cái va-li của Liên. Ông Học nhoài người tới gần em, tay nắm lấy đầu súng, miệng nói vội: "Tôi xem nào, chú Hiệp". Ông vừa nói dứt, tay đã lột khẩu súng khỏi tay Hiệp. Ông chăm chú ngó thứ khí giới mà ông ao ước bao lâu nay, đôi mắt lộ vẻ thèm muốn. Liên đứng dậy, một tay vuốt nếp áo, một tay chìa ra. Nàng nói:
"Anh cho tôi xin".
"Cô có thể để lại cho anh, cô Liên?"
"Không".
"Bao nhiêu cũng được".
"Không. Tôi không để được".
"Rồi cô kiếm cái khác. Cô kiếm chắc dễ". Nói xong, ông vuốt mặt làm như mệt mỏi.
"Không, anh cho tôi xin".
Bốn anh em nhà Thịnh Phước chăm chú ngó nhau trong một biến động bất ngờ. Sĩ có vẻ sợ hãi, Hiệp và Học thèm muốn. Liên đứng ngồi không yên. Họ không để ý tới gã thanh niên mặc đồng phục xanh chiều hôm qua đã trở lại đang ngó qua cửa sổ. Hình như gã đến từ lâu, nghe được một phần câu chuyện và tò mò nhìn vào.
Lúc ấy Liên nóng nảy giằng lấy khẩu súng, song ông Học giơ cao tay vượt khỏi. Gã thanh niên hụp đầu trước một tiếng nổ tưởng tượng, hoảng hốt hét lớn. Tiếng hét làm mọi người giật mình, và lát sau kinh sợ. Gã thanh niên chạy ra đến đường, ghếch chân lên xe đạp rồi mới dám lên tiếng: "Mời các ông ra trụ sở Hội đồng Tỉnh có việc gấp. Ông Hội đồng tôi chờ hoài rồi". Gã nói xong đạp xe đi khuất.
Già Năm lại hiện ra trên khung cửa. Già lo lắng nhìn ông Học. Ông ta có vẻ lạnh ngắt, đôi mắt thất thần. Ông nắm chặt khẩu súng, nghĩ ngợi băn khoăn.
Người em kế lo ngại hỏi ư
"Làm thế nào bây giờ?"
"Chị Liên, chị có giấy phép giữ khí giới không?"
"Chú hỏi kỳ cục".
"Vô ích. Đứa nào dám vào đây hỏi giấy nhà này? Ông thì bắn vỡ sọ. Già Năm đâu?"
Lão gia nhân hấp tấp bước ra.
"Già ra khoá cổng lại cẩn thận".
Ông già khuất sau cánh cửa ra vào. Ông Học ra khép cửa sổ lại. Khẩu súng đã bỏ trong túi áo veste. Ông bảo các em: "Các chú và cô ngồi xuống. Hãy bình tâm".
Mấy phút sau lão gia nhân bước vào. Vai áo lão lấm tấm nước mưa. Sự yên lặng nín thở khiến Liên nhận ra mưa vẫn reo đều bên ngoài. Ngôi nhà lần lượt được khoá kín các cửa nên dù ban ngày, lão gia nhân phải mang nến ra tiếp tục giữ ngọn lửa, đủ soi mù mờ căn phòng.