BÌNH MINH XUẤT HIỆN

KHỔNG TỬ
 
Người đầu tiên đứng lên mở đường cho phong trào là Khổng Tử[1], và ta có thể nói rằng bình minh của triết học Trung Hoa xuất hiện ở nước Lỗ.
 
Trước ông, trong số các nhà quý tộc, các khanh, đại phu, cũng đã có nhiều vị bác học, như Lỗ có Liễu Hạ Huệ, Tấn có Thúc Hướng, Trịnh có Tử Sản, Tề có Án Tử; nhưng họ giàu sang, lại chấp chính, có phương tiện thực hiện lý tưởng của mình nên không cần phải viết sách, mà cũng không có thì giờ để viết, nên không lưu lại được một học thuyết có hệ thống. Khổng Tử vì là dòng dõi quý tộc, nên được học từ hồi nhỏ, lớn lên có một chủ trương, một cái đạo mà không có dịp thực hành – 51 tuổi mới được vua Lỗ dùng trong bốn năm năm thôi – nên mới có thì giờ dạy học, viết sách, lập thành một phái.
 
Lỗ ở gần Chu, mà Lỗ vẫn tôn Chu, theo lễ của Chu (Tả truyện chép: Lễ nhà Chu Lỗ còn giữ hết = Chu Lễ tận tạn Lỗ hĩ[2]). Khổng Tử sinh ở Lỗ, nên biết rõ Chu lễ và thích Chu lễ, do đó có khuynh hướng tôn Chu, thủ cựu. Ông thủ cựu có lẽ còn vì hai lý do nữa:
 
1. Bẩm tính ông ôn hoà, nghiêm cẩn, cho nên đã thích tế lễ ngay từ hồi nhỏ (tương truyền khi chơi với trẻ, hay bày đồ cúng tế), lớn lên đến Lạc Ấp, kinh đô của Đông Chu, để khảo sát tường tận về tế lễ;
 
2. Thời đại của ông tương đối không loạn bằng các thời sau, các vua chư hầu chắc còn hơi trọng nhà Chu, cho nên ông dễ tin rằng chủ trương tôn Chu của ông có thể thức hiện được.
 
Ông muốn thuyết phục các chư hầu theo văn hóa của Chu. Ông bảo: “Như có người dùng ta, thì ta sẽ làm cho Đông Chu thịnh lên chăng?” (Như hữu dụng ngã giả, ngô kỳ vi Đông Chu hồ?[3] – Dương Hoá). Có lần ông than thở: “Đã lâu quá ta không lại nằm mộng thấy Chu Công”. (Cửu hĩ ngô bất phục mộng kiến Chu Công.[4] – Thuật nhi).
 
Tôn Chu là trọng chế độ tôn ti thời phong kiến, là mong quyền hành lại được tập trung như trước, cho xã hội có trật tự, khỏi loạn lạc.
 
Tuy nhiên, ông không hoàn toàn thủ cựu mà có nhiều tư tưởng canh tân. Ông tự bảo là “thuật nhi bất tác”. Chữ thuật đó không có nghĩa là truyền cổ, theo cổ, mà có nghĩa là tiếp tục phát triển cái cổ để cải tiến nó, hoàn thiện nó. Hai chữ bất tác có nghĩa là không lập ra một học thuyết nào hoàn toàn mới. Cứ xét đoạn này trong Vi chính thì rõ: “Tử Trương vấn: “Thập thế khả tri dã?” Tử viết: “Ân nhân ư Hạ lễ, sở tổn ích khả tri dã. Chu nhân ư Ân lễ, sở tổn ích khả tri dã. Kỳ hoặc kế Chu giả, tuy bách thế khả tri dã[5]. (Tử Trương hỏi: “Có thể biết được việc làm của các nhà vua trong mười triều đại sắp tới chăng?” Khổng Tử đáp: Nhà Ân nối nhà Hạ, nhân theo lễ nhà Hạ mà thêm bớt; những chỗ thêm bớt ấy ta có thể coi trong sử mà biết. Nhà Chu nối nhà Ân, nhân theo lễ nhà Ân mà thêm bớt; những chỗ thêm bớt ấy ta có thể coi trong sử mà biết. Sau này có triều đại nào nối tiếp nhà Chu, cũng nhân theo lễ nhà Chu, nhưng sẽ có thêm bớt. Xét theo đó, dầu trăm đời về sau ta cũng biết trước được”.
 
Đó, ông “tòng Chu” như vậy, “tổ thuật Nghiêu Thuấn” như vậy. 
 
Xét qua những điểm chính trong triết học của ông, ta càng thấy rõ ông đã phát huy được nhiều điều mới.
 
Ông ít bàn về vũ trụ. Ông không phủ nhận Trời, cho rằng Trời có ý chí nhưng hình như không tin rằng Trời rất có thế lực, nên không giảng đến thiên đạo. Khi Nhan Hồi mất, ông than khóc: “Ôi! Trời hại ta! Trời hại ta! (Y! Thiên táng dư! Thiên táng dư![6] – Tiên tiến).
 
Khi ông ốm nặng. Tử Lộ khiến đệ tử của ông làm gia thần[7] hộ tang khi ông mất, làm như ông còn tại chức. Lúc bệnh thuyên giảm, ông trách Tử Lộ: “(…) Ta không có gia thần, mà làm ta có gia thần. Như vậy là dối ai? Ta dối Trời sao?” (Vô thần nhi vi hữu thần, ngô thuỳ khi? Khi thiên hồ?[8] – Tư Hãn).
 
Lần khác ông bảo: “Trời có nói gì đâu?” (Thiên hà ngôn tai?).
 
Về điểm thừa nhận quan niệm Trời như người trước này, ông tỏ ra có tinh thần thủ cựu.
 
Nhưng đối với quỷ thần thì ông rõ ràng có vẻ hoài nghi, khuyên người ta kính quỷ thần mà xa ra (kính quỷ thần nhi viễn chi); và ông ít nói đến những việc bói toán, mộng mị, hình như muốn tránh những điều dị đoan. Mà ông cũng không lập ra một thuyết để giảng về vũ trụ.
 
Về tri thức luận, ông cống hiến cũng ít. Ông rất trọng tri thức, rất trọng sự học vấn, suốt đời học hỏi, học cả những người kém mình, cho trí là một đức lớn giúp những đức khác như nhân, dũng, tín, được hoàn toàn hợp lẽ, lại mở trường dạy hàng ngàn môn đệ về lục nghệ[9]; nhưng không hề xét về bản thể của tri thức, và ít bàn về phương pháp luận, mặc dù lác đác năm sáu nơi, ông chỉ sơ cho ta những cách đi tới chân tri, chẳng hạn khi ông khuyên ta phải nghe cho nhiều, trông cho nhiều, rồi tổng quan về một mối (bác học vu văn – nhất dĩ quán chi); lại phải suy nghĩ, không ức đoán, không võ đoán, không cố chấp, không chủ quan… (vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã)… Ông có đưa ra vấn đề chính danh. Một vài học giả cho rằng trong kinh Xuân Thu, ông ngầm chủ trương phải chính danh trong phạm vi ngữ pháp, chẳng hạn ông viết: “Vẫn thạch ư Tống ngũ; (…) lục nghích thoái phi”[10] là có ý tứ lắm, mới đầu người ta trông thấy trên trời rớt xuống một cái gì, nhìn ra mới biết là cục đá, đếm rồi mới biết là năm cục, cho nên để chữ vẫn (rớt) trước chữ thạch (đá) và chữ thạch trước chữ ngũ (năm); nhưng khi nhìn một đàn chim “nghích” bay lên trời thì mới đầu người ta thấy sáu chấm, nhìn kỹ hơn nữa mới biết là chim “nghích”, lại nhìn kỹ hơn nữa thấy chúng bay trở lại; vì vậy chữ lục (sáu) phải đặt trước chữ “nghích”, hai chữ thoái phi đặt ở cuối.
 
Có lẽ đó là thâm ý của Khổng Tử, nhưng điều ông nhấn mạnh là thuộc về phạm vi chính trị, đạo đức hơn là phạm vi ngữ pháp. Trong phạm vi chính trị, “chính danh” là để minh phận, để xác định tương quan vua tôi; trong phạm vi đạo đức, chính danh là để chỉnh kỷ và chính nhân, nghĩa là sửa đức của mình, của người cho được ngay. Ông bảo: “Cô bất cô, cô tai! Cô tai!”[11] Cái bình rượu có khía, có góc gọi là cái “cô”. Ngày nay người ta dùng những bình rượu không có khía có góc, mà cũng gọi là cái “cô” ư?, là có ý phàn nàn rằng đương thời có nhiều điều hữu danh mà vô thực; có kẻ địa vị là vua mà không làm tròn nhiệm vụ ông vua, có kẻ địa vị là cha mà không làm tròn nhiệm vụ người cha. Cho nên ông mới bảo Tử Lộ: “Làm việc chính trị thì trước hết phải chính danh”. Nghĩa là phải sửa danh cho chính, cho danh được tương phù (Tất dã chính danh hồ[12] - Tử Lộ).
 
Đó là một thuyết khá mới và khá bạo trong thời Xuân Thu. Ông khuyên làm vua thì phải cho ra vua, nhưng không cho biết một ông vua mà không ra vua thì thái độ của dân đối với vua ra sao, có nên lật đổ không. Có lẽ ông nghĩ đó là việc của Trời, chứ không phải việc của dân. Chép lại những truyện dân giết bạo quân, trong Xuân Thu, ông không bênh vực vua mà cơ hồ cũng không trách dân, nên viết: “Người trong nước giết vua tên Mỗ”. Như vậy là ông vẫn hơi ôn hoà.
 
Phát minh lớn nhất của ông là về nhân sinh quan. Ông là người đầu tiên đề cao đức nhân, định nghĩa chữ nhân. Nhân là yêu người, khoan dung với người, là suy mình ra người, là “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục lập nhi đạt nhân”, vậy là “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”; vậy người có nhân có bổn phận “tự giác” rồi “giác tha”.
 
Nhân gồm cả trí, dũng, lễ; gồm cả trung, hiếu, đễ, tín. Và quan niệm nhân của ông có thể sắp chung với quan niệm từ bi của Phật, quan niệm bác ái của Ki tô.
 
Ông trọng lễ, nghĩa, tôn ti nhưng đề cao đức trực nghĩa là ngay thẳng, thành thực. Ông ghét bọn “xảo ngôn lệnh sắc”, và bảo con người sinh ra, vốn ngay thẳng; nếu tà khúc mà sống được là nhờ may mà khỏi chết đó” (nhân chi sinh dã trực[13]; uổng chi sinh dã, hạnh nhi miễn[14] – Ung dã). Có lần một đệ tử ngỏ ý rút ngắn để tang cha mẹ vì ba năm lâu quá, ông bảo nếu trong lòng thấy lâu quá thì tuỳ ý. Dạy học ông để môn đệ tự do phát biểu tư tưởng, cảm tình; tuỳ khả năng, bản tính của mỗi người mà dạy (nhân tài thi giáo), chứ không ép ai phải vào khuôn khổ chung. Vậy thì cơ hồ ông trọng sự tự do của nhân tình.
 
Ông rất thấu tâm lý con người, nhưng không xét về tính, tình, tâm, chỉ nói một câu là “tính tương cận, tập tương viễn” (tính mọi người mới sinh thì gần như nhau, do tập tành và thói quen mà lần lần khác nhau).
 
Ông còn chủ trương đặc biệt nữa là việc gì cũng nên tuỳ thời, lấy sự trung chính làm gốc, cho nên nhân phải có trí, dũng cũng phải có trí, ngay thẳng phải có thành; không thành mà trực đến cái độ tố cáo cha mẹ thì không được; lễ mà tới xa xỉ thì không nên; nhưng Trung dung, tuỳ thời không phải là lừng chừng; Trung dung, tuỳ thời phải lấy Thành làm cơ sở và dùng Lễ để ước thúc; nếu phải “sát thân” để “thành nhân” thì cũng không do dự, còn như “sát thân” mà không “thành nhân” thì là hy sinh vô ích. Sau cùng trong Trung dung phải luôn luôn hợp với đạo nhân, nhân là một nội dung mà Trung dung là hình thức.
 
Về chính trị, ông tôn quân; trọng lễ giáo hơn pháp luật, ghét chính đảng (về điểm này ông thủ cựu hơn Tử Sản), không ưa chiến tranh, trọng người hơn chế độ, muốn dùng nhân để cảm hoá dân.
 
Tóm lại, ông là triết gia ôn hoà, có óc canh tân chứ không có óc cách mạng, học rất rộng, tập đại thành những tư tưởng đời trước rồi phát huy thêm, mà công lớn nhất của ông là mở phong trào dạy bình dân, tặng cho nhân loại quan niệm “nhân ái”, cho dân tộc Trung Hoa quan niệm “trung dung” và vô tình đã nêu lên nhiều vấn đề cho người sau, như vấn đề chính danh, tính người… Sự dạy dỗ của ông chú trọng tới những điểm chính tâm, thành ý để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Từ đời Hán, nhất là từ đời Đường trở đi, một số nhà Nho chỉ đề cao những đức hiếu, trung… một cách hẹp hòi đã sai lạc hẳn học thuyết của ông.
 
Môn đệ của ông rất đông, có tới vài ba ngàn người, nhưng chỉ độ mươi người có tài đức, như Nhan Uyên, Tử Hạ, Tăng Tử… Họ chép những lời giáo huấn của ông thành bộ Luận ngữ, chính ông đã san kinh Thi, soạn kinh Xuân Thu; còn những kinh khác thì hiện nay người ta ngờ rằng của người đời sau viết, chứ không phải của ông
 
MẶC TỬ
 
Có lẽ vào khoảng Khổng Tử mất (năm 479 tr. tây lịch) thì Mặc Tử, triết gia cách mạng đầu tiên của Trung Quốc, ra đời. Sử không chép Mặc Tử có theo học Khổng giáo không, nhưng ông sinh ở Lỗ thì chắc chịu ảnh hưởng của Khổng. Ông làm quan ở Tống lâu năm, chắc cũng chịu ảnh hưởng của Tống nữa. Nước Tống thời đó đã có thuyết kiêm ái và phi công (phản đối chiến tranh), và hình như Tống Tương Công là người theo thuyết đó (coi Phùng Hữu Lan – Sách đã dẫn, thiên I, chương V). Trang Tử phê bình Mặc Tử: “Cái sáng suốt của Mặc, người ta có thể theo được, cái ngu của ông thì không ai theo được”, cũng là nhận Mặc Tử chịu ảnh hưởng nhiều của Tống. Vì người Tống bị người các nước khác chê là ngu; như Mạnh Tử bảo nước Tống có kẻ thấy mạ chậm cao, mà nhớm nó lên; Hàn Phi Tử thì kể rằng nước Tống có kẻ ôm cây mà chờ thỏ.
 
Ông con nhà bình dân, không có cảm tình với bọn quí tộc và không tán thành chế độ quí tộc của nhà Chu; rất có nhiệt tâm, có tài biện luận, cực đoan cứu thế, không thủ cựu, ôn hoà như Khổng Tử. Nhiều triết gia thời sau bài xích thuyết của ông nhưng đều phải nhận rằng ông hết lòng với xã hội, “mòn trán lỏng gót” lo cho thiên hạ (Mạnh Tử), “thực là một người tốt ở gầm trời, muốn tìm cũng không thấy được” (Trang tử). Đời Tiên Tần mà cả những đời sau nữa, quả không có được người thứ hai như ông.
 
Về vũ trụ quan, ông không phát minh được gì, ông rất tin Trời, tin quỷ thần (có lẽ cũng do ảnh hưởng của Tống), với ông Trời là đấng chúa tể, quản lãnh mọi việc trên thế gian, ai thuận ý Trời thì được thưởng, trái ý Trời thì bị phạt, mà muốn thuận ý Trời thì phải yêu khắp mọi người vì Trời muốn cho loài người được sung sướng. Quỷ thần, theo Mặc Tử, cũng sáng suốt và có lòng nhân, nên người phải thờ Trời và thờ cả quỷ thần nữa.
 
Ông muốn dựng một tôn giáo trên tín ngưỡng đó, nhưng không đặt ra những lễ nghi như các tôn giáo khác (Ki-tô giáo, Hồi giáo chẳng hạn). Không rõ ông cùng môn đệ có tụng kinh không, chỉ biết chắc rằng ông không hề khấn vái để cầu phúc cho mình. Có lần ông ốm, một người hỏi ông: “Ông cho rằng quỷ thần sáng suốt, thưởng kẻ thiện, phạt kẻ ác; thế thì thánh thần như ông mà sao lại ốm? Hay là ông đã làm điều ác? Hay quỷ thần không sáng suốt?” Ông đáp rằng: “Ốm do nhiều lẽ, do thời tiết, do lao khổ…, quỷ thần mà liên quan gì đến việc đó”.
 
Về sau, Mặc gia được tổ chức thành đoàn thể rất chặt chẽ. Người có tài đức được cử làm “cự tử” (tức như thủ lãnh) và các người trong đoàn thể hễ làm quan, có lộc, phải nộp cự tử một phần để chi dùng cho đoàn thể; bất kể lớn nhỏ phải tuân lời cự tử, dù chết cũng không dám cãi. Một lần ở Dương Thành, tám mươi ba đệ tử cùng chết với cự tử tên là Mạnh Thắng; lần khác, người con trai của một cự tử là Phúc Thôn giết người, Tần Huệ Vương thương Phúc Thôn tuổi đã già mà có mỗi một người con, tha tội cho nó. Phúc Thôn không chịu, tâu: “Cái phép của đạo Mặc, giết người thì phải tội chết, đả thương người thì bị tội hình; như vậy là để cấm giết người và đả thương người; cấm giết người và đả thương người là đại nghĩa của thiên hạ. Mặc dù nhà vua tha tội không giết nó, nhưng Phúc Thôn không thể không thi hành phép của đạo Mặc”. Rồi người cha đó giết con. Trong lịch sử của Trung Hoa chưa bao giờ mà sự mâu thuẫn giữa gia đình và xã hội đưa tới bi kịch ghê gớm như vậy, cũng chưa bao giờ có một đảng mà kỷ luật nghiêm đến như vậy. Thực trái với chủ trương trung hoà của Khổng.
 
Về tri thức luận, Mặc Tử phát minh ra phép “ba biểu”. Nói thì phải - có “gốc”, căn cứ vào việc xem xét bản thuỷ, - có cái làm “nguyên”, căn cứ vào việc quan sát sự cố - có chỗ “ứng”. “Gốc” ở việc đời xưa; “nguyên” là việc trước tai mắt mọi người đem ra mà chứng thực; “ứng” ở chỗ phù hợp với quyền lợi của mọi người. Gốc, nguyên, ứng gọi là “ba biểu”. Phương pháp đó – căn cứ và kết quả ứng dụng – mở đầu cho môn đệ Mặc gia sau này lập nên nền tảng tri thức luận của Trung Quốc.
 
Về nhân sinh, Mặc Tử chủ trương công lợi, theo quy tắc thứ ba của phép “ba biểu”. Làm việc gì cũng phải nghĩ xem lợi hay hại, lợi lớn hay nhỏ; lợi cho số đông, lợi lâu dài là lợi lớn.
 
Đặc biệt nhất là ông đề cao đức kiêm ái, coi mọi người như mình, phải thương yêu giúp đỡ mọi người như người thân của mình, như bản thân của mình. Nếu ai cũng theo đạo kiêm ái thì thiên hạ sẽ trị, sẽ không còn tranh cướp lẫn nhau, không còn những kẻ già nua bị bỏ đói bỏ khát, kẻ nhỏ yếu mồ côi không chỗ nương tựa. Có người nghĩ rằng ông muốn làm đại biểu cho giai cấp cần lao. Chưa chắc đã như vậy; tất nhiên là ông bênh vực họ, nhưng ông đã kiêm ái, thì đâu lại còn phân biệt giai cấp.
 
Nhưng kiêm ái có phải là bình đẳng không? E cũng không nữa. Yêu thì yêu mọi người như nhau, nhưng xã hội theo ông thì vẫn phải có một trật tự. Ông chủ trương phải tán đồng ngược lên (thượng đồng), nghĩa là cái gì người trên cho là phải thì người dưới cũng phải nhận là phải; cái gì người trên cho là trái thì người dưới cũng phải nhận là trái; tóm lại là phải thống nhất tư tưởng. Lý trưởng thuận chính lệnh của thiên tử mà thống nhất lẽ phải trong xóm mình; hương trưởng lại thống nhất lẽ phải trong làng mà tán đồng ngược lên với vua; vua lại đem dân trong nước mà tán đồng ngược lên thiên tử; thiên tử lại tán đồng ngược lên Thượng đế. Như vậy từng cấp một, dưới phải nghe trên, mà thiên tử vừa là một vị quân chủ, vừa là một vị giáo hoàng. Kiêm ái và thượng đồng là hai điểm chủ yếu trong học thuyết của họ Mặc. Có kiêm ái thì thượng đồng mới không đưa tới độc tài, có thượng đồng thì kiêm ái mới không sinh ra loạn. Kiêm ái của Mặc cũng như nhân của Khổng mà thượng đồng cũng như tôn ti của Khổng.
 
 Vậy về chính trị, ông vẫn giữ chế độ phong kiến, rất trọng người hiền. Cũng như Khổng Tử, ông cho rằng người cầm quyền phải có đức hạnh cao, phải kiêm ái, phải quý nghĩa. Ông còn phản đối chiến tranh hơn Khổng Tử nữa, mặc dầu vẫn bênh vực sự tự vệ; ông khác Khổng Tử ở chỗ không trọng lễ, không trọng nhạc, vì cho những cái đó là xa xỉ, làm tốn tiền, mất thì giờ của dân chúng. Ông muốn tiết dụng – ngay cả trong việc tang – vì điều ông lo nhất là làm sao cho mọi người đủ ăn, đủ mặc đã. Tuân Tử chê ông là bị cái “dụng” che lấp mà không biết cái “văn vẻ”, không biết đến mỹ thuật. Nhưng theo Lưu Hướng trong sách Thuyết uyển, thì ông có nói với Cầm Tử đại ý rằng trong năm đói kém, lúa gạo quý hơn châu báu; “phải được thường ăn cho no rồi mới cầu cái ngon, phải được thường mặc ấm rồi mới cầu cái đẹp, phải được thường ở yên rồi mới cầu cái vui, như vậy mới lâu bền được, tóm lại là phải trong cái chất trước hết rồi mới đến cái văn, việc của thánh nhân là thế”. (Thực tất thường bão, nhiên hậu cầu mỹ; y tất thường noãn, nhiên hậu cầu lệ; cư tất thường an, nhiên hậu cầu lạc; vi khả trường, hành khả cửu; tiên chất nhi hậu văn, thử thánh nhân chi vụ[15] - Thiên Phản chất). Nếu lời đó đúng thì Mặc Tử không phải là chê hẳn mỹ thuật, mà chỉ cho nó là phụ thôi.
 
---DƯƠNG TỬ - LÃO TỬ
 
Đồng thời với Khổng Tử, có một số ẩn giả, thấy xã hội loạn ly quá, không thể cứu được nữa, sinh ra bi quan, chỉ muốn “độc thiện kỳ thân” (giữ cho riêng thân mình được trong sạch), không tham dự việc đời. Kẻ thì phê bình Khổng Tử là “biết rằng không thể làm được mà cứ làm” (Tri kỳ bất khả nhi vi vi chi[16] – Luận ngữ, Hiếu vấn); kẻ thì khuyên rằng “Ùa ùa như nước chảy một chiều, thiên hạ đều như thế cả, ai mà theo mình để sửa đổi việc loạn ra trị” (Thao thao giả, thiên hạ giai thị dã, nhi thuỳ dĩ dịch chi[17] – Luận ngữ, Vi tử).
 
Khi Mặc Tử gần mất, trong nhóm ẩn giả đến sau có một người xuất sắc lập được một thuyết để phản đối thuyết hữu vi của Khổng Tử và của Mặc Tử. Triết gia đó là Dương Tử (-440 -380). Ông không viết sách, môn đệ ông, nếu có, cũng không chép lời dạy bảo của ông, nên học thuyết của ông chỉ còn thấy rải rác ít trang trong tác phẩm của các triết gia khác. Đại ý Dương Tử đã chủ trương khinh vật quý thân – chữ vật ở đây chỉ tất cả những cái gì ngoài cái thân của mình, nghĩa là cả vạn vật lẫn người khác, cả vũ trụ và xã hội. Chỉ mất một cái lông chân của ông mà làm lợi cho thiên hạ, hoặc được cả thiên hạ, ông cũng không chịu. Thực trái hẳn với Mặc Tử, người “mòn trán lỏng gót” vì thiên hạ.
 
Cơ hồ ông rất vị kỷ, (vị kỷ không đồng nghĩa với ích kỷ) nhưng ông cho rằng có vậy mới cứu đời được; nếu người nào cũng chỉ nghĩ tới mình thôi, khinh thường mọi vật, mọi người, thì làm gì còn có sự tranh giành nhau nữa, làm gì còn loạn nữa. Cá nhân chủ nghĩa đó rất thịnh hành ở đương thời, ngang với Khổng giáo và Mặc giáo; và mở đường cho Lão giáo.
 
----LÃO TỬ
 
Sinh sau Mặt Tử khoảng nửa thế kỷ, tên là Lý Nhĩ[18], người nước Sở. Nước này ở phương Nam (lưu vực Trường Giang) mới phát lên, văn hóa chưa được cao, không chịu nhiều ảnh hưởng của nhà Chu, nhờ vậy mà nhiều người có tư tưởng mới. Khí hậu ấm áp, đất đai phì nhiêu, người ta ít phải gắng sức, thường thích hưởng nhàn, ẩn dật. Theo Luận ngữ thì Khổng Tử gặp các ẩn giả, chính là ở Sở.
 
Lão Tử có nhiều ý kiến rất mới mẻ, sâu sắc, cùng với Khổng và Mặc giữ cái thế chân vạc trong lịch sử Trung Hoa thời đó.
 
Ông là người khởi xướng vũ trụ luận ở Trung Hoa nên địa vị của ông rất quan trọng. Khổng và Mặc đều tin Trời, Lão thì cho rằng trước khi có Trời, còn có cái gì nữa, cái đó mới thật là nguyên thuỷ của trời, đất, vạn vật, ông gọi nó là Đạo. Đạo vừa lớn vừa trống không, đứng một mình mà không biến đổi, trôi đi khắp nơi mà không ngừng. (Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi[19] – Đạo Đức kinh).
 
“Đạo sinh ra một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh ra vạn vật” (Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật[20]). Câu này mỗi nhà giả thích một khác, nhưng căn cứ vào câu “Thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô”[21] (Trời đất vạn vật từ cái “có” mà sinh ra, cái “có” sinh ra từ cái “không”) và câu “vạn vật phụ dương nhi bão âm, trùng khí dĩ vi hoà”[22]. Vạn vật đều “cõng” âm mà “ôm” dương, điều hoà bằng khí trùng hư, thì có thể rằng Lão Tử cho “nhất” là hữu, “nhị” là âm và dương và “tam” là khí trùng hư[23]. Khi chưa thành hình thì Đạo là Vô, hiểu hiện dưới hình thức rồi thì Đạo là Hữu. Hữu và Vô là hai phương diện của Đạo.
 
Ông không trọng trí thức, cho rằng dân khó trị là bởi nhiều trí. Trí thức khiến người ta phân biệt cái hay cái dở mà sự phân biệt đó không phải là điều tốt lành, vì biết phân biệt cái hay cái dở thì phải tìm sự khoái lạc của mình, như vậy mà sinh hại: “Năm sắc khiến cho người ta mờ mắt, năm âm khiến cho người ta điếc tai, năm vị khiến cho người ta mất cảm giác của miệng”.
 
Nhưng ông rất trọng sự quan sát thiên nhiên, thấy được luật mâu thuẫn bề ngoài của vạn vật (cái nặng là gốc của cái nhẹ, cái yên tĩnh là chủ của cái xáo động, cái quý lấy cái tiện làm gốc; cái gì thực đầy thì giống như trống không, con người thật khéo thì giống như vụng…) và luật phản phục trong vũ trụ (vật gì phát đến cực điểm thì phản lại, hễ tăng rồi thì phải tổn: trăng tròn rồi khuyết, hết Đông sang Xuân…).
 
Do đó ông sáng lập một nhân sinh quan đặc biệt, trọng “tổn”. Tổn là đừng mong sự phát đạt đạt đến cực điểm, hễ hơi quá thì phải rút đi ngay. Tĩnh là vô vi, cứ theo tự nhiên, đừng ra tay tạo nên thời thế, chuyển cơ trời làm gì vô ích.
 
Ông khuyên người ta khiêm tốn, nhún nhường, nhu nhược như nước. “Nước làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành, ở chỗ mà mọi người không thích (tức chỗ thấp” cho nên gần được như Đạo. (Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo[24]). “Trong thiên hạ không có gì nhu nhược như nước, nhưng dùng để công phá cái chắc mạnh thì không gì hơn được nó”. (Thiên hạ mạc nhu nhược ư thuỷ, nhi công kiên cường giả, mạc chi năng thắng[25]).
 
Về chính trị, ông cũng chủ trương vô vi, chống Khổng và Mặc. Theo ông, càng hữu vi, tức càng can thiệp vào việc dân bao nhiêu thì càng hại bấy nhiêu. Cho nên bỏ người hiền, bỏ vật quí, không làm gì cả.
 
“Không chuộng người hiền cho dân khỏi sinh tranh giành, không quí những vật khó được cho dân khỏi làm kẻ trộm. Không thấy cái gì đáng ham, cho lòng dân khỏi loạn…”. Bỏ cả trí, bỏ cả nhân, nghĩa, cứ theo luật tự nhiên mà thành động, làm sao cho dân no bụng, ấm thân là đủ rồi: “Rỗng con tâm (nghĩa là không tham dục), no cái bụng, yếu cái chí (nghĩa là không tranh đoạt), mạnh cái xương, thường khiến cho dân không tri thức, không ham muốn”. (Thánh nhân chi trị, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ chí, cường kỳ cốt; thường sử dân vô tri vô dục[26]).
 
Ông rất ghét chiến tranh: “Duy binh giả, bất tường chi khí”[27] (Binh đao là đồ chẳng lành); nếu bị tấn công thì nhường nhịn đi; “Nước lớn mà hạ mình trước nước nhỏ thì được nước nhỏ thần phục; nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn lớn thì tất được nước lớn che chở” (Đại quốc dĩ hạ tiểu quốc tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc)[28].
 
Quốc gia lý tưởng của ông là một nước nhỏ, dân chúng chất phác, có xe thuyền, gươm giáo mà không dùng, ai ở yên nhà người nấy, đủ ăn đủ mặc. Đại văn minh mà giống như man dã là thế.
 
Vậy thuyết vô vi của ông hơi khác thuyết vị kỷ cũng Dương Tử, ông lại khác Dương ở chỗ không “quí sinh”, coi đời sống chỉ làm một sự tự nhiên; cứ bình tĩnh, vô ưu, vô dục, chẳng cầu lợi cho mình; ông không hề chịu ảnh hưởng của Dương, tự dựng riêng một môn phái.
 
Tới đây ta đã biết chủ trương của ba nhà sáng lập ra triết học Trung Quốc: Khổng, Mặc, Lão (ảnh hưởng của Dương sau này không đáng kể); và chúng ta bước từ thời kỳ bình minh qua thời kỳ trăm hoa đua nở đời Tiên Tần. Thật ra hai thời kỳ đó liên tiếp nhau, không thể lựa một khoảng nào để cấm ranh được; chúng tôi phân biệt như vậy chỉ cốt để độc giả nhận thấy điều này là học thuyết của ba nhà đó đâm nhiều bông, và những bông này tranh hương giành sắc với nhiều bông khác cho tới cuối đời Chiến Quốc.
 
TRĂM HOA ĐUA NỞ
 
Sở dĩ có phong trào trăm hoa đua nở đó là nhờ tinh thần tranh biện của các triết gia. Thời trước, Khổng Tử một phần vì bẩm tính dung hoà, một phần vì không gặp người ngang tài với mình, nên không tranh biện với ai cả. Lão Tử chủ trương nhường nhịn, nên chỉ trình bày học thuyết của mình, không muốn thắng người. Duy có Mặc Tử là hăng hái hơn hết, đả đảo chính sách trọng lễ, nhạc, tục để tang lâu năm và chôn cất xa xỉ của đạo Nho; do đó gây phong trào tranh luận cho thời sau.
 
Trong thời này, người đại diện chân chính của Khổng giáo là Mạnh Tử. Về phía Mặc giáo, có sự chia rẽ: Một nhóm như Tống Kiên[29] giữ đúng tinh thần của Mặc Tử, cũng khắc khổ, bôn tẩu, hô hào mọi người quả dục, giúp đỡ lẫn nhau để cứu loạn cho thiên hạ; một nhóm – nhóm gọi là Biệt Mặc – phát huy thêm về tri thức luận, công kích phái Biện giả, bọn nguỵ biện mà người sau gọi là Danh gia. Về phía Lão giáo, có Trang Tử tập đại thành những tư tưởng của Dương Tử, Lão Tử và Huệ Thi (đồng thời với ông), lập một học thuyết đặc biệt. Ngoài ra lại còn những phái Nông gia, Pháp gia và Âm dương gia nữa.
 
---MẠNH TỬ
 
Trước hết chúng tôi hãy xét về Mạnh Tử. Ông sinh ở nước Trâu, là môn đệ của Tử Tư (cháu nội của Khổng Tử) theo dùng học thuyết của Khổng Tử và phát huy thêm được vài điều quan trọng.
 
Ông vẫn muốn phục hồi chế độ phong kiến nhưng không tôn Chu, nghĩa là không muốn lập lại cái uy thế cho nhà Chu nữa (có lẽ vì thấy rằng nhà Chu suy quá rồi), hễ có một vị anh quân nào dùng đức nhân mà thống nhất được thiên hạ thì ông cũng ủng hộ.
 
Ông cho rằng vua không đáng coi trọng bằng dân (dân vi quí… quân vi khinh), tuy chưa cho dân cái quyền làm cách mạng – theo ông phải là một người hiền đức, được Trời giao cho trách nhiệm cứu dân mới được làm cách mạng – nhưng đã dám gọi bọn bạo chúa là giặc. Ông vẫn giữ thuyết tôn ti, thuyết bất bình đẳng của Nho gia, nhưng đã phát minh chủ nghĩa phân lập quyền hành chính và quyền tư pháp, và chủ nghĩa bình đẳng trước pháp luật, lại có xu hướng tiến tới chế độ lập hiến làm cho chính trị của Trung Quốc thêm được chút sắc thái dân chủ.
 
Ông đề cao đức hạnh, coi nó quí hơn tước và bảo nhà cầm quyền trong nước phải thờ người hiền như thầy. Người hiền phải giữ địa vị lãnh đạo trong xã hội. Về pháp luật thì mọi người được bình đẳng[30] nhưng về tài đức thì có kẻ trên người dưới. Về điểm này, ông trái với Hứa Hành (phái Nông gia).
 
Theo Hứa Hành, mọi người trong nước phải cày cấy lấy mà ăn, không ai được bắt người khác phải nuôi mình, như vậy thì thiên hạ sẽ trị. Mạnh Tử bác thuyết đó, bảo sinh ra có người trí và hiền, công việc trị dân phải giao cho hạng đó, mà người trị dân được nuôi, người dân “bị trị” thì phải nuôi người “trị” mình như vậy là luật tự nhiên.
 
Ông đả kích thuyết vị ngã của Dương Tử, mắng Dương Tử là không có vua. Mạnh nhất là lời ông bài xích Mặc Tử. Ông chê Mặc ở hai điểm: chủ nghĩa kiêm ái của Mặc là không hợp nhân tình, là coi cha mẹ người như cha mẹ mình, tức là không có cha; và chủ nghĩa công lợi rất tai hại vì làm cho người trên kẻ dưới ai cũng nghĩ tới lợi riêng mà bỏ nhân nghĩa. (Sự thực, Mặc Tử không hề khuyên ai nghĩ tới cái lợi riêng của mình mà cực lực hô hào người ta nghĩ tới cái lợi chung).
 
Một sự phát minh lớn của ông là bàn đến tính và tâm. Về tính, Khổng Tử chỉ nói: Tính tương cận, tập tương viễn, nghĩa là tính con người khi mới sinh gần giống nhau, do tập tành và thói quen mà lần lần khác nhau; còn Mặc Tử thì cho tính người như tấm lụa trắng, nhuộm xanh thì hoá xanh, nhuộm vàng thì hoá vàng, nhuộm màu nào thì biến ra màu đó… cho nên sự tiêm nhiễm không thể không thận trọng được. (Tử Mặc Tử kiến nhiễm ti giả thán viết: Nhiễm ư thương tắc thương, nhiễm ư hoàng tắc hoàng. Sở nhập giả biến, kỳ sắc diệc biến… cố nhiễm bất khả bất thận dã[31] – Mặc Tử).
 
Tới thời Mạnh Tử thêm nhiều thuyết nữa về tính. Có người nói rằng có tính thiện, có tính ác; Cáo Tử lại bảo tính không thiện không ác. Mạnh Tử phản đối tất cả những thuyết đó, chủ trương rằng tính người vốn thiện, vì ai cũng sẵn có lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi, bốn cái đó là đầu mối của nhân, của nghĩa, của lễ, của trí; nếu khéo tu dưỡng bốn cái mối đó thì ai cũng có thể thành thánh hiền được. Muốn vậy phải “tồn tâm”, nghĩa là giữ cái tâm cho trong sạch, khỏi bị tư dục làm mờ ám. Cái tâm đó gọi là lương tâm. Có lương tâm thì có lương tri, nghĩa là cái khả năng biết một cách mẫn tiệp mà đúng đắn.
 
Thuyết tính thiện, tồn tâm đó sau này gây nhiều cuộc biện luận và ảnh hưởng rất lớn tới triết học đời Tống và Minh. Câu “Tận kỳ tâm giả tri kỳ tính, tri kỳ tính tắc tri thiên hĩ[32] (Phát huy đến cùng cực cái tâm của mình thì biết được cái tính của mình, biết cái tính của mình thì biết được Trời) đã mở một khoảng đất mới cho người sau khai thác.
 
---TRANG TỬ
 
Phái Dương Tử hồi này không có ai xuất sắc. Nhưng phái Lão xuất hiện một thiên tài, tức Trang Tử.
 
Trang Tử sinh ở nước Sở, tập đại thành những tư tưởng của Dương, Lão và Huệ Thi (một người lớn hơn ông độ mươi tuổi, cho rằng vạn vật nhất thể, trong chỗ giống nhau có chỗ khác nhau, trong chỗ khác nhau có chỗ giống nhau[33], phát minh ra thuyết đại nhất và tiểu nhất, đại nhất là cái vô cùng lớn không có gì bao nó được, tiểu nhất là cái cực nhỏ, không có gì chứa trong nó được), dựng nên một học thuyết rực rỡ gồm những điểm chính dưới đây:
 
- Vũ trụ luôn luôn tiến hoá. Vạn vật lúc đầu cùng một loại, sau lần lần biến đổi để thích hợp hoàn cảnh, do đó mới khác nhau. Sự biến đổi đó không ngừng, dường như thình lình và mau. “Vạn vật giai chủng[34] dã”. “Vật chi sinh dã, nhược sậu nhược trì, vô động nhi bất biến, vô thời nhi bất di”[35].
 
- Vạn vật đều ngang nhau, không có lớn nhỏ, sang hèn; phải quấy, tốt xấu cũng không có vì hết thảy đều là tương đối cả; mà vật nào cũng có bản tính của mình mà biến hoá. Vật có loài thọ cả ngàn năm, có loài thọ có một năm, một ngày, nhưng đều là sống hết cái tuổi tự nhiên của nó mà thôi. Chim có con bay được cả ngàn dặm rồi mới nghỉ, có con chỉ bay được vài chục dặm đã phải nghỉ, cũng là bay hết sức tự nhiên của nó mà thôi. Người sống ở dưới bùn thì đau ốm, con trạch thì không vậy. Người ở trên cây thì run sợ, con khỉ thì không vậy. Thế thì người kém trạch hay hơn trạch, kém khỉ hay hơn khỉ?[36] Mỗi vật có cái hợp với nó, không thể nhất thiết như nhau được, mà cũng không thể phân biệt hơn kém được.
 
Tư tưởng hoài nghi đó đưa tới tư tưởng tự do và bình đẳng tuyệt đối, trọng cá nhân tới tuyệt đối, vô vi tới tuyệt đối.
 
Hạnh phúc của vạn vật, của con vật là thuận cái bản tính của mình mà hoà hợp với vũ trụ. Vì vậy ông rất ghét chính trị, coi các chính trị gia đương thời như Lỗ Hầu hết. Ông đặt ra ngụ ngôn này: Lỗ Hầu bắt được con chim biển, thích lắm, đem nuôi ở trong miếu đường, bắt các quan tấu nhạc cho nó nghe, làm thịt cá cho nó ăn, chuốc rượu cho nó uống; nhưng nó cứ ủ rũ, không ăn uống gì cả, ba ngày sau nó chết. Cái hại của xã hội là bắt mọi người vào trong một khuôn nếp; không để cho mọi người theo bản tính tự nhiên của mình.
 
Tương truyền vua Sở vời ông ra làm quan, ông không chịu, trái hẳn với Khổng Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử. Nhân sinh quan của ông là tiêu dao, đừng “đợi nương” có phú quí rồi mới sung sướng, đừng đợi nương có danh vọng rồi mới thoả chí, cũng đừng đợi nương có ái tình rồi mới vui vẻ. Con người sở dĩ khổ là vì cứ đợi nương cái này, đợi nương cái khác rồi mới thoả mãn; đừng để sự tiêu dao của ta bị cái “đợi nương” đó (ông gọi là đãi) hạn chế, thì mới thực là bậc chí nhân, tức như bậc thần nhân. Người “vô đãi”, “vô cầu” mới thật là sướng. Quan niệm nhàn của phương Đông nguồn gốc ở Lão, Trang, thứ nhất là ở Trang, và ảnh hưởng mạnh tới hầu hết các văn nhân, học giả Trung Hoa. Trái lại, quan niệm tự do và bình đẳng tuyệt đối của Trang sau này chỉ được một số người đề cao mà thôi. 
 
---BIỆT MẶC VÀ DANH GIA
 
Ở trên, chúng tôi đã nói Mặc học chia làm hai phái: một phái về tôn giáo mà Tống Kiên là đại biểu – phái này không phát huy thêm được gì mới – và một phái gọi là Biệt Mặc[37] có nhiều sáng kiến về tri thức luận, mà Hồ Thích gọi là phái Khoa học.
 
Không rõ phái Biệt Mặc này gồm những nhà nào; đại để thì những tư tưởng trong các thiên Kinh thượng, Kinh hạ, Kinh thuyết thượng, Kinh thuyết hạ, Đại thủ, Tiểu thủ (Mặc kinh) là của họ.
 
Họ đã đặt cơ sở cho tri thức luận của Trung Hoa và xét về những vấn đề:
 
- Tri giác (gồm quan năng, cảm giác và tâm),
- Thời gian, không gian,
- Ký ức,
- Danh tự.
 
Họ chia tri thức luận làm ba loại: do nghe mà biết (họ cho là văn), do suy luận mà biết (họ gọi là thuyết), do từng trải mà biết (họ gọi là thân).
 
Trước Dương Vương Minh trên ngàn rưỡi năm, họ đã chủ trương tri hành hợp nhất rồi, vi cùng tri nghĩa là sự làm đưa cái biết đến tận độ, nhưng cái biết, cái “tri” đó thường bị lòng dục che lấp, nên muốn “biết” cho suốt để “làm” cho hợp đạo thì phải làm chủ được lòng dục.
 
Họ bàn về phương pháp căn bản của sự biện luận: phải xét hiện tượng của muôn vật, so sánh sự quan hệ giữa những hiện tượng với nhau, rồi dùng ngôn ngữ, văn tự mà bày tỏ; như vậy là dùng danh nhắc thực, dùng từ bày ý, dùng thuyết tỏ cớ (tức tỏ nguyên nhân gây ra hiện tượng).
 
Họ lại mở đường cho ngữ pháp học, luận lý học, muốn dùng lý trí để quan sát, giải thích vũ trụ; trái hẳn với phái Biện giả mà họ chống đối kịch liệt, vì phái này dùng nguỵ biện cốt làm cho người khác không cãi được mình, chứ không cần ai tin mình. Bọn Biện giả sau gọi là Danh gia, tức các triết gia dùng cái danh mà định nghĩa mà định nghĩa, mà suy luận – gồm có Công Tôn Long, có lẽ cả Huệ Thi nữa. (Nhưng theo Hồ Thích thì Huệ Thi có nhiều tư tưởng khoa học mà đương thời ít ai hiểu được, chứ thực không phải là một nhà nguỵ biện).
 
Như trên chúng tôi đã nói, Huệ Thi có thuyết phiếm ái, thuyết đại nhất, tiểu nhất, thuyết tiểu đồng dị, đại đồng dị. Ông bảo trời đất cũng thấp như nhau, mặt trời cũng vừa đứng bóng cũng vừa xế bóng, phương Nam vô cùng mà hữu cùng, mới nghe thấy ngược đời; nhưng theo cách giải thích của Hồ Thích, thì đều diễn những chân lý này về khoa học: không thể phân tích về không gian, thời gian được, sự giống nhau khác nhau giữa các sự vật chỉ là tương đối. Hình như Huệ Thi còn nhận được rằng quả đất tròn và xoay tròn nữa, nên mới bảo: “Chính giữa thiên hạ ở nước Yên, mà lại ở phía nam nước Việt”[38] (Ngã tri thiên hạ chi trung ương, Yên chi bắc, Việt chi nam thị dã[39]); “Phương nam không có chỗ cùng tận mà cùng tận” (Nam phương vô cùng nhi hữu cùng[40]) và “Trời thấp như đất, núi phẳng bằng chằm” (Thiên dữ địa ti, sơn dữ trạch bình[41]). (Hai câu trên có ý bảo quả đất tròn; câu thứ ba diễn cái ý tương đối mà cũng có thể cho rằng trái đất quay nữa, chẳng đâu là trên là dưới, là cao là thấp.
 
Công Tôn Long thì ai cũng nhận là đại nguỵ biện. Theo sách Trang TửLiệt Tử, học thuyết của biện giả này còn những đoạn dưới đây:
 
- Trứng có lông,
- Gà ba chân,
- Ngựa có trứng,
- Chó có thể hoá ra dê,
- Lửa không nóng,
- Mắt không thấy,
- Bóng con chim bay không hề động đậy,
- Tên bắn ra có lúc không đi, không dừng,
- Ngựa vàng, trâu đen là ba con,
- Ngựa trắng không phải là ngựa,
- Cái gậy một thước, mỗi ngày lấy đi một nửa, muôn đời không hết.
 
Chẳng hạn câu “Ngựa trắng không phải là ngựa” (Bạch mã phi mã). Công Tôn Long giảng: “Chữ ngựa để đặt tên cho cái hình, chữ trắng để đặt tên cho cái sắc. Nói đến sắc thì không nói đến hình, cho nên nói ngựa trắng thì không nói đến ngựa”. Đại để lối biện luận của ông là như vậy.
 
---PHÁP GIA
 
Ngoài các triết gia kể trên, còn Thân Bất Hại, Thương Ưởng, Thận Đáo. Thân và Thương sinh trước Mạnh Tử, Thận sinh sau. Cả ba nhà thật ra không phải là triết gia mà chỉ là những chính trị gia chuyên môn, chỉ bàn về phép trị nước. Thân Bất Bại xét về thuật tức mánh khoé trị dân của ông vua; Thương Ưởng chú trọng về pháp luật, cho rằng phải công bố ra cho rõ ràng, và thi hành phải nghiêm, thì dân mới sợ mà khỏi làm loạn; Thận Đáo chú trọng về cái thế tức quyền thế của ông vua, dân chỉ sợ vua vì cái thế của vua cao, quyền của vua mạnh, vậy muốn cho nước trị, phải tôn quân quyền, nhà vua phải được coi là một vị không ai xâm phạm tới.
 
Ba nhà đó giống nhau ở hai điểm: không theo cổ, và cực hữu vi, nghĩa là can thiệp triệt để tới việc trị dân, ghét tự do và bình đẳng, ghét cá nhân chủ nghĩa; người sau gọi chung họ là Pháp gia. Họ cho rằng xã hội loạn quá rồi, những thuyết của Nho, kiêm ái, công lợi, phi công của Mặc đều vô hiệu; muốn thống nhất thì phải dùng sức mạnh, mà muốn có sức mạnh thì phải độc tài.
 
--- ÂM DƯƠNG GIA
 
Sau cùng còn một phái nữa mà đại biểu là Trâu Diễn sinh sau Mạnh Tử. Trâu không để lại tác phẩm. Nhờ những bộ Sử ký của Tư Mã Thiên và Lã thị Xuân Thu, ta được biết đại lược rằng ông có một vũ trụ quan khá đặc biệt: đạo trời và đạo người liên hệ mật thiết với nhau. Vũ trụ có âm dương và ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ). Âm dương điều hoà thì mọi vật tốt đẹp, trái lại là xấu. Âm thắng thì dương suy, âm thịnh cực thì dương lại phát sinh, rồi mạnh lần lên mà thắng âm, khi thịnh cực thì bắt đầu suy, vạn vật cứ tuần hoàn theo luật đó. Ngũ hành cũng có lúc thịnh lúc suy: mộc thịnh ở mùa xuân, suy ở mùa thu; kim thịnh ở mùa thu, suy ở mùa hạ; hoả thịnh ở mùa hạ, suy ở mùa đông… Việc người chịu ảnh hưởng của việc trời đất, nên bậc vua chúa tuỳ thời biết lựa chỗ ở, chọn màu áo, biết thi hành chính trị cho hợp với âm dương ngũ hành đó thì nước sẽ thạnh trị.[42]
 
Phái đó, người sau gọi là Âm dương gia.
 
QUY VỀ MỘT MỐI
 
Tới thời kỳ thứ ba, ở cuối đời Chiến Quốc là bắt đầu giai đoạn quy về một mối, nhờ Tuân Tử và Hàn Phi Tử.
 
----TUÂN TỬ
 
Tuân Tử vốn là môn đồ Khổng giáo, nhưng chủ trương khác Khổng Tử và có nhiều điểm chống lại Mạnh Tử. Ông học rất rộng, xét kỹ tất cả học thuyết của các nhà khác mà châm chước theo ý mình.
 
Về những điểm chính ông vẫn theo Khổng: tôn quân quyền, trọng tôn ti, lễ nghĩa, nhưng ông chủ trương tính ác, ngược hẳn với Mạnh Tử.
 
Ông bảo rằng: “Tính của người vốn ác, những điều thiện là người đặt ra” (nhân chi tính ác, kỳ thiện giả, nguỵ dã[43]), vì người ta sinh vốn ham lợi, đố kỵ, muốn thoả dục; thánh nhân đời trước biết vậy mới đặt ra lễ nghĩa để uốn nắn lại tính của con người cho nó thành ra thiện.
 
Một điểm nữa khác với Khổng Tử và Mạnh Tử là ông tuy tin rằng có Trời, nhưng cho đạo Trời không quan hệ gì với đạo người. Xã hội mà trị hay loạn là do người cả. Trời có thể sinh ra lụt lội hoặc nắng hạn, nhưng đói rét là tại người không biết đề phòng, không biết chống với tai nạn, chứ không tại Trời. Vậy chẳng nên tranh chức vụ của Trời, mà chỉ nên chinh phục thiên nhiên nữa: “Tôn Trời mà mến Trời sao bằng để cho vạn vật súc tích nhiều, tài chế nó mà dùng?” (Đại thiên nhi tư chi, thục dữ vật súc nhi chế tài chi? Tòng thiên nhi tụng chi, thục dữ chế thiên mệnh nhi dụng chi?[44] – Thiên luận).
 
Đó là một tư tưởng rất tiến bộ, chống lại cả Mặc giáo, Lão giáo lẫn Âm dương gia. Tiếc rằng học thuyết của ông đời sau không được phát huy thêm, thành thử tinh thần chinh phục thiên nhiên không được nảy nở mạnh ở Trung Hoa như ở Âu châu. Một số học giả bảo ông là triết gia đầu tiên chủ trương duy vật là bảo ép. Có thể ông có vài tư tưởng giống với các nhà duy vật Âu Tây nhưng tựu trung ông vẫn là duy tâm mà trong lịch sử triết học Trung Hoa thời cổ chưa có sự phân biệt rõ ràng ra duy vật và duy tâm.
 
Vì tin rằng tính ác, ông phản đối tự do cá nhân, muốn khắc phục con người, trọng lễ hơn nhân, đề cao sự tập quyền. Về điểm này ông ở vào khoảng giữa Khổng Tử và các Pháp gia, cũng chống Lão, Trang, và có phần hơi giống Mặc Tử.
 
Nhưng khi bàn về tâm, thì ông hợp với Mạnh Tử cho rằng người ta biết phải trái là nhờ tâm; tâm muốn cho sáng suốt thì phải hư tĩnh. Theo truyền thống của Khổng học ông trọng tri thức, ghét phái nguỵ biện; đề cao thuyết chính danh nhưng không đứng riêng về phương diện đạo đức chính trị như Khổng Tử mà còn đứng về phương diện lý luận, xét lẽ tại sao có danh, do đâu mà có sự đồng dị, muốn chế danh thì phải sao; mà có những trường hợp nào mà danh và thực hoá loạn. Tuy nhiên cái học của ông vẫn nghiêng về nhân sinh: người biện luận phải phục vụ điều thiện, đạo nhân ái phải theo một nguyên tắc chính đáng trịnh trọng mà ông gọi là long chính.
 
Có lẽ ông chịu ảnh hưởng ít nhiều của Mặc Tử nên đề cao đạo hợp quần của nhân loại. Ông bảo: “Người ta sức không bằng con trâu, chạy không bằng con ngựa, thế mà con trâu con ngựa đều bị người ta dùng được là sao? Là tại người ta biết hợp quần”. Muốn hợp quần thì phải có trật tự, phân biệt trên dưới. Đó cũng là một lẽ nữa để ông chủ trương tập quyền, hạn chế tự do cá nhân.
 
Vì trọng đạo đức, ông ghét chính sách quyền mưu của bọn Pháp gia, vẫn theo đường lối của Khổng Tử mà dùng lễ nghĩa để trị dân. Ông phân biệt vương đạo, bá đạo, vong quốc chi đạo. Vương đạo là chính sách của Khổng Tử, Mạnh Tử; bá đạo là chính sách của Pháp gia, còn vong quốc chi đạo là chính sách của bọn cầm quyền phỉnh gạt dân để mưu cái tư lợi nhỏ mọn.
 
----HÀN PHI
 
Hàn Phi là môn đồ của Tuân Tử, sinh sau Tuân Tử khoảng 50 năm. Lúc đó vào cuối thời Chiến Quốc (khoảng giữa thế kỷ thứ ba trước tây lịch).
 
Có lẽ Hàn Phi thấy cái thế của Trung Quốc thời đó sắp thống nhất được, nên ông muốn giúp Tần thực hiện việc đó.
 
Ông theo thuyết tính ác của Tuân Tử một cách triệt để, bảo rằng không có gì thân bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi, coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt nữa, như vậy bẩm sinh con người vốn đại ác. Do đó Hàn Phi không bàn đến nhân nghĩa mà đề cao phương pháp dùng thế, dùng thuật, dùng pháp luật của Pháp gia để trị nước.
 
Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước mau giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế thì nhà vua chẳng cần làm vì cả mà nước sẽ trị. Chủ trương “vô vi nhị trị” đó thực trái hẳn chủ trương vô vi của Lão, Trang; chính nó là một thứ cực hữu vi.
 
Tần Thuỷ Hoàng nghe tiếng Hàn Phi, rất kính phục bảo: “Ta mà được người đó thì chết cũng không buồn”, rồi vời Hàn Phi lại giúp nước, nhưng chỉ được ít lâu, Hàn bị bạn học là Lý Tư (lúc đó là tướng nước Tần) hãm hại vì ganh tài. Mặc dầu vậy, cái học của Hàn cũng được thi hành ở Tần và giúp vua Tần hoàn thành được công việc thống nhất Trung Quốc, lập chế độ quân chủ chuyên chế để thay chế độ phong kiến.
 
Thế là các học thuyết Khổng, Mặc, Lão đều thất bại trong việc vãn cứu thời thế; Hàn Phi đã thành công nhờ dùng trọn các thuyết của Pháp gia, và vay mượn – có khi lật ngược lại – tư tưởng của các phái khác, tư tưởng tôn quân, chính danh của Khổng, chủ trương tính ác của Tuân, tư tưởng thượng đồng và công lợi của Mặc, tư tưởng tự do, bình đẳng của Lão, Trang.
 
DƯ BA CỦA MỘT THỜI ĐẠI – KHOẢNG CUỐI ĐỜI CHIẾN QUỐC VÀ ĐẦU ĐỜI HÁN
 
Trong khoảng thời gian này, xuất hiện bốn tác phẩm có giá trị: Trung dung, Đại học[45], Chu Dịch, Hoài Nam Hồng liệt, ba cuốn trên của Nho gia, cuốn cuối do bọn tân khách của Lưu An – tức Hoài Nam Vương đời Hán – chung sức nhau soạn. Bốn tác phẩm đó có thể coi là dư ba của học thuyết đời Tiên Tần.
 
----TRUNG DUNG
 
Vốn là một thiên trong Lễ ký, tương truyền là của Tử Tư (cháu Khổng Tử) viết, nhưng ngày nay các học giả cho rằng nếu thực là của Tử Tư thì cũng có phần viết thêm của người sau, của môn đệ Mạnh Tử, vào thời đầu Tần hay Hán vì trong sách có câu “Kim thiên hạ xa đồng quỹ, thư đồng văn” (ngày nay xe trong thiên hạ cùng một kiểu, sách cùng một lối chữ); câu này chỉ thời Trung Quốc đã thống nhất rồi; hoặc đời Tần hoặc đời Hán.
 
Phần của Tử Tư có lẽ ở phần giữa sách, phần bàn về đức trung dung, đức mà Khổng Tử thường nói tới. Trung là không thái quá, không bất cập, tuỳ thời mà hành động; dung là giản dị. Sở dĩ đạo “trung” dễ dàng, là vì chỉ cần suy kỷ cập nhân, chỉ cần trung thứ mà thôi. Tuy nhiên biết “trung” cho hợp lẽ thì nhiều khi cũng rất khó; bậc hiền nhân vị tất đã theo nổi.
 
Phần của môn đệ Mạnh Tử thêm vào có lẽ ở đầu sách: đoạn nói về mệnh, tính, đạo; ở cuối sách: đoạn nói về đức “thành”; vì hai đoạn đó có tư tưởng hơi thần bí, hợp với tư tưởng của họ Mạnh.
 
----ĐẠI HỌC
 
Cũng vốn là một thiên trong Lễ ký, theo Chu Hi đời Tống, do Tăng Tử viết; nhưng các học giả ngày nay ngờ rằng thiên đó là tác phẩm của môn đệ Tuân Tử ở cuối thời Chiến Quốc hoặc đầu đời Hán, vì so sánh lời trong sách với lời trong cuốn Tuân Tử, thấy có nhiều chỗ tư tưởng giống nhau; chẳng hạn những đoạn bàn về lễ, về sự học, về cái lẽ phải chuyên nhất, về sự cần thiết của tri thức chính xác.
 
Học thuyết trong Đại học gồm ba điều cốt yếu: làm sáng đức, thân với dân, ngưng ở chỗ chí thiện; và tám điều mục: cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
 
Hai điều mục trí tricách vật tới đời Tống và Minh thành đề tài cho các triết gia thảo luận khá sôi nổi.
 
----CHU DỊCH
 
Tương truyền bát quái trong truyện là Phục Hi vẽ. Quái từ và Hào từ là của vua Văn Vương và Chu Công viết, còn Thập truyện là của Khổng Tử viết. Thuyết đó không lấy gì làm chắc mà người ta ngờ rằng một phần nhỏ Chu Dịch viết vào thời tiền bán Chiến Quốc, một phần lớn viết vào đầu đời Hán vì tư tưởng trong sách dung hoà cả Nho, Lão và Âm dương gia.
 
Dịch luận về sự biến chuyển của vạn vật trong vũ trụ; cho rằng hết thảy đều do sự giao cảm của càn khôn mà ra.
 
Vạn vật luôn luôn biến hoá, mà vẫn có sự bất biến vì theo một trật tự nhất định (trời cao đất thấp, sang hèn đã định) và theo một luật tuần hoàn, thịnh cực rồi suy, suy cực rồi lại thịnh.
 
Về nhân sinh quan, tác giả Chu Dịch chú trọng đức khiêm tốn (giống Lão), và đức trung hoà (giống Khổng).
 
----HOÀI NAM HỒNG LIỆT
 
Do nhiều người gom góp lời của các triết gia thời trước mà soạn thành, nên không có một tư tưởng nào làm trọng tâm cả; nhưng cũng cống hiến cho triết học Trung Quốc ít nhiều về vũ trụ luận: lúc đầu trời đất mờ mờ mịt mịt, gọi là “thái thuỷ”, thái thuỷ sinh ra “hư khuếch” cũng như hư không, (khuếch là mưa ngừng, mây tan), hư khuếch sinh ra vũ trụ, vũ trụ sinh ra nguyên khí, nguyên khí phân ra dương âm, dương trong mà thành trời, âm trọc mà thành đất, âm dương sinh ra tứ thời, vạn vật; cái nóng của dương chứa lại thành lửa, cái lạnh của âm chứa lại thành nước…; tinh thần của người là bẩm thụ của trời, mà hình thể thì bẩm thụ của đất. Trời đất là một đại vũ trụ, con người là một tiểu vũ trụ. Người với trời đất, vạn vật là một, vì cùng do một gốc. Thuyết đó đáng gọi là có hệ thống.
 

°

° °


[1] Người nước Lỗ (Xin coi tiểu sử các triết gia ở phần IV, cuối cuốn hạ).
[2] 周禮盡在鲁矣
[3] 如有用我者, 吾其爲東周乎
[4] 久矣吾不復夢見周公
[5] 子張問: 十世可知也? 子曰: 殷因於夏禮, 所損益可知也; 周因 於 殷 禮, 所損益可知也. 其或繼周者, 雖百世可知也.
[6] 噫! 天喪予! 天喪予!
[7] Khổng Tử đã từng làm quan Tư khấu. Với chức vị Tư khấu, theo tục đương thời, Khổng Tử được có “gia thần”, cũng như vua có triều thần.
[8] 無臣而爲有臣, 吾誰欺?欺天乎?
[9] Lục nghệ có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất chỉ lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (đánh xe), thư (viết chữ), số (toán pháp); nghĩa thứ nhì chỉ lục kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu, Dịch. Ở đây lục nghệ hiểu theo nghĩa thứ nhì, nhưng theo các học giả ngày nay, Khổng Tử không đọc kinh Dịch, thì tất không dạy kinh Dịch.
[10] 隕石於宋, 五… 六鷁退飛. [chữ 鷁, từ điển Thiều Chửu phiên âm là nghịch. (Goldfish)]
[11] 觚不觚, 觚哉! 觚哉!
[12] 必也正名乎
[13] Có sách chép là võng.
[14] 人之生也直; 枉之生也, 幸而免
[15] 食必常飽, 然後求美; 衣必常暖, 後求麗; 居必常安, 後求樂; 爲可長, 行可久, 先質而後文, 此 聖人之務.
[16] 知其不可而爲之
[17] 滔滔者, 天下皆是也, 而誰以易之
[18] Tạm theo Sử ký (Xin xem phần phu lục: Tiểu sử các triết gia)
[19] 寂兮, 寥兮, 獨立而不改,周行而不迨
[20] 道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物
[21] 天地萬物生於有, 有生於無. Có bản chép: Thiên hạ vạn vật… 天下萬物… (Goldfish).
[22] 萬物負陰而抱陽,沖氣以爲和.
[23] Giải thích sau đây cũng có lý: Nhất là Hữu (Thái cực), Nhị là âm dương, Tam là âm dương và khí trùng hư.
[24] 水善利萬物而不爭,處眾人之所惡, 故幾於道.
[25] 天下莫柔弱於水, 而攻坚强者,莫之能勝.
[26] 聖人之治, 虛其心, 實其腹, 弱其志, 強其骨; 常使民無知無欲.
[27] 唯兵者,不祥之器.
[28] 大國以下小國則取小國; 小國以下大國則取大國.
[29] Tống Kiên không chắc là môn đệ của Mặc Tử, nhưng sinh sau Mặc và cùng một chủ trương với Mặc nên chúng tôi sắp chung vào Mặc phái.
[30] Chủ trương này cũng hơi mới mẻ vì đời Chu, hạng quí tộc không bị hình phạt.
[31] 子墨子見染絲者而歎曰:染於蒼則蒼,染於黃則黃.所入者變,其色亦變… 故染不可不慎也.
[32] 盡其心者知其性, 知其性則知天矣.
[33] Do đó Huệ Thi kết rằng người ta chẳng những phải kiêm ái mà còn phải phiếm ái vạn vật, coi vạn vật như chính mình. Có người sắp ông vào phái Mặc vì thuyết phiếm ái đó.
[34] Sách in là “trủng”.
[35] 萬物皆種者. [Trang tử, thiên Ngụ ngôn. Nghĩa là: Vật gì cũng do cái “chủng” sinh ra (theo Nguyễn Hiến Lê, Trang tử và Nam Hoa kinh, Nxb Văn hoá, 1994, tr.472). Goldfish)].
物之生也, 若驟若馳, 無動而不變, 無時而不移. [Trang tử, thiên Thu thuỷ, nghĩa là: Đời vạn vật qua mau như ngựa chạy, không có cái động nào mà không biến, không lúc nào là không chuyển. (Nguyễn Hiến Lê, sđd, tr.333). (Goldfish)].
[36] Đoạn “Người sống ở… kém khỉ hay hơn khỉ?” trích trong thiên Tề vật luận. Trong sđd, tr.170, cụ Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Chẳng hạn một người nằm chỗ ẩm thấp (trong bùn) mà đau lưng tê liệt nửa người, nhưng một con lươn thì có sao không? Một người ngồi trên ngọn cây thì run rẩy sợ sệt, nhưng con khỉ có vậy không? Chỗ ở của người và hai con vật ấy, chỗ nào là lí tưởng (chính xứ)?”. (Goldfish).
 
[37] Biệt có nghĩa là đứng riêng ra, cũng ở trong Mặc giáo nhưng khác với phái tôn giáo.
[38] Yên ở cực bắc, Việt ở cực nam của Trung Quốc.
[39] 我知天下之中央, 燕之北,越之南也.
[40] 南方無窮而有窮.
[41] 天與地卑, 山與澤平.
[42] Theo Phùng Hữu Lan, Trâu Diễn chỉ bàn về ngũ hành chứ không bàn về âm dương.
[43] 人之性惡, 其善者, 僞也.
[44] 大天而思之, 孰與物畜而制裁之? 从天而頌之, 孰與制天命而用之?
[45] Đa số học giả ngày nay cho Trung dungĐại học xuất hiện vào khoảng cuối đời Chiến Quốc đầu đời Hán, nhưng Hồ Thích trong Trung Quốc triết học sử đại cương vẫn chủ trương rằng hai cuốn đó xuất hiện trước Mạnh Tử, vì theo ông, có vậy mới không thiếu cái mạch từ Khổng Tử tới Mạnh Tử, mới hiểu được tại sao Mạnh Tử lại trọng cá nhân, dân quyền khác với Khổng. Các học giả khác cho rằng cái mạch đó không thiếu vì giữa Khổng và Mạnh có Dương Tử, Lão Tử, và rất có thể Mạnh đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của những nhà này; vả lại Mạnh có thể có sáng kiến được. Chúng tôi ghi cả hai thuyết đó để độc giả xét.