- Thưa ngài, tình thế thật tệ hết chỗ nói. Hệt như dưới hoả ngục vậy, - giọng Powell lộ vẻ luống cuống, mà ông đang lâm vào lúc này. - Anh muốn ngụ ý gì vậy Kevin? – Người cao tuổi ở đầu dây đằng kia cố căng tai lắng nghe để khỏi bỏ sót bất cứ lời nào của người trợ thủ mẫn cán. - Trên đồi Capitol bọn họ vừa hạ sát cô bạn gái của Thần Ưng. Hai người chứng kiến cảnh bắn nhau đã nhận diện được Maronic, tuy không dứt khoát lắm, khi họ được cho xem ảnh hắn chụp trước đây. Ngoài ra, họ cũng nhận diện được cả Malcolm nữa. Anh ta đã tẩu thoát. Rõ ràng là anh chàng đã không hề hấn gì sau cuộc đọ súng. Maronic, trong lúc hành sự, còn bắn chết một cảnh sát. - Hai người thiệt mạng trong một ngày? Xem có nhiều quá không, ngay cả đối với một tay “sừng sỏ” như Maronic, đi nữa? - Thưa ngài, tôi không nói là cô gái bị giết ạ. Sau một lúc im lặng chẳng hiểu vì sao, giọng nói căng thẳng của sếp lại vang lên: - Maronic, nhưng anh thừa biết đấy không bao giờ hắn bắn trượt đâu! Thế cô gái không chết ư? - Không ạ, thưa ngài. Cô ấy vẫn sống, vì Maronic chỉ chệch có một tí tẹo thôi: giá chỉ già nửa milimet nữa là cô ta vỡ sọ. Nhưng dẫu sao vẫn bị thương khá nặng. Hiện đang được đưa vào điều trị tại quân y viện ở Langley. Phải mổ cho cô ta một lần nữa, nhưng chỉ là một ca tiểu phẩu. Lần này, tự tay tôi cho thi hành các biện pháp canh phòng rất đáng tin cậy. Chỉ một gã Wazerby thôi cũng đủ khiến ta sáng mắt ra rồi! Cô gái lúc này vẫn đang mê man bất tỉnh. Các bác sĩ bảo rằng: nếu bệnh trạng thế này, thì chắc chắn chỉ vài hôm nữa là cô ta sẽ tỉnh. Họ cam đoan là nhất định sẽ qua khỏi. Người cao tuổi lên tiếng hỏi, giọng đầy hy vọng: - Cô ta rồi có kể lại được gì không đây? Chắc phải nói được vài điều chứ nhỉ? - Không đâu, thưa ngài, - Powell ngao ngán đáp – Cô ta đã bị bất tỉnh ngay từ lúc bị thương. Tôi có cử đến hai người túc trực ngay trong phòng điều trị của cô ta. Ngoài nhiệm vụ kiểm tra xem ai ra ai vào, họ còn đang chờ dịp để trò chuyện với cô gái nữa. Lại còn chuyện này nữa, thưa ngài. Cảnh sát họ đang nổi trận lôi đình lên đấy ạ. Họ định tung hết lực lượng ra, để tìm bằng được Maronic. Đối với họ, cái chết của người bạn đồng ngũ và cô gái bị thương trên đồi Capitol có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với chuyện chúng ta săn lùng gián điệp. Tôi đã tạm trấn an họ được chút đỉnh, nhưng tôi chắc họ chẳng chịu để yên lâu đâu. Nếu họ mà ra tay truy lùng thật sự, bới tung mọi chuyện ra, thì nhất định CIA sẽ biết hết cơ mưu của chúng ta. Vậy, tôi phải làm gì, nếu tình hình ngả sang chiếu hướng đó? Người cao tuổi lặng im chốc lát, rồi lên tiếng: - Thôi được, anh cứ thông báo với họ toàn bộ những tin tức ta nắm được. Có điều nhớ gia giảm ít nhiều, cốt sao cho họ chỉ có đủ thông tin về Maronic thôi. Bảo họ là cứ tung hết lực lượng ra mà truy lùng hắn. Nhớ cam đoan với họ là khi cần, ta sẽ giúp họ hết sức mình. Điều duy nhất mà ta phải đòi bằng được là dành cho mình quyền ưu tiên hỏi cung Maronic, nếu hắn rơi vào tay họ trước. Nếu thoả thuận được như vậy rồi, thì anh hãy thông báo với họ là tôi sẽ xoay ngay được một giấy phép chính thức để đảm bảo cho yêu cầu đó. Ngoài ra, nhớ nói với họ là nên tiếp tục dò tìm Malcolm luôn một thể. Kevin này, theo anh thì có phải là Maronic đã đứng sẵn ở chỗ đó, để chờ “đón tiếp” Thần Ưng không? - Xem ra chẳng phải thế đâu ạ. Chúng tôi đã tìm được chỗ Malcolm và cô bạn anh ấy thuê phòng. Tôi nghĩ là Maronic đã tình cờ đến đồi Capitol và hắn tấn công họ cũng lại là chuyện tình cờ nốt. Giá không có cảnh sát, chắc hắn đã “xơi tái” Thần Ưng rồi. À vâng, còn một sự kiện quan trọng này nữa ạ. Một nhân chứng cứ một hai thề rằng Maronic không đi một mình. Ông ta, của đáng tội, không trông rõ lắm mặt người bạn đồng hành của hắn, nhưng ông ta cam đoan rằng kẻ đó già hơn Maronic. Bắn nhau xong thì kẻ ấy biến mất. - Thế những nhân chứng khác bảo sao? - Chẳng một ai nhận thấy điều đó. Nhưng tôi thì tôi vẫn tin lời ông ta, người nhân chứng đó. Rõ ràng, đó chính là kẻ “hai mặt” quan trọng nhất mà ta đang truy tìm. Đồi Capitol là nơi lý tưởng nhất cho những cuộc hò hẹn kiểu đó mà. Đấy cũng chính là lý do dể giải thích tại sao lại có sự chạm trán tình cờ giữa Maronic và cặp uyên ương kia. - Đúng thế, tôi hoàn toàn tán thành ý kiến anh. Thôi được, hãy chuyển gấp cho tôi những gì anh vừa thu được về gã Maronic bí ẩn nọ, nhé. Này, không biết người nhân chứng ấy có giúp ta phác hoạ lại chân dung của kẻ kia hay nhớ số xe số xiếc gì của hằn không nhỉ? Anh đã thử tìm hiểu chuyện đó chưa? - Rồi ạ. Rất tiếc là ông ta không thể nói được một điều gì cụ thể. Nếu tỉnh lại, chắc cô gái sẽ giúp được ta rất nhiều về khoản này đây. - Ừ, - người cao tuổi dịu giọng nói, - đó quả là một thành công to tát đấy, Kevin ạ. - Ngài có điều gì chỉ thị tiếp nữa không ạ? Người cao tuổi im lặng một lúc, đoạn lên tiếng: - Cho đăng ngay trên Washington Post một thông báo đi. À, không, cứ đăng luôn hai thông báo thì tốt hơn. Chàng trai của chúng ta, lúc này dù ở đâu chăng nữa, chắc cũng đang nóng lòng chờ tin tức. Tôi sợ anh ấy đang phải trốn tránh, chưa tìm được quyển sách để giải mã mà ta đã dặn. Cho nên, anh cứ đăng cùng một lúc hai thông báo, một bản thường, một bản bằng mật mã, nội dung như nhau: yêu cầu Thần Ưng bắt ngay liên lạc. Trong bản thông báo mật mã, anh nhớ báo tin là cô bạn của anh ta vẫn sống, và kế hoạch hành động mà ta đã dự kiến lúc đầu, sẽ đổi khác; chúng ta đang cố tìm cách để đón anh ấy về nơi an toàn. Bây giờ, ta cần kiểm tra xem, anh ấy đã kiếm được quyển Bí mật của phái đẹp chưa. Dĩ nhiên, trong bản thông báo không mã hoá, ta không thể thông tin một điều gì quan trọng cả, vì không thể chắc ngoài Thần Ưng ra, còn ai khác nữa sẽ đọc đến nó. - Các bạn đồng nghiệp của ta, sau khi đọc hai bản thông báo này sẽ rút ra ngay kết luận là ta đã nghĩ được một phương án mới. - Dĩ nhiên, đó là chuyện khá khó chịu. Tuy vậy lúc nào ta cũng phải chú ý đến điều này: rốt cục, ta vẫn sẽ phải giải bày hết với họ về vấn đề đang mưu tính. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi sẽ thu xếp được chuyện đó và sẽ thuyết phục được họ. - Theo ngài thì Malcolm sẽ hành động ra sao? Người cao tuổi lại lặng thinh chốc lát, rồi mới đáp: - Tôi không dám quả quyết lắm về điểm này. Nhiều điều còn tuỳ thuộc vào anh ta biết được gì trong thực tế. Tôi có cảm tưởng là anh ta tin rằng cô bạn mình đã chết. Anh ấy chắc sẽ hành động theo cách khác nếu cho rằng cô bạn vẫn còn sống. Có lẽ, ta phải dùng cô ấy ít ra như một “con mồi”: vừa để nhử Malcolm, vừa để dụ các đối thủ của ta. Nhưng phải chờ ít lâu nữa, xem tình hình diễn biển ra sao đã. - Ngài có yêu cầu gì khác nữa không? - Có đấy. Nhưng phải để tôi ngẫm nghĩ thêm đã, chứ lúc này chưa thể có chỉ thị cụ thể, Kevin ạ. Anh cứ tiếp tục tìm Malcolm, Maronic và đồng bọn của hắn. Cố dò các tin tức có thể soi sáng cho câu chuyện rối rắm này. Và nhớ giữ liên lạc thường xuyên với tôi. Họp với các ông bạn đồng nghiệp kia xong, tôi sẽ về dùng cơm với thằng con trai… - Làm việc mà như thế, theo tôi là tệ hết sức! – Viên đại diện FBI chồm người qua mặt bàn, nhìn xỉa xói vào mặt người cao tuổi. – Ngay từ đầu, ngài đã biết vụ án mạng ở phố Alexandrie có liên quan cực kỳ mật thiết đến vụ này, thế mà ngài chẳng thèm thông báo cho chúng tôi lấy một câu. Hơn nữa, ngài lại còn cấm cảnh sát ra thông báo chính thức và cấm họ bắt tay điều tra nguyên nhân vụ án mạng theo các quy tắc và thể lệ hiện hành. Đúng là chơi khăm nhau, không hơn không kém! Giá không thế, thì giờ đây, chúng ta đã dò ra được Malcolm và cô bạn của anh ta, và cả hai hẳn đã được đưa về nơi an toàn rồi. Và chúng ta chỉ còn việc phải truy lùng bọn còn lại nữa thôi. Chuyện tự ái vặt và kình địch lẫn nhau giữa các Cục, tôi đã nghe nhiều rồi, nhưng thật chưa thấy ở đâu có những trò như thế này cả. Mà đây là an ninh quốc gia, chứ đâu phải chuyện đùa! Tôi xin được nhắc nhở ngài rằng: chúng tôi, những cộng sự của FBI, không thể cho phép ai hành động theo kiểu đó! Người cao tuổi mỉm cười đáp lại những lời giảng giải tràng giang đại hải ấy. Đó là ông chỉ mới “xì” ra có mỗi một chuyện thôi đấy: mối liên quan giữa Maronic và vụ án mạng tại đường Alexandrie! Không biết họ sẽ còn giận dữ đến đâu, nếu họ được nghe hết những tin tức mà ông đang có trong tay. Thôi, đã đến lúc phải dàn hoà với họ hoặc ít ra trấn an họ rồi đây. Ông nghĩ bụng thế, khi ngắm những nét mặt đầy sửng sốt của cử toạ. - Thưa các ngài, thưa quý vị. Tôi hiểu rõ nỗi bực bội của quý vị. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng hẳn quý vị sẽ thông cảm với tôi ngay khi hiểu được những nguyên do đủ quan trọng buộc tôi phải hành động như vậy. - Như tất cả quý vị đã biết rất rõ, tôi cho rằng trong cơ quan CIA đang xảy ra chuyện thất thoát tin tức. Tôi muốn nói thêm: một sự thất thoát rất đáng kể và gần như ai cũng nhận thấy. Tôi đã từng kiên trì ý kiến cho rằng lỗ rò đó rất có thể sẽ biến mọi cố gắng mà chúng ta dốc vào việc điều tra vụ ấy thành một trò đùa. Bởi thế, chúng tôi tự đặt cho mình một mục đích: chấm dứt tình trạng đó, cho dù chúng ta muốn hay không muốn thừa nhận nó. Chắc quý vị sẽ hỏi tôi: do đâu mà tôi dám đoan chắc sự rò rỉ tin tức đo không phải xuất phát từ nhóm chúng tôi? Vị tất đã có gì đảm báo là nhóm chúng tôi không bị nguy cơ đó đe doạ? Nói đến đó, người cao tuổi ngừng lại và hít một hơi thở thật dài cho đỡ mệt. Những người dự họp ngồi quanh ông đều là những người hết sức từng trải trong nghề tình báo, đặc vụ, nên chẳng ai ngờ nghệch gì trong việc công khai chĩa vào nhau những cái nhìn dò xét. Người cao tuổi ngay lúc ấy cảm thấy không khí trong phòng mỗi lúc một thêm căng thẳng. Ông lặng lẽ tự chúc mừng mình về cái thắng lợi nhỏ này. - Bây giờ, - ông nói tiếp, - tôi muốn nói rằng có lẽ tôi đã không hoàn toàn đúng, tuy tôi giấu hết toàn bộ những tin tức đã thu thập được với các thành viên trong nhóm chúng ta, mặc dù riêng về phần mình tôi không nghĩ như thế. Vấn đề không phải ở chỗ tôi buộc tội ai trong số chúng ta ngồi đây hoặc hoàn toàn loại trừ khả năng ai đó trong chúng ta đây đã để cho tin tức bị thất thoát. Tôi vẫn tiếp tục cho ràng những hành động của tôi là hoàn toàn có lý do để biện minh và hoàn toàn lô-gich. Và tôi vẫn tiếp tục tin rằng tình thế vị tất đã đổi khác, đã trở nên tốt hơn, bất chấp những lời cam đoan của ngài đại diện, thay mặt cho cơ quan FBI, người bạn quý mến của chúng tôi. Tôi vẫn kiên trì quan điểm cho rằng, chắc chúng ta vẫn sẽ giẫm chân tại chỗ, hệt như hôm nay thôi, nếu tôi hành động khác đi. Nhưng điều chủ yếu không phải là ở đó, ít ra cũng chẳng phải vào thời điểm này. Vấn đề chính là ở chỗ ta sẽ làm gì nữa đây và làm như thế nào đây. Viên phó giám đốc nhìn quanh các vị đại biểu. Xem ra chẳng còn ai muốn nêu lên ý kiến của cá nhân hoặc định trả lờ câu hỏi vừa nêu. Dĩ nhiên, đứng trước tình hình đó, ngài phó giám đốc phải đích thân nhận trách nhiệm ấy. Nhưng đó lại là điều ông ta ngại nhất. Ông sẽ phải thường xuyên tự dặn mình, là chớ có làm ai chạm nọc và cũng đừng xúc phạm ai trong số những người ngồi đây. Ông cảm thấy thoải mái hơn nhiều, khi tham gia và các chiến dịch cụ thể, khi chỉ phải nghĩ và lo đến mỗi một thứ - địch thủ. Ông cất tiếng ho khẽ, rồi làm cái việc mà người cao tuổi đang mong theo cảm nghĩ của ông: - Ngài có đề nghị gì mới không, thưa ngài? Người cao tuổi mỉm cười. Một ông già Dansworth nhân hậu kia mà. Trò chơi ấy dĩ nhiên là ông biết rõ, nhưng sử dụng thì không thạo mấy. Trong một chừng mực nhất định, ông không muốn tự đặt mình vào tình thế khó xử. Ông nhìn tránh đi chỗ khác, rồi ngước mắt lên trần nhà, vẻ tư lự. - Thực tình, thưa ngài phó giám đốc, tôi cũng chưa biết phải đề nghj gì đây. Nói chung, tôi chẳng có gì để phát biểu đâu ạ. Nhưng điều chủ yếu, theo tôi nghĩ, là ta phải tiếp tục hành động. Viên phó giám đốc chột dạ. Tình thế lại xoay chuyển sang hướng ông phải tự đứng ra quyết định lấy. Ông đưa mắt lần lượt nhìn quanh các vị đại biểu đang ngồi trên bàn họp. Ai nấy tức thì cụp mắt xuống, mất ngay vẻ tự tin và nhiệt tình. Họ nhìn bâng quơ. Đâu cũng được, trừ ông ra. Tuy thế, ông thừa biết họ đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của ông. Ông lại cất tiếng ho khẽ. Ông quyết định phải chấm dứt càng sớm bao nhiêu càng hay bấy nhiêu cái công việc chẳng dễ chịu chút nào này. - Như vậy, theo tôi được biết, không còn vị nào có ý kiến hoặc đề nghị mới nữa. Vì thế, tôi đi đến kết luận là sẽ hoàn toàn lô-gích, nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động theo hướng ta đã triển khai trước đây. (“Nghĩa là thế nào? Thật tối nghĩa!” – ông tự nhủ). Nếu không có đề nghị nào khác…, - ông ngừng lại một giây, - tôi đề nghị ta hãy kết thúc phiên họp tại đây. Viên phó giám đốc thu xếp giấy má, cất vào cặp và nhanh nhẹn bước ra. Khi những người còn lại đứng dậy để theo gương ông ta, viên đại diện Cục tình báo quân đội nghiêng người về phía ông sĩ quan hải quân, nói lớn: - Tôi cảm thấy mình y hệt như là một chú rể ngây ngô trong tuần trăng mật ấy. Chẳng biết phải làm ăn ra sao cả! Viên sĩ quan hải quân ngước nhìn ông bạn đồng nghiệp, nói còn to hơn: - Gì chứ những vấn đề kiểu đó thật chưa từng gặp bao giờ… … Malcolm đổi tắc-xi ba lần liền, trước khi bảo tài xế cho mình đến một căn phố ở đông-bắc Washington. Anh trả tiền cho tài xế lúc đứng bên một cửa ô vắng vẻ, rồi đi bộ tiếp, loanh quanh trong các phố xá ngoại thành. Ngay từ khi còn ngồi trên tắc-xi, anh đã nghĩ được cho mình một kế hoạch hành động – tuy hãy còn quá chung chung và chưa thật rõ nét mấy, nhưng dù sao lúc này anh cũng đã có một kế hoạch hành động. Điểm đầu tiên trong kế hoạch đó là tìm một chỗ nương náu thật an toàn, để có thể tránh được mọi cặp mắt đang rình rập. Anh chỉ mất đúng hai mươi phút để làm việc đó. Nhận thấy một cô gái để ý đến mình và chậm rãi bước đi cùng chiều ở bên vĩa hè đối diện, anh liền chậm bước lại. Đến ngã tư, cô ta băng qua đường, nhảy lên vỉa hè, nhưng “vấp ngã” và chúi hẳn người về phía anh, rồi ôm chầm lấy. Hai tay cô gái lần nhanh dọc hai bên sườn “ân nhân”. Anh cảm thấy toàn thần cô căng lên khi chạm phải khẩu súng giắt ở thắt lưng. Cô lùi ngay lại, và đôi mắt màu nâu nhạt, long lanh một vẻ khác thường, chăm chú nhìn anh, dò xét: - Cảnh sát à? Nghe giọng nói thì chắc chỉ mới 17, 18 là cùng. Malcolm đưa mắt nhìn những vòng tóc xoăn dựng ngược lên như lò xo và bị thuốc nhuộm tóc làm cho bệch bạc hẳn đi, nhìn làn da tái mét của cô ả. Cả tóc tai, cả quần áo đều nồng nặc mùi nước hoa, dốc từ trong mấy chiếc lọ mà một một cửa hiệu tạp hoá nào đó ở đầu phố trưng ra cho khách hàng xức thử. - Không, cảnh sát gì thứ tôi, - anh nhìn thẳng vào gương mặt lộ rõ vẻ hoảng sợ của cô gái. – Có điều, như thiên hạ vẫn nói, tôi đang có một việc khá dễ mất mạng. Anh thấy cô ả vẫn chưa hết sợ, nhưng anh hiểu ngay là cô ta đang cố để khỏi bỏ lỡ mất dịp kiếm thêm tiền. Cô ả lại chồm về đằng trước và ôm chặt lấy người Malcolm, nói: - Thế anh làm gì ở khu vực này? Malcolm mỉm cười: - Tôi muốn được giải buồn chốc lát với một cô nàng nào đó, kiểu như cô, và sẵn sàng trả rất hậu. Mà cho dù tôi có là cảnh sát thật chăng nữa, tôi cũng không thể lấy quyền gì để bắt cô vì tội “ăn sương” bởi lẽ chính tôi đã mở miệng đề nghị trước. Sao, gật chứ? Đến lượt mình, cô gái lại cười mỉm, đáp: - Dĩ nhiên là được thôi. Tôi hiểu. Nhưng anh định giải muộn trong bao lâu? Malcolm nhìn cô gái. “Chắc là người Ý, - anh nghĩ bụng, - hoặc một nước Trung Âu nào đó”. - Thế, cô em đòi bao nhiêu? Cô gái ngắm Malcolm, rõ ràng là để lượng định về “khả năng tài chính” của anh chàng trăng gió lạ đời. - Hai mươi “đô” một bận – Trông thì thấy ngay cô ta chỉ đòi anh phải bằng lòng, chứ không cho phép mặc cả mặc kiếc lôi thôi gì hết. Malcolm hiểu rõ là mình nên tránh phơi mặt ngoài đường càng sớm bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Anh lại nhìn mặt cô gái. - Tôi không phải vội đi đâu, - anh nói. – Tôi sẽ trả cô… bảy mươi lăm đô-la cho suốt đêm nay. Ngoài ra, tôi chịu luôn cả tiền ăn sáng nữa, nếu tôi được sử dụng phòng cô từ giờ đến mai. Cô gái chau mày ngẫm nghĩ. Chỗ tiền ấy, cô phải làm suốt cả ngày đến tận nữa đêm, may ra mới kiếm được. Dẫu sao, cô cũng cứ thử vòi thêm. Cô từ từ chìa tay ra, chạm vào người Malcolm. - Này, anh bạn, cái giá đó dĩ nhiên là rất hậu, nhưng... – Cô ta đột nhiên ngừng lại và toan gạt phắt ý định cũ, nhưng nghĩ sao không biết, lại vẫn nói tiếp: - Trả cho em một trăm chẵn, nhé. Sao, được chứ? Em sẽ hầu hạ anh như một ông hoàng! Malcolm nhìn cánh tay đang chìa ra và gật đầu, toẻ ý ưng thuận: - Thôi được, thì một trăm! Tôi sẽ nghỉ lại phòng cô suốt đêm nay đấy. – Rồi anh rút trong túi ra một tờ ngân phiếu năm mươi đô-la trao cho cô gái. – Trả trước ngay một nửa, còn một nửa nữa, sáng hẵng hay. Này, nhớ là đừng có giở mánh ra với tôi hay đi rước thêm một thằng cha quỷ quái nào đó nữa đấy nhé. Cô gái giật lấy tờ ngân phiếu trên tay Malcolm. - Ai lại dám giở mánh với anh! Em chỉ có một mình thôi mà. Nhưng ai, chứ với anh thì em cố hết lòng cung phụng. Cô gái cầm lấy tay anh lôi đi. Đến ngã tư tiếp theo, cô ghé tai Malcolm, nói nhỏ: - Đứng chờ em một tẹo, nhé. Em cần nói với người này mấy câu thôi mà. Cô gái buông tay anh ra, và Malcolm còn chưa kịp phản ứng, thì cô ta đã nhanh nhẩu bước đến chỗ ông già mù, ngồi bán bút chì ở góc phố. Malcolm áp lưng vào vách tường một ngôi nhà bên đường, cho tay vào trong vạt áo vét-tông, cầm lấy báng khẩu súng ngắn, bỗng chốc đã ướt nhoẹt mồ hôi. Anh thấy cô gái trao tờ giấy bạc năm mươi đô-la cho ông già mù. Ông ta lẩm bẩm mấy câu gì đáp lại. Đoạn, cô ả chạy đến một chòi điện thoại gần đó, không để ý gì đến một chàng trai cố tình ẩy vào người. Ngoài cửa, treo lủng lẳng tấm biến “Máy hỏng”. Nhưng cô gái bất chấp, cứ giật cửa ra. Cô lật lật một lát quyển danh bạ, hoặc ít ra Malcolm có cảm tưởng là cô làm thế. Anh không thấy rõ cô ả đang làm gì trong ấy vì ả quay lưng về phía anh. Rồi ả khép vội cửa, rảo bước lại bên chỗ Malcolm đang đứng chờ. - Xin lỗi vì bắt anh phải chờ. Có chút việc bận. Anh không giận đấy chứ? Lúc họ đi ngang qua chỗ ông lão mù, Malcolm dừng phắt lại gạt cô gái sang một bên, và giật chiếc kính đen trên mặt ông già. Tuy chăm chú theo dõi vẻ mặt kinh ngạc của cô gái vì hành động đó, Malcolm vẫn liếc nhìn ông già bán bút chì. Đến khi thấy hai hốc mắt không tròng, anh lại đeo kính trở vào cho ông ta. Rồi anh dúi tờ mười đô-la vào ta ông lão, nói nhanh: - Xin lỗi bố già, nhé! Ông lão mù cười hề hề, cất giọng khàn khàn đáp: - Chả sao đâu, thưa ngài. Khi họ đã đi xa, cô gái ngước nhìn anh, ngạc nhiên hỏi: - Làm thế để làm gì vậy hả? Malcolm nhìn nét mặt sửng sốt của cô gái: - Chỉ để kiểm tra tí thôi. Chỗ cô gái ở chỉ là một căn phòng nhỏ với một giàn bếp rất hẹp và một phòng tắm con con, gắn một cái vòi búp sen tự làm lấy, trông chẳng ra hình thù gì. Vào phòng xong, cô gái khoá trái cửa lại, cài chốt cẩn thận. Malcolm tiện tay móc luôn cả sợi xích vào một chiếc đinh to tướng – cho chắc ăn hơn! - Em sẽ quay lại ngay đấy, cưng ạ. Anh thay quần áo đi. Rồi em sẽ chỉ chỗ cho mà “kềnh”. – Và cô ta chui ngay vào sau tấm màn ngăn cửa buồng tắm với bếp. Malcolm nhìn ra ngoài cửa sổ. Tầng ba. Thế này thì đừng hòng trèo từ bên ngoài vào. Tuyệt. Cửa rất vững chãi, lại cài then cẩn thận. Anh tin chắc chẳng ai thèm theo dõi họ, mà thậm chí ngay cả chuyện để ý cũng khỏi phải lo. Anh chậm rãi cởi áo ngoài, đặt khẩu súng ngắn xuống chiếc bàn kê bên đầu giường, rồi lấy một tờ tạp chí cũ đậy lên trên. Cái giường rên lên một tiếng “kẹt” dài, khi anh ngả lưng xuống. Đầu anh nhức như búa bổ, người thì mõi như, nhưng anh biết phải xử sự cho thật tự nhiên, để khỏi bị ngờ vực. Tấm màn bị gạt ra, và cô gái lại quay vào. Cặp mắt ả sáng lên một cách khác thường. Trên người ả lúc này đã mặc một chiếc áo ngủ tay dài, mày thâm, mỏng như giấy, nên có thể nhìn thấy rõ cả bộ ngực vừa gầy, vừa lép. Hơn nữa, cả thân hình ả cũng chẳng béo tốt gì hơn, đến nỗi gần như là da bọc xương. Giọng ả nghe như từ cõi xa xăm nào đó vọng về: - Xin lỗi nhé, em lại bắt anh phải chờ, “cục cưng” của em. Ả trèo lên giường rồi ôm lấy đầu Malcolm ghì vào ngực. Họ nằm như thế hồi lâu. Rồi Malcolm liếc nhìn sang. Người cô ả đang rung lên nhè nhẹ. Thì ra, ả đã ngủ. Thấy thế, anh liền se sẽ ngồi dậy, đi tắm. Trên nắp cái thùng chứa nước, kê trong góc gian buồng tắm bẩn thỉu, anh thấy một cái thìa, một ống cao su, một hộp diêm và một chiếc xê-ranh tự làm. Một gói ni lông nhỏ đựng một thứ bột màu trắng, đã dùng mất đi non nửa, vất bên cạnh. Mãi lúc này, Malcolm mới hiểu ra vì lẽ gì cô ả diện chiếc áo ngủ dài tay. Hoá ra để che những nốt đen lấm tấm do kim tiêm để lại. Malcolm ngắm căn phòng. Anh tìm thấy bốn bộ quần áo lót, ba chiếc áo ngắn, một đôi váy, một đôi áo dài, một cặp quần jean’s và một chiếc săng-đay đỏ đã ngả sang màu tím sẫm, nằm vật vạ trên sàn. Trong chiếc tủ liền tường, chơ chỏng một chiếc áo mưa sờn rách. Trong cái hộp các tông dùng để đựng giày cao gót, anh tìm thấy sáu tờ biên lai của nhà tù Washington cấp cho cô ả, khi ả nhận lại những tư trang bị giữ lúc bị bắt giam. Anh còn bới được trong cái hộp ấy ra một tấm thẻ học sinh trung học, có giá trị trong thời hạn hai năm, đề tên: Mary Ruth Rosen. Trong bếp chẳng còn qua món gì ăn đươc, ngoài năm thẻ sô-cô-la, một dúm hạnh nhân và lưng hộp nước hoa quả. Anh chén sạch mọi thứ, anh moi được dưới gậm giường ra một chai rượu không, nhãn hiệu Mogen David. Anh đem đặt nó bên ngưỡng cửa ra vào. Theo lý thuyết thì nếu có ai đẩy cửa đi vào, cái chai sẽ đỗ chổng kềnh, phát ra tiếng động. Xong xuôi, anh bế bổng cô ả lên, đặt vào chiếc ghế xa-lông đã trơ cả nệm, rồi phủ lên người ả chiếc khăn mỏng. Cô ả vẫn chẳng buồn cựa quậy. Vị tất đã có nghĩa lý gì, nếu đêm nay ả phải ngủ trên chiếc xa-lông chả ra làm sao kia. Rồi Malcolm tháo chiéc kính cận trong mắt ra, cất đi và ngả lưng xuống giường. Năm phút sau anh đã ngủ mùi mẫn.