KẾT

Tóm lại, trải hai ngàn rưỡi năm, triết học Trung Hoa mới đầu bồng bột phát triển trong một thời kỳ quá độ (từ phong kiến bước sang quân chủ chuyên chế), rồi tiến tới một thời kỳ quá độ khác (từ quân chủ chuyên chế sang dân chủ).
 
Ta có thể phân biệt ba giai đoạn lớn:
 
1. Thời đại Tiên Tần. Nho giáo xuất hiện sớm nhất, có tính cách ôn hoà, chiết trung; rồi tới hai triết thuyết cực đoạn: một của Mặc, cực hữu vi; một của Lão, vô vi (nghĩa là phóng nhiệm, không làm gì ngược với thiên nhiên và không can thiệp đến việc dân).
 
Nho chia làm hai: Mạnh chủ trương tính thiện và trọng dân quyền; Tuân chủ trương tính ác và tôn quân quyền.
 
Mặc cũng chia làm hai: một chuyên về tôn giáo, một chuyên về tri thức luận (Biệt Mặc) chống với phái Danh gia mà đại biểu là Công Tôn Long.
 
Lão giáo không tách ra nhiều phái mà càng tiến sâu vào thuyết vô vi đưa tới tư tưởng hoài nghi yếm thế, triệt để tự do và bình đẳng của Trang Tử.
 
Đồng thời xuất hiện thêm hai phái nữa, một gồm những nhà chính trị chuyên môn, gọi là Pháp gia, một phái chỉ bàn về âm dương, ngũ hành gọi là Âm dương gia.
 
Cuối đời Chiến Quốc, Hàn Phi trong phái Pháp gia, mượn những tư tưởng của Tuân, Mặc và Trang, lập ra một học thuyết tuy không có gì mới mẻ, nhưng đã giúp Tần thống nhất được Trung Quốc.
 
2. Thời đại từ Hán tới Đường là giai đoạn thứ nhì. Phái Mặc tiêu trầm luôn cùng với phái Danh gia. Phái Pháp gia, đóng xong vai trò chính trị rồi, không còn giữ một địa vị gì trong triết học nữa. Rốt cuộc chỉ còn Nho, Lão, Âm dương gia.
 
Về chính trị, Nho gia hợp với Pháp gia được trọng dụng hơn cả, nhờ công của Đổng Trọng Thư đời Hán; về triết học, Nho pha với Lão và Âm dương gia, khá thịnh trong đời Hán rồi lần lần suy.
 
Ở đầu đời Hán, Lão hợp với Âm dương gia, mất lần tính cách triết học, thành một tôn giáo thiên về phép tu tiên và luyện đan, tức Đạo giáo. Nhưng tới Lục triều, Lão, Trang lại thịnh lên gây được phong trào Huyền học, nhờ Hướng Tú, Quách Tượng…
 
Đồng thời, Phật học từ Ấn Độ vào đã có cơ sở khá vững, bắt đầu dung hoà Lão mà gây ảnh hưởng ở Trung Quốc. 
 
Đời Đường là thời toàn thịnh của Phật giáo: nhiều tôn phái xuất hiện, tư tưởng Phật học phong phú thêm, thay đổi một chút cho phù hợp với dân tộc Trung Hoa hơn[1].
 
Nho giáo vẫn giữ địa vị độc tôn ở triều đình và trong khoa cử, nhưng suốt đời Lục triều và Đường, không có một triết gia nào sâu sắc. Chỉ có Hàn Dũ, Lý Cao là mở đường cho phong trào Đạo học ở các đời sau.
 
3. Qua giai đoạn thứ ba, từ Tống đến Thanh, Nho phản động lại Huyền học ở Lục triều và Phật học ở đời Đường, phát huy phong trào Đạo học, muốn trở lại truyền thống Khổng, Mạnh; mà rốt cuộc lại rất gần Lão, Phật. Thời trước là thời của tam giáo (Khổng, Lão, Phật) thay nhau chiếm ảnh hưởng, thì thời này là thời tam giáo dung hoà với nhau.
 
Đầu đời Tống, các triết gia như Chu Đôn Di, Thiệu Ung chưa có khuynh hướng rõ rệt, trừ Trương Tái có chủ trương duy khí, nhưng chủ trương ấy đương thời không ảnh hưởng lớn. Tới hai anh em họ Trình mới manh nha hai khuynh hướng: duy lý (Trình Y Xuyên) và duy tâm (Trình Minh Đạo).
 
Phái duy lý thịnh trước nhờ môn đồ của Trình Di, Chu Hi. Qua đời Minh, phái duy tâm mới phát đạt đến cực độ nhờ Vương Dương Minh, người đã phát huy cái học của Trình Hạo và Lục Cửu Uyên.
 
Cuối Thanh, Đạo học hoàn toàn suy vi, nhường chỗ cho một thứ tân Nho pha tư tưởng Âu Tây: Khang Hữu Vi, Đàm Tự Đồng; và người ta coi trọng vấn đề chính trị, tìm một học thuyết có thể cứu quốc – và có lẽ cả nhân loại nữa – như thời Tiên Tần.
 
Trên thế giới có ba hệ thống triết học: hệ thống Trung Hoa, hệ thống Ấn Độ, hệ thống Âu Tây; trong khoảng hơn ngàn năm (từ Lục triều tới Minh), hệ thống Trung Hoa đã lần lần dung hoà với hệ thống Ấn Độ; và hiện nay nó muốn dung hoà với hệ thống Âu Tây nữa. Kết quả của lần trước là đưa tới Đạo học; lần này kết quả sẽ ra sao, chúng ta còn phải đợi lâu mới biết được.
 
Phùng Hữu Lan bảo giai đoạn thứ nhất là thời kỳ Tử học, giai đoạn sau là thời kỳ Kinh học; điều đó đúng. Ông lại bảo triết học Trung Hoa luôn tiến chứ không suy, vì trong thời kỳ Kinh học, các triết gia tuy không lập ra được một phái nào mới, nhưng đã đi sâu thêm vào những vấn đề mà cổ nhân nêu ra. Không ai chối cãi sự tiến bộ đó, nhưng ta phải nhận rằng trong hai ngàn năm nay, cái rực rỡ muôn hình muôn sắc của triết học Trung Hoa thời Tiên Tần, chưa thấy phát huy trở lại.
 

°

 
Đa số học giả đều nhận rằng triết học Trung Hoa có ba đặc điểm này, khác hẳn hết triết học Ấn Độ và Âu Tây:
 
- Có tính cách thực tiễn.
- Chú trọng vào sự liên quan giữa Trời và người.
- Trọng sự trực giác (hoặc đốn ngộ) hơn sự luận chứng.
 
Chúng tôi sẽ xét từng điểm một.
 
1. Triết gia Trung Hoa xét chung rất có tinh thần thực tế. Đọc phần thứ nhất này, chắc độc giả đã nhận thấy rằng họ ít bàn đến vũ trụ, càng ít bàn hơn nữa tới tri thức, mà chú trọng đến nhân sinh và chính trị.
 
Vì vậy trong những phần sau, khi phân tích từng vấn đề một, chúng tôi cũng cho hai phần nhân sinh và chính trị lấn hẳn hai phần vũ trụ và tri thức.
 
Hơn nữa về vũ trụ, tuy thời nào cũng có triết gia nghiên cứu, nhưng cứu cánh vẫn chỉ là để tìm ra một lối sinh hoạt phù hợp với thiên nhiên. Vậy thì vũ trụ luận cơ hồ chỉ như tiền đề của nhân sinh luận.
 
Còn về tri thức, quan niệm của Nho, Mặc khác với quan niệm của Lão, Trang. Phái dưới đặt nhẹ vấn đề tri thức, và coi cái tri thức hiểu theo nghĩa thông thường là có hại; hai phái trên thì trọng tri thức; nhưng trừ nhóm Biệt Mặc ra, rất ít nhà bàn đến tri thức vì tri thức, mà cũng chỉ coi tri thức là một điều kiện để tu thân thôi. Người Trung Hoa coi sự lập đức quý hơn sự lập công, sự lập công lại quý hơn sự lập ngôn. Họ tôn sùng những ông thánh gây được nhiều công đức cho dân, chứ không khen những hạng biết nhiều, học rộng mà không làm được việc gì.
 
Về luân lý, trái lại họ bàn đi, bàn lại hoài. Khổng, Lão, Mặc đều đề cao những đức riêng; Khổng thì đề cao nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, Mặc thì đề cao kiêm ái, cần, kiệm, phục tòng người trên, Lão thì đề cao khiêm tốn, tri túc. Ngay trong thời Huyền học thịnh hành (Lục triều) nền luân lý của Khổng bị chê bai, thì nền luân lý của Lão lại đạt tới mức rất cao, khuyên người ta quả dục, coi vạn vật cũng như mình. Nói chi tới Đạo học, đời Tống, Minh mà mục đích là tìm cách tu dưỡng ra sao để mọi người đều có thể trở thành một ông thánh.
 
Sau cùng, chính trị cũng giữ một địa vị quan trọng trong triết học; chẳng những bất kỳ một triết gia nào ở Trung Hoa cũng cho sự trị quốc, bình thiên hạ là trách nhiệm của mình. Cho nên dù chủ trương vô vi như Lão, cũng có ý cứu đời chứ không phải chỉ để “độc thiện kỳ thân”. Thời Tiên Tần và thời cuối Thanh, vì hoàn cảnh, triết gia nào cũng có tư tưởng chính trị, mà giữa hai thời đó, trong non hai ngàn năm, vấn đề tôn quân hay phế quân, vấn đề tự do hay áp chế, vấn đề phú dân hay giáo dân, triều đại nào cũng đem ra bàn. Ở Trung Hoa, ý niệm “người” và ý niệm “dân” (công dân) cơ hồ như hoà với nhau làm một, mục đích giáo dục không phải, như Cô Hồng Minh đã nói, là để có những người tốt mà là để có những người dân tốt, cho nên có những câu: “Trời sinh dân đó”, “Trời yêu dân lắm”, “Cái đạo của Đại học ở chỗ… thêm yêu dân”.
 
Vì vậy họ trọng thức tế, trọng luân lý, chính trị, cho rằng mọi suy nghĩ tìm tòi phải đưa tới cứu cánh nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân, đó là đặc điểm thứ nhất của triết học Trung Quốc.
 
2. Đặc điểm thứ nhì là trừ một số ít nhà như Tuân Tử, Vương Sung, cho đạo Trời và đạo người không quan hệ gì với nhau, còn hầu hết những nhà khác đều nhận rằng Trời là gốc của người, Trời với người là một.
 
Theo Khổng và Mặc thì Trời sinh dân, muốn cho dân sung sướng, dân mà thuận ý Trời thì được Trời thưởng, trái ý Trời… thì bị Trời phạt. Mặc khác Khổng ở chỗ: Khổng chủ trương vua thay Trời trị dân, còn Mặc thì muốn rằng dân tự lựa người hiền để trị nước, nhưng cả hai đều bảo nhà cầm quyền phải tuân mệnh Trời.
 
Lão, Trang nghĩ hơi khác: Đạo sinh ra vạn vật (trong đó có cả trời, đất), mà đạo chỉ là tự nhiên; như vậy tựu trung Trời với người cũng chỉ là một vì cùng ở tự nhiên mà ra, mà hành động của con người phải hợp với tự nhiên cũng như phải hợp với Trời.
 
Tới các đời Tống, Minh, khuynh hướng hợp nhất Trời và người đó càng rõ rệt. Thiệu Ung nói: “Học mà không đạt tới trình độ hợp Trời với người làm một thì không đủ gọi là học” (Học bất tế thiên nhân, bất túc dĩ vị chi học – Quan vật ngoại thiên)… Trình Minh Đạo bảo: “Trời và người vốn không phải là hai, bất tất phải nói việc hợp Trời với người làm một” (Đạo vị thuỷ hữu thiên nhân chi biệt, đãn tại thiên tắc vi thiên đạo, tại nhân tắc vi nhân đạo – Ngữ lục), nghĩa là Trời và người vốn là một, thì thiên đạo và nhân đạo chỉ là một mà thôi.
 
Mà cũng chẳng cần phân biệt cái có và cái không phải là ta nữa. Toàn thể vũ trụ chỉ là nhất thể. Như vậy là không có nội giới, không có ngoại vật, không phân biệt chủ quan và khách quan (Hợp nội ngoại, bình vật ngã – Trương Tái). Điều đó trái hẳn với triết học phương Tây: người Âu cho vũ trụ là ngoại giới, cho nên tận tâm nghiên cứu nó; người Trung Hoa vũ trụ ở trong tính, trong tâm của ta, và muốn tìm hiểu vũ trụ thì cứ tìm hiểu bản thân ta. Một phần vì vậy mà vũ trụ luận của Trung Hoa không phong phú như của phương Tây.
 
3. Sau cùng, đặc điểm thứ ba của người Trung Hoa trọng trực giác hơn là sự luận chứng. Chỉ có phái Biệt Mặc là bắt đầu nghiên cứu về bản chất của tri thức, về khả năng cùng hạn độ của tri thức, và về phương pháp suy luận; nhưng từ đời Tần trở đi, học thuyết của họ không được phát huy thêm, bị bỏ quên luôn trong hai ngàn năm. Một nhà nữa cũng trọng tri thức luận, là Tuân Tử, song ông chưa phát minh gì nhiều mà từ Tần tới Đường, ít ai nhắc tới ông, rồi từ Đường trở đi, người ta đề cao Mạnh Tử và bỏ hẳn ông, chê học thuyết của ông là không hợp với đạo Khổng.
 
Tất nhiên khi bàn về một vấn đề, ai cũng phải suy luận, cũng phải dẫn chứng; các triết gia Trung Hoa không thể làm khác được. Nhưng họ không ưa lối giảng giải dài dòng, không sắp đặt tư tưởng thành một hệ thống minh bạch, cho nên sách của họ khó đọc, nhiều khi tối nghĩa, làm cho người sau dễ hiểu lầm rồi sinh ra tranh luận với nhau. Chúng ta còn nhớ hai chữ “cách vật” trong Đại học, Chu Hi hiểu một khác, Vương Thủ Nhân hiểu một khác, và triết học của họ đi ra hai ngã tương phản nhau chỉ vì sự bất đồng ý kiến đó.
 
Mãi tới đầu đời Thanh, Cố Viêm Võ mới trọng sự khảo chứng, nhưng trong đời Thanh cũng chẳng có nhà nào nghiên cứu thêm về phần phương pháp luận cả.
 
Phùng Hữu Lan cho rằng sách của các triết gia Trung Hoa viết không có hệ thống, một phần do lẽ họ không coi trọng sự trứ thư lập ngôn, coi nó là việc nhỏ, tầm thường. Chúng tôi xin ghi lại ý kiến đó. Có nhà lại cho rằng vì lối viết lên tre ở thời Xuân Thu, Chiến Quốc tốn công quá, nên người viết sách chỉ ghi cho vừa đủ hiểu thôi; những sách đó đời sau được coi là thánh kinh mà bút pháp cô đúc, hàm súc đó thành một khuôn phép, nên sách triết học Trung Quốc không thời nào được sáng sủa như sách phương Tây. Đó cũng là một giả thuyết nữa.
 

°

 
Đọc lịch sử dân tộc Trung Hoa, chúng ta còn nhận thấy rằng họ không lập ra được một tôn giáo không có khoa học.
 
Điểm thứ nhất không có gì đáng cho ta lấy làm lạ. Nếu hiểu tôn giáo theo cái nghĩa tin ở Thượng đế hoặc một vị thần linh nào đó, tin có thiên đường và địa ngục, và thành lập một tổ chức chặt chẽ để liên kết các tín đồ, cử ra những vị thay mặt Thượng đế hoặc thần linh để dìu dắt, thưởng phạt tín đồ, mà tín đồ phải theo những lễ nghi nào đó, phải tụng niệm, khấn vái mỗi ngày, thì người Trung Hoa quả thật không có một tôn giáo.
 
Thời Thượng cổ, họ cũng tin Trời, cũng thờ Trời và vô số quỷ thần[2], cũng cúng vái, nhưng chưa thể bảo là họ đã có một tôn giáo theo nghĩa trên được; thời đó, như mọi dân tộc chưa khai hoá, họ theo đa thần tín ngưỡng.
 
Mặc Tử có lẽ là người đầu tiên muốn lập một tôn giáo cho họ (cũng thờ cúng, đoàn thể cũng tổ chức chặt chẽ, cụ tử cũng có quyền rất lớn với tín đồ), nhưng tôn giáo đó suy lần có lẽ vì chủ trương của họ Mặc có tính cách chính trị nhiều hơn là tôn giáo. Nội phép “ba biểu”, với cách chứng minh quỷ thần của ông cũng cho ta thấy rằng ông thực không trọng một đức tin tuyệt đối, để có đủ tư cách thành một giáo chủ, như những giáo chủ khác. (Đạo Phật tuy mới đầu cũng là một triết học, sau dễ biến ra một tôn giáo, nhờ dân tộc Ấn Độ có sẵn quan niệm luận hồi, địa ngục).
 
Tới đời Tần, một số người chắp nhặt tư tưởng của Lão Tử và của phái Âm dương, cũng muốn lập lên một tôn giáo nữa, tức Đạo giáo, nhưng họ không tìm hạnh phúc ở đời sau mà lại muốn trường sinh, muốn thành tiên ngay ở đời nay, cho nên tôn giáo của họ không thể phổ biến được, không gây nổi một tín ngưỡng – vì mấy ai tin rằng có sinh mà không tử -, mà chỉ tạo được một số dị đoan rất thấp.
 
Đạo Khổng, trước sau chỉ là một triết học[3]; từ đời Đường trở đi, Khổng Tử mới thực là được thờ như một vị thánh, nhưng sự thờ phụng đó không có tính cách tôn giáo (nó chỉ như thờ phụng danh nhân), mà lại hạn chế trong giới trí thức, tức 5% dân chúng vì Khổng miếu mỗi năm chỉ cúng có hai lần (vào xuân và thu) mà không phải ai cũng được vào lễ, tuyệt nhiên không có sự tụng niệm mỗi ngày như đạo Ki tô, đạo Phật.
 
Vậy ta có thể nói rằng nếu đạo Phật không vào Trung Hoa thì người Trung Hoa không có tôn giáo. Nhiều dân tộc văn minh như Hy Lạp, La Mã chẳng hạn, triết học và luân lý rất cao mà cũng không phát sinh ra được một tôn giáo. Riêng dân tộc Trung Hoa có tục thờ phụng tổ tiên một cách rất thành kính, giả sử đạo Phật không truyền qua thì dân chúng cũng không thấy thiếu một tín ngưỡng để cho đời sống có mục đích.
 
Về điểm thứ nhì – Trung Hoa không có khoa học – đã nhiều người ngạc nhiên và đưa ra ít giả thuyết. Người ta ngạc nhiên vì dân tộc Trung Hoa rất thông minh, có sáng kiến, nuôi tằm dệt lụa, tạo ra được kim chỉ nam, giấy, thuốc súng… sớm hơn phương Tây, đã biết làm lịch từ đời Chu hoặc trước nữa, mà sao luôn hai ngàn năm nay mầm khoa học của họ không phát thêm được chút nào cả.
 
Phùng Hữu Lan trong khảo luận nhan đề là Why China has no science (Tại sao Trung Hoa không có khoa học) đặng ở tạp chí The international journal of Ethics[4] năm 1922, đưa ra những lý do sau đây:
 
1. Người Âu cho tính con người vốn không hoàn thiện mà nhu nhược, nhiều tội lỗi, tìm cách sửa lỗi nó, do đó trọng phương pháp “nhân vi” (Phùng gọi là art). Người Trung Hoa trái lại, cho tính con người vốn thiện, ưa phương pháp “vô vi”, theo tự nhiên, chỉ giữ cái tâm cho sáng suốt, khỏi bị vật dục che lấp; như vậy, đã không tin kết quả của “nhân vi” thì tất không thích khoa học.
 
2. Người Trung Hoa không ưa sức mạnh, chỉ muốn tìm hạnh phúc, mà tìm hạnh phúc ở nội tâm, chứ không ở ngoại vật, ở ngay trong đời sống này chứ không phải là ở Thiên đường hay ở Nát bàn. Do đó triết học của họ chủ trương sự tiết dục, chứ không chủ trương thoả dục như phương Tây hoặc sự diệt dục ở Ấn Độ.
 
3. Họ chỉ muốn tìm hiểu và điều khiển tinh thần con người chứ không muốn tìm hiểu và điều khiển vật chất. Bốn chữ “cách vật trí tri” trong sách Đại học, mãi tới đời Tống, đời Minh người ta mới chú ý tới. Phái Tâm học – Vương Dương Minh – đã đem thuyết duy tâm ra giảng nó, cho làm điều thiện, bỏ điều ác, là cách vật; mà biết “biết điều thiện điều ác” là trí tri; chủ trương đó vốn trái với khoa học; mà đến ngay như chủ trương của Chu Hi – phái Lý học – cũng không gần với khoa học, vì Chu Hi tuy chú thích bốn chữ đó là “xét đến cái lý của sự vật, muốn cho tri thức đến chỗ thấu đáo”, nhưng tựu trung sự tìm hiểu cái lý của vũ trụ, tức cái tính của vạn vật, nhất là của con người để rồi tìm cách tu dưỡng mà trở về cái tính vốn thiện mà Trời phú bẩm cho ta.
 
Theo thiển ý của chúng tôi, lý do thứ nhất của Phùng không chắc đúng. Không phải đa số các triết gia Trung Hoa cho tính con người vốn thiện. Thuyết tính thiện của Mạnh Tử, chỉ tới đời Tống, Minh mới thực cực thịnh. Vả lại dù nhận tính người vốn thiện, phái Đạo học cũng rất trọng sự giáo dục, sự tu dưỡng, nghĩa là sự hữu vi; chủ trương hoàn toàn vô vi, chỉ có Trang Tử, mà ảnh hưởng của Trang Tử không bằng ảnh hưởng của Khổng Tử tới đời sống dân tộc Trung Hoa.
 
Lý do thứ nhì của họ Phùng chỉ đúng một nửa. Dân tộc nào mà chẳng tìm hạnh phúc, chứ riêng gì dân tộc Trung Hoa. Nhưng bảo rằng họ muốn tiết dục hơn là thoả dục, tìm hạnh phúc nội tâm hơn ở ngoại vật, thì đúng. Chính vì vậy họ muốn tìm hiểu và điều khiển tinh thần hơn là vật chất (lý do thứ ba).
 
Khi đã nhận rằng ngoại giới với nội tâm là đồng nhất, và hạnh phúc con người nằm trong sự hoà đồng giữa vật và ngã thì đương nhiên người ta không lưu tâm tới việc chinh phục thiên nhiên.
 
Ngoài ra, đặc điểm của triết học Trung Hoa cho ta hiểu tại sao khoa học Trung Hoa không phát triển: khi người ta đã không có tinh thần biết để mà biết, mà cho rằng tri thức nào cũng phải có mục đích tu thân, tề gia, trị quốc, thì người ta ít nghĩ đến sự nghiên cứu vạn vật một cách khách quan.
 
Sau cùng, muốn tìm tòi về khoa học, sự trực giác tuy cần, mà sự luận chứng quan trọng cũng không kém; mà dân tộc Trung Hoa, như chúng tôi đã nói, trọng sự trực giác hơn sự luận chứng (đặc điểm thứ ba kể trên).
 
Tóm lại, người Trung Hoa sở dĩ không có khoa học, nguyên do chỉ tại ba đặc điểm – trọng thực tế, trọng trực giác, hợp nhất Trời và người – trong triết học của họ.
 
Nhiều người hận rằng học thuyết Mặc Tử suy từ đời Hán rồi tiêu trầm luôn, nếu không thì dân tộc Trung Hoa chắc đã có một tôn giáo gần như đạo Ki tô và một nền khoa học như khoa học như phương Tây. Điều đó có thực là một bất hạnh cho dân tộc Trung Hoa không, chúng tôi không dám bàn tới, nhưng chúng tôi tin rằng nhân loại sẽ mất một nền văn hóa đặc sắc, nếu Trung Hoa chỉ có Mặc mà không có Khổng, Lão…
 
 

HẾT


[1] Trong những phần sau chúng tôi sẽ không xét những tư tưởng đó vì nó không thuộc hệ thống triết học Trung Quốc, vả lại muốn xét thì phải kể nguồn gốc từ Ấn Độ, sách sẽ dầy quá và mất tính cách nhất trí.
[2] Theo các nhà cổ học Trung Hoa thì thời đó có ba hạng thần: a) những vật tự nhiên như mặt trời, mặt trăng, sông, núi, hổ, rắn…; b) những vật liên quan tới đời sống hàng ngày như nhà cửa, bếp, đường đi…; c) những người có công với dân như Thần Nông, Nghiêu, Thuấn… Những thần đó mọi người đều thờ phụng.
Quỷ là những người chết mà không có công với dân, chỉ có con cháu thờ phụng thôi; người ngoài thờ phụng thì là siểm nịnh (Phi kỳ quỷ nhi tế chi, siểm dã).
[3] Nhưng nếu hiểu theo nghĩa: “những hoạt động nào nhắm vào một lý tưởng mà ta tin rằng có một giá trị phổ cập và trường cửu đáng cho ta hy sinh bản thân và tất cả các giá trị khác, là có tính cách tôn giáo”, thì Khổng học cũng là một tôn giáo.
[4] Khi cho in bài đó trong cuốn Trung Quốc triết học sử bổ (không đề năm nào nhưng có lẽ từ khoảng 1936 đến 1940) nói rằng tư tưởng của ông đã thay đổi, nhưng lại không cho biết thay đổi ở những điểm nào.

Xem Tiếp: ----