Khi Lynn từ bệnh viện về nhà vài ngày sau, mẹ cứ ưa nói rằng cơ bản chị đã khỏe. Nhưng hình như bệnh thiếu máu của Lynn có tăng lên, chị cần ăn thêm nhiều gan nữa. Mỗi ngày tôi ngồi bên giường chị và đút cho chị ăn cả cơm và gan. Tôi luôn chừa lại một ít gan cho Sam, để nó không bị mắc bệnh thiếu máu. Rồi sau khi đút cho Lynn ăn, tôi cho chị uống thuốc bổ sung chất sắt. Mỗi lần chị tỏ ra bướng bỉnh, tôi phải đổ thuốc vào miệng chị và giữ nó ngậm lại tới khi chị nuốt xuống hết. Có một lần chị tìm cách cắn tôi. Sam và tôi bị bắt ra phòng khách để ngủ cho tới khi Lynn khỏe lên. Ba mẹ mua cho tôi một cái giường nhỏ. Tôi cứ lo Lynn ở một mình trơ trọi trong phòng ngủ, nhưng khi nhìn vô nhật ký của chị, tôi đọc được: Tôi thấy lo vì mấy đứa nhỏ phải ngủ trong phòng khách, nhưng thật tuyệt khi có một phòng ngủ riêng. Tôi rất thích ở một mình. Tôi không nghĩ tôi là một trong “mấy đứa nhỏ.” Nhưng tôi đoán là Lynn vẫn coi tôi như vậy. Sau khi đút cho Lynn ăn, tôi lấy bộ pijama trong tủ ra mặc, chúc chị ngủ ngon, rồi bước ra khỏi phòng. Khuya hôm đó khi tôi mở mắt ra, tôi thấy chị đang ngồi trên sàn nhà, gần giường tôi. Tôi hỏi: “Gì vậy chị?” “Amber đã nghỉ chơi chị rồi.” “Nghỉ chơi chị rồi hả, không làm bạn nữa sao?” “Ừ. Chị chẳng thèm quan tâm. Nó là đồ dỏm.” Lẽ ra tôi phải nói vậy với Lynn từ hồi lâu rồi! Trong một thoáng tôi có cảm giác thật buồn cười rằng chính tôi mới là chị, còn Lynn chỉ là đứa em gái nhỏ. Lynn đứng dậy, nói: “Thôi, ngủ ngon.” “Chị ngủ ngon.” Chị không đi, chỉ đứng yên đó. Ánh đèn từ căn nhà nghỉ ở cuối đường hắt lên mặt chị một cái bóng lờ mờ và nhấp nháy. Tôi nhận ra chị vừa mới khóc. Chị nói lần nữa: “Ngủ ngon.” “Ngủ ngon!” Ngày hôm sau, khi tan học tôi chạy về phía Amber lúc này đang đi cùng đám bạn của nó, Lynn nghỉ học ở nhà vì bị bệnh. Amber nói với tôi: “Mày đang bận cái thứ gì vậy?” Tôi đang bận một cái áo đầm rất kiểu mà bà Muramoto đã may cho tôi. Cũng như mọi khi là tôi nghĩ mình ăn mặc rất thời trang! Nhưng đám con gái đó bắt đầu cười nhạo tôi. Tất cả tụi nó đều mặc quần ngắn dành cho con gái. Tôi nói: “Mày là đồ dỏm!” Nó nói lại: “Mày là đồ mọi rợ!” Tôi không hiểu mọi rợ là gì, nhưng tôi nói lại nó: “Mày cũng là đồ mọi rợ luôn!” Nó nói: “Vậy là mày thừa nhận mày là đồ mọi rợ rồi nghe!” Tôi nghĩ tới Lynn đang nằm bẹp vì bệnh ở nhà, và xô vai Amber một cú. Nó xô lại tôi. Tôi nắm bàn tay lại thành nắm đấm và dộng thẳng vào nó. Nó né mặt đi, cho nên tôi chỉ chạm sơ vào nó. Nhìn nó chẳng có vẻ bị đau gì cả, nhưng trong một lúc tôi tưởng chừng như mình bị gãy tay rồi. Con nhỏ bần tiện đó sao có cái mặt cứng ngắc vậy! Rồi một người qua đường chạy tới và giải tán bọn tôi. Tối hôm đó tôi cảm thấy một cơn giận khủng khiếp đối với đám con gái đó. Tôi nghĩ mình ghét bọn nó dễ sợ. Trước đây tôi chưa từng ghét ai bao giờ. Điều này làm tôi rất khó chịu. Tôi kể ba mẹ nghe là Amber đã nghỉ chơi với chị Lynn. Tôi ước gì mình đã không kể bởi vì tôi thấy chuyện đó làm ba mẹ rất buồn. Rồi tôi lại mừng vì mình đã nói ra bởi vì sau đó hai người trò chuyện một lúc lâu trong nhà bếp, và trở ra tuyên bố rằng cả nhà sẽ tới ngân hàng vay một khoản tiền. Tôi nói: “Con tưởng ba mẹ không muốn mượn tiền ngân hàng chớ!” Mẹ nói: “Ba mẹ muốn mua cho chị con một ngôi nhà.” Tối hôm đó Lynn có vẻ tươi tắn hơn một thời gian dài trước đây. Lâu nay Lynn và tôi đã ngưng không còn giấu tiền trong phòng tắm nữa. Bây giờ chúng tôi giấu nó trong tủ. Thỉnh thoảng chúng tôi đem mớ bạc vụn ra đếm. Và cứ vài tháng một lần, Lynn tới ngân hàng để đổi thành những tờ giấy bạc. Đôi lúc tôi đi cùng chị. Tôi không thích ngân hàng. Tôi chẳng hiểu tại sao một nhóm người lạ hoắc lại đi giữ tiền của người khác trong những căn hầm nữa. Nếu có một tên trộm mò tới nhà của chúng tôi, tôi sẽ nện lên đầu hắn bằng cây đèn của mình. Cho nên với riêng tôi thì chẳng cần ngân hàng làm gì. Chúng tôi đã để dành được một trăm đô-la. Sam vẫn được quyền mua đồ bởi vì nó còn là một đứa bé, nhưng tôi và Lynn đã không còn mua kẹo từ lâu rồi. Buổi tối trước khi chúng tôi tới ngân hàng cùng ba mẹ để vay một khoản, Lynn, Sam và tôi đưa cho hai người một phong bì màu hồng đựng số tiền của bọn tôi. Ở trên phong bì bọn tôi chỉ ghi: Của Lynn, Katie và Sam. Chị em tôi ghi thêm tên thằng Sam bởi vì chúng tôi là một bọn ba đứa. Khi ba mẹ nhìn thấy món tiền bọn tôi để dành, mẹ bật khóc rồi ôm lấy chị Lynn và vừa khóc thút thít vừa lặp đi lặp lại: “Mẹ thương con lắm, Lynn.” Bà khóc rất dữ, rồi chạy ra khỏi nhà bếp, và một lúc sau chúng tôi nghe cánh cửa phòng ngủ của mẹ đóng sầm lại. Ba hôn cả ba đứa rồi đi vào phòng ngủ để nói chuyện với mẹ. Lẽ ra số tiền này phải làm họ vui lên chớ, cho nên chúng tôi thấy hơi kỳ kỳ. Lynn đủ khỏe để rửa chén dĩa, trong lúc Sammy và tôi tập chổng chân trồng cây chuối bằng cách dựa vào tủ lạnh. Ngày hôm sau khi đi học về, tôi để nguyên bộ đồ đi học rồi cùng với ba mẹ, Lynn, và Sam đi tới ngân hàng. Sam mặc một cái áo kín cổ hơi chật. Bữa đó Lynn thấy khỏe trong người. Chúng tôi kéo vài cái ghế xúm quanh bàn của người nhân viên tín dụng rồi trố mắt nhìn trong lúc ông ta yêu cầu ba mẹ tôi đưa ra những tờ giấy mà họ đã điền vào đầy đủ. Trong khi xem giấy tờ, khi thì ông chau mày khi thì ông ta gật gù có vẻ vừa lòng. Tôi đếm thấy có bảy cái gật đầu hài lòng và chỉ có ba cái chau mày. Rồi ông ta đứng dậy để bắt tay ba mẹ. Ông ta nói: “Chúng tôi sẽ liên lạc với ông bà.” Hai tuần sau ngân hàng chấp nhận khoản vay, và ngay ngày hôm đó chúng tôi chở Lynn ra ngoài để xem xét mấy ngôi nhà. Chị chọn được một căn, ngay bữa đầu tiên. Chị chọn một căn nhà màu xanh da trời. bởi chị nói rằng khi tôi còn nhỏ tôi có nói là muốn căn nhà đầu tiên của mình có màu xanh da trời. Sau đó không lâu chúng tôi dọn vào ở. Nó là một căn nhà nhỏ, khá giống với căn hộ của chúng tôi ngoại trừ có thêm hai phòng nữa: một phòng khách nhỏ có một buồng nhỏ xây lùi ở góc. Ở không xa nhà chúng tôi là bao, cái khách sạn có chỗ đậu xe ô-tô tôi đã thấy trước kia, bảng hiệu nó nhấp nháy suốt đêm.Vậy là nhà chúng tôi ở phía bên kia đường cái khách sạn. Nhưng tôi cảm thấy nó quá xa căn hộ cũ của mình. Vật đầu tiên được khiêng ra khỏi chiếc xe tải của bác Katsuhisa là mấy cái bàn của hai chị em tôi. Lynn và tôi sẽ đặt chúng trong cái buồng nhỏ. Ba và bác Katsuhisa khiêng bàn học của Lynn vào căn nhà trống. Ba hỏi: “Đặt nó ở đâu đây?” Lynn nhìn tôi: “Em muốn phía nào?” “Chị chọn trước đi.” Cả hai chúng tôi đều biết đâu là hướng tốt đối với tôi: đó là cái hướng xây mặt về cụm hoa mộc lan trong sân nhà. Chị Lynn nói: “Em cứ chọn trước.” Bác Katsuhisa lên tiếng: “Cứ để sau rồi tính, mấy đứa.” “Con chọn phía đó.” Tôi nói và chỉ tay về phía ngược lại. Chị Lynn nói: “Em nói gì vậy chứ!” Bác tôi bảo: “Bác không muốn phải đứng đây cả ngày đâu, mấy đứa.” Bác đã mệt lắm rồi, bởi vì ông và ba vừa phải chất xong tất cả mọi thứ lên xe tải mấy phút trước đây. Bác và ba đặt bàn xuống. Bác nói sẽ tung đồng xu. Bác liệng một đồng xu lên trời, rồi khéo léo vòng tay ra sau lưng bắt được, úp nó xuống cánh tay. Lynn và tôi đưa mắt nhìn nhau. Lynn nói: “Sấp.” Bác liếc nhìn đồng xu rồi lẹ làng bỏ nó vào túi quần. Bác nói: “Lynn chọn sấp nhưng nó ra mặt ngửa.” Tôi nói: Con chọn hướng nhìn về căn hộ cũ của mình. Như vậy, con thấy được nơi mình ở trước đây.” Vậy là Lynnie vẫn là người được ưu tiên chọn cho dù chị muốn nhường tôi. Chị đứng nhìn ba và bác khiêng mấy thùng đồ vô căn nhà mới với nét mặt rạng rỡ. Thực ra tôi vẫn cho rằng đây là nhà của Lynn. Tôi nắm tay Sam trong lúc chị đứng trong phòng khách, phấn khởi quan sát mọi người rộn ràng xếp dọn. Lynn rất thích sự rộn ràng. Ba và bác đã sơn nhà hồi tuần trước, cho nên tối nay khi nằm trong phòng ngủ của mình, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi sơn mới. Tôi hít thật sâu để không bao giờ quên cái cảm giác được ở trong một căn nhà hoàn toàn mới và ngủ trong căn phòng vừa được sơn cùng với chị em mình là thích thú tới chừng nào. Tôi nghe mẹ nói với ba rằng đây chỉ là một “căn nhà tạm khởi đầu”, rồi một ngày nào đó, chúng tôi sẽ mua một căn nhà “đẹp hơn”, trong một khu phố “tốt hơn”. Nhưng tôi không thể tượng tưởng ra căn nhà nào tốt hơn cái này. Chúng tôi có một cái sân cỏ đằng trước và đằng sau nhà, và vào ban đêm thì lũ gấu, chuột túi, và chồn đi qua đi lại sân sau giống như tụi nó sống ở đó. Càng ngày chị Lynn càng khỏe ra, và tôi nghe mẹ nói với ba rằng chính căn nhà đã giúp Lynn hồi phục. Tôi cũng đồng ý. Giống như căn nhà đang chữa bệnh cho Lynn vậy. Điều đó càng khiến tôi thích căn nhà này, hơn bất cứ lý do nào khác. Vài ngày sau, Lynn, Sam và tôi dự tính đi cắm trại để mừng chị bình phục. Chúng tôi đã không đi cắm trại kể từ khi chị kết bạn với Amber. Ba mẹ hơi lo về việc chị ra ngoài trời, nhưng ba mẹ rất vui là chị đã khỏe lên nhiều, như thể chị chưa bao giờ bệnh vậy. Vào ngày cắm trại, mới rạng sáng chị đã đánh thức tôi dậy. Chị nói: “Ba để lại tới một đô-la lận!” Tôi mở mắt ra. Ba đã nói là ông sẽ để lại tiền cho mấy đứa mua thức ăn cắm trại. Tôi hỏi: “Vậy mình mua đậu phụng há?” “Muốn mua cũng được, không cũng được.” “Em mong là cửa hàng có bán loại đậu có nhân mứt bên trong.” “Chị cũng mong vậy!” Chị rất háo hức. Trước đây chị rất thích đi cắm trại trước khi Amber chường mặt tới. “Chị cũng chưa chắc nữa, biết đâu mình thích kem que thì sao?” Tôi thấy thích quá. Tôi quên nghĩ tới kem que! Thật là đã khi nghĩ mình lại được mua sắm, sau một thời gian dài phải để dành tiền để mua nhà. Sam nói: “Em đái dầm ướt giường rồi.” Điều đó kéo bọn tôi về lại thực tế trên mặt đất. Tôi phải lau dọn cho thằng Sam trong lúc Lynn lo làm đồ ăn sáng: một món ăn mà bọn tôi gọi là trứng nâu, trứng đánh chung với đậu nành và đường. Đó là món ăn sáng tôi khoái nhất. Ăn xong, bọn tôi làm cơm nắm để đem theo. Bọn tôi bàn bạc rồi quyết định dùng một phần tiền để mua bia, và phần còn lại mua đậu phụng. Bọn tôi đi xe đạp – tôi chở Sam. Đó là một ngày cuối hè rất đẹp. Tôi rất thích những ngày cuối hè. Những ngày càng gần khai giảng càng thêm quý. Gió thổi mạnh. Những cánh hoa mộc lan bị gió cuốn bay phất phới trên mặt đường bọn tôi đi qua. Bọn tôi hướng về phía Nam, hướng về dinh thự của ông Lyndon – cái dinh thự trắng toát với những cột trụ cao vút sơn trắng. Chúng tôi thích ngắm nhìn tòa dinh thự của ổng. Thậm chí nó cũng có mặt trong một cuốn sách ở thư viện viết về các dinh cơ ở Bang Georgia trước thời nội chiến. Khi Lynn và tôi giàu có, chúng tôi sẽ đưa ra một lời đề nghị thật hấp dẫn cho ông Lyndon mà ông không thể từ chối và mua căn nhà này cho ba. Nó sẽ là một trong bảy ngôi nhà mà bọn tôi sẽ mua cho ba mẹ. Mấy năm qua chúng tôi đã có một đôi lần cắm trại trên đất của ông Lyndon, còn chưa rào và chưa khai phá. Những cơ ngơi của ông ta cũng là những điểm du lịch của vùng này – đã có lần ông ta tổ chức một tua du lịch. Lynn nói với tôi từ đằng sau: Mọi thứ của ông Lyndon là do thừa hưởng gia sản của ông cha ổng!.” Dĩ nhiên tôi biết điều đó, bởi vì những người lớn luôn nói về nó. Tôi nghĩ họ muốn tự nhắc mình rằng ông ta không thu hoạch tài sản của mình một cách khó nhọc như họ. Chúng tôi dừng xem bên rìa một trong những cánh đồng của ông và để xe đạp ở giữa đồng cỏ. Trước mắt chúng tôi toàn là cây cối và đồng cỏ trải dài. Tôi nhìn Lynn phân vân. Không biết chị có bị mệt không? Nhưng chị vẫn đang hớn hở, tràn đầy sức sống. Hình như bọn tôi cứ tiếp tục bước đi mà Lynn chẳng hề vơi hứng thú. Thỉnh thoảng tôi cũng nhìn thằng Sam coi nó có mệt không. Nhưng tôi thấy ai cũng phấn khởi hết sức. Những lúc khác thì thằng nhỏ Sam liếc nhìn tôi, để biết chắc là mọi chuyện vẫn ổn. Mỗi lần nó liếc tôi, tôi cười lén lại với nó. Có một điều bí mật giữa hai chị em tôi: tôi là người nó thích nhất. Cánh đồng cỏ là cả một điều kỳ diệu. Tôi có thể hình dung ra trước mắt những gì đã trôi qua trong quá khứ: những đàn bò đang gặm cỏ, một trận đánh trong cuộc Nội Chiến, và có lẽ cả những con khủng long. Những đám cỏ cao nghệu nhuốm màu xanh lục nhấp nhô trong gió không khác gì những cây rong biển mà tôi tưởng tượng đang uốn lượn dập dờn dưới đáy đại dương. Tôi rất thích cái màu lục-xanh này. Một lúc sau, cả trước mặt và phía sau lưng chúng tôi đều không còn gì khác ngoài đồng cỏ và một cụm rừng nhỏ. Lynn dừng bước. Chị tuyên bố: “Mình cắm trại ở đây.” Chúng tôi trải mền ra và nằm sấp xuống, gần bìa rừng để có thể nhìn vào đồng cỏ. Tôi nói: “Chúng ta đang ngồi trên bè trôi dạt giữa đại dương.” Sam có vẻ hơi sợ, còn Lynn thì không để ý tôi nói. Chị cắn một nắm cơm, và vẽ một ô vuông tưởng tượng. “Coi có bao nhiêu thứ trong ô vuông há. Chị nói trước nha. Chị thấy một con kiến.” Tôi nói: “Em thấy cỏ.” Sam nói: “Em cũng tính nói vậy!” Nó thở dài, tôi biết nó chán làm đứa nhỏ nhất và luôn luôn thua cuộc trong tất cả các trò chơi trừ khi bọn tôi tội nghiệp nó và cho nó thắng. “Em thấy một cục thạch anh nhỏ.” Tôi nói: “Ốc sên.” “Xạo,” Lynn nói. “Một con sâu róm! Chị mới thấy tức thì!”” Và cứ như vậy, hết ô này tới ô khác, cho đến khi Lynn há miệng ngáp và tôi biết trò chơi đã kết thúc. Sam ngồi cách đó vài tấc và đang ăn cơm nắm với đậu phụng. Thật là một ngày hạnh phúc! Giờ đúng là lúc hết xẩy để ngủ. Tôi ngã lưng xuống và nhắm mắt lại. Gió thổi vào mặt tôi nhột nhột. Tôi mơ thấy mình là nàng tiên cá, một nàng tiên cá bơi nhanh nhất ở đại dương. Tôi đang tham dự Thế Vận Hội Tiên Cá. Hàng ngàn dân tộc người cá đang theo dõi tại Sân Thế Vận Hội Dưới Đại Dương. Họ đang hò reo cổ vũ. Những giữa những tiếng reo đó bỗng có tiếng ai đó hét lên. Tôi phải bơi tới đó để cứu. Có một đứa bé…Lynn đã bật dậy chạy trước tôi. Sam hét lên liên tục “AAAAAAA! AAAAAAA!” Lúc đầu tôi chưa nhận ra đó là giọng của nó. Nhưng dù cho trước khi tôi nhận ra, nó cũng đã khiến tôi bật dậy và phóng về phía đó. Tôi mong mình đừng chạy nhanh hơn chị Lynn để khỏi là người tới đầu tiên. Nhưng bởi Lynn đã là một thiếu nữ, chân của chị dài ra và trở nên lóng ngóng, tôi qua mặt chị và phóng về phía tiếng hét. Ai đó đặt một cái bẫy giữa cánh đồng. Thứ bẫy bằng kim loại dùng kẹp mấy con thú khiến nó phải tự cắn đứt chân để thoát. Mấy cái răng bẫy đã bập vào thịt của Sam làm thành một hình tròn đỏ lét trên mắt cá chân nhỏ xíu của nó. Vì một lý do nào đó, mặt nó đỏ bầm lên, như thể ai đó đang bóp cổ nó vậy. Nó nhìn tôi van lơn: “Cứu em với!” Trong một giây chớp nhoáng, tôi nghĩ chân của nó đã đứt. Tôi thấy chóng mặt và há miệng để nói: “Chị không biết làm sao bây giờ.” Nhưng thay vì vậy, tôi quỳ xuống để gỡ cái bẫy ra. Tôi không thể tách hai cái ngàm bẫy ra được. Tôi ước gì mình có thể chạy đi và để Lynn lo chuyện này. Rồi tôi nhận ra cách để mở: đè cái que bên hông bẫy xuống. Tôi ráng hết sức đè nó xuống và la lớn: “Nhấc chân ra, chị không giữ lâu nổi đâu!” Sam kéo được chân ra, và tôi thả tay ra khỏi cái bẫy, nó cụp lại đánh “cách.” Sam nhìn chân nó rồi khóc thét lên. Tôi nói: “Bọn chị sẽ chở em tới bác sĩ. Ổng sẽ may vết thương lại cho em.” “Lấy kim may lại à?” Nó lại khóc la dữ hơn nữa. Lynn chạy tới, tôi thấy nhẹ nhõm là mình không phải tự lo chuyện này nữa. Tôi cõng Sam về chỗ trải mền trong khi Lynn dẫn đường. “Coi chừng, chỗ đó mấp mô đó!”, hay là “Cẩn thận, đừng làm động nó quá.” Tôi thấy lâu quá, và bắt đầu kiệt sức. Rồi bọn tôi quyết định dùng cái mền làm cáng để mang em bọn tôi về nhà.Lynn nắm đuôi cáng. Tôi cảm thấy mừng vì tôi không muốn nhìn cái mắt cá của đứa em trai. Nó làm tôi choáng váng mặt mày. Tôi đi thụt lùi, đầu ngoái ra sau để thấy đường đi. Chỉ mới một phút mà tôi đã nghe Lynn thở hổn hển. Chúng tôi cứ đi mãi, và cứ mỗi lần đi như vậy, tôi thấy hình như chẳng đi tới đâu cả. Càng lúc Lynn lại càng phải tạm dừng lại nhiều hơn để nắm cái mền lại cho chặt. Rồi cuối cùng cái mền tuột khỏi tay chị. Thằng nhỏ rơi lăn cù xuống, rên rỉ. Tôi quay lại, nhìn vẻ mặt bàng hoàng của nó, rồi nhìn vẻ kiệt sức của Lynn. Tôi hỏi: “Chị đi tiếp nổi không?” “Nổi.” Lynn nắm cái mền lên, và chúng tôi lại đi tiếp, nhưng mới được vài bước cái mền lại tuột xuống lần nữa. Sam không còn khóc lóc và cũng không rên rỉ lớn tiếng. Mặt nó vẫn đỏ bầm, nhưng bây giờ giống như đông cứng lại, tựa như Sam tê liệt của người rồi. Lynn và tôi chong mắt nhìn nó. Mắt cá chân nó đã sưng to như một trái bóng. Chúng tôi toát mồ hôi hột. Sam nói: “Em lạnh quá.” Lynn nhìn tôi và nói: “Đi tìm người giúp đi. Chị ở đây chờ với nó.” Tôi lưỡng lự. Tôi ghét ở một mình. Tôi thích đi cùng chị em mình hơn. Thậm chí chỉ đi một mình xuống nửa khu phố để gửi thư tôi cũng không thích. Mỗi lần ba mẹ sai tôi đi gởi thư, tôi đều dắt Sam theo. Lynn nói: “Em phải đi thôi.” Chị ngồi xuống cạnh Sam vuốt ve mặt nó. Mặt chị bắt đầu hiện ra cái màu tái xanh ấy, và chị thở hổn hển, nhưng không chỉ do mệt. Đó còn là do chị không thở được nữa. “Vậy chị ráng giữ ấm cho nó nghe.” Lynn gật đầu. Sam nhìn tôi, nó nói lần nữa “Cứu em với!” Tôi chạy băng qua cánh đồng, hy vọng mình sẽ không bị lạc. Nhưng sau một lúc tôi không biết mình phỉa đi đâu nữa. Theo tôi nhớ có vẻ là lúc đầu chúng tôi đi về hướng Bắc để tới chỗ cắm trại, rồi sau đó rẽ qua hướng Tây. Vậy có nghĩa là tôi phải đi hướng Đông rồi rẽ qua hướng Nam, nhưng khi tôi đi về hướng Đông, tôi thấy có vẻ như mình đang đi sai đường. Rồi tôi nhìn xung quanh và nhớ lại mặt trời ở đâu trước đây khi chúng tôi mới bước vào đồng cỏ. Tôi cho rằng mặt trời đã ở trước mặt: tức là hướng Đông. Vậy là chúng tôi đã đi về hướng Đồng rồi mới tới hướng Nam sao? Tôi kiểm tra lại xem mặt trời lặn xuống vào giữa trưa ở chỗ nào. Rồi tôi nhận ra là đi hướng nào cũng không quan trọng. Tôi cắm đầu chạy. Tôi dừng lại, không phải ở chỗ chúng tôi khởi hành, mà là một nơi xa lạ, thế nhưng lại có vẻ quen quen, bởi nó mường tượng như khu phố mà mẹ tôi rất muốn tới sinh sống. Nhà ở đây “đẹp hơn”, tuy không nhiều. Mọi căn nhà đều gần giống nhau. Đó là những căn nhà gỗ cũ kĩ, hầu hết sơn trắng, nhưng cũng có vài cái xanh, hồng, hay vàng; cũng ngõ vào lát sỏi; và cũng có một tòa dinh thự giàu có ở phía xa xa. Tuy nhiên tôi đang ở về mé sau của tòa dinh thự. Hồi nãy, chúng tôi nhìn thấy nó từ đằng trước. Vậy chắc là trước đây chúng tôi đã đi về phía Tây. Hay là… tôi cũng không chắc nữa. Xác định phương hướng không phải là điểm mạnh của tôi. Tôi chạy xuống khu phố, tới trước căn nhà nhìn giống cái căn mà mẹ tôi muốn mua nếu chúng tôi đủ tiền. Tôi gõ cửa mạnh đến nỗi tiếng gõ lớn làm chính tôi cũng giật mình. Những cái màn cửa được trang điểm bằng hoa hướng dương, và ở bãi cỏ trước nhà có cắm thêm một bông hoa hướng dương bằng plastic nữa. Một người phụ nữ da trắng trẻ tuổi bước ra và trố mắt nhìn tôi. Chị ta kêu lên: “Trời đất ơi.” “Em của em! Nó bị nạn! Nó bị một cái bẫy kẹp trúng!” Tôi bật khóc. “Trời đất ơi!” Chị ta nói lần nữa. Rồi chị nghĩ ngợi một lát. “Hình như Hank Garvin đang ở nhà.” Chị quay vào nhà và nói: “Casey, ở yên đó, nghe không!” Tôi theo chị đi tới căn nhà kế bên. Chị không gõ cửa mà thò đầu vào trong qua cửa sổ đang mở và gọi lớn, “Hank Garvin, anh có nhà không?” Một lát sau, hai người đàn ông bước ra phòng khách khi tôi và chị nhìn vào. Một trong hai người đó liếc nhìn chị trong lúc người kia chạy tới. Chị nói chuyện với người chạy tới, sau khi ném một cái nhìn khình bỉ về phía người kia. “Em của cô bé này bị một cái bẫy kẹp phải.” Chị quay lại hỏi tôi: “Trên đất của lão Lyndon phải không?.” Tôi đưa tay chỉ, và chị gật đầu. “Ừ đúng lão Lyndon rồi. Cái lão già chó chết ngu xuẩn. Tôi ghét lão và vợ lão.” Hank lên tiếng: “Chỉ chỗ cho tôi đi!” Anh mở cửa ra và chạy lại chiếc xe tải của mình. Ảnh dừng lại để coi tôi có theo sau hay không. “Đi nào.” Khi hai chúng tôi lên xe, người đàn ông kia bước ra cửa trước. Tôi nghe người đó nói: “Ginger, cưng đẹp lắm.” Nhưng chúng tôi đã ra xa rồi, và tôi không nghe được chị kia trả lời lại. Tôi quay lại nhìn Hank, ngay tức khắc tôi quên mất lý do vì sao tôi tới đây. Anh nhìn không giống Joe-John Abondondalarama, nhưng anh cũng đẹp trai không kém. Anh cười với tôi. “Đừng lo. Tôi cũng từng bị bẫy kẹp một lần hồi còn nhỏ. Em của em mấy tuổi rồi?” “Dạ năm tuổi.” Rồi tôi nhớ ra là nó mới bốn tuổi thôi. Tôi đỏ mặt lên. “Tôi cũng cỡ tuổi đó. Vậy mà sau đó tôi thuộc đội điền kinh của trường trung học.” Anh ta mỉm cười lần nữa. “Tôi chẳng giỏi giang gì, nhưng vẫn là thành viên của đội.” Tôi liếc ra ngoài cửa sổ rồi nói một cách ngại ngùng: “Thiệt à?” “Em bắt được quả tang tôi đang nói dối,” anh nói. Rồi anh ta cười rất tươi. “Hội thao Thể dục học đường. Bám chặt nghe.” Chiếc xe tải rồ lên một cái trên đường và quẹo một cú thật gắt. Chúng tôi lái tới cánh đồng cỏ mà tôi vừa mới chạy ra khỏi. Rồi chiếc xe leo lên lề đường và băng vào bãi cỏ. Tôi bị nảy lên, đụng và mui xe, hai hàm răng tôi đập vào nhau khi rơi xuống. Trong một lúc thoáng qua, tôi sợ mình vừa phạm sai lầm khi tìm ra anh chàng Hank Garvin lái-xe-như-điên này. Nhưng anh ta rất bình tĩnh, khiến tôi thấy yên tâm hơn. Tôi nói: “Em nghĩ là quẹo trái ở đây: “Đây hả?” “Dạ!” “Bám chắc nha!” Anh quẹo trái rất gắt, trong lúc tôi cố bám chặt xe. Trước đây tôi chưa bao giờ ở một mình cùng với người lớn da trắng nhưng thật tình tôi không thấy sợ. Tôi cảm thấy nghẹt thở vì hồi hộp. Anh ta cứ phóng xe chạy băng băng giống như ngày nào ảnh cũng lái xe qua cánh đồng này. “Ba của em làm việc trong trại ấp trứng phải không?” “Dạ. Còn mẹ làm việc trong nhà máy lớn.” “Vậy hả? Vợ tôi đang tham gia thành lập một công đoàn trong nhà máy đó.” Gần đây, thỉnh thoảng ba mẹ nói nhỏ với nhau về những hoạt động thành lập công đoàn trong nhà máy. Tôi nghe lỏm được mẹ nói rằng giờ mình không thể tin vào ai nữa hết. Còn con nhỏ Silly đã kể cho tôi nghe rằng một trong những người công nhân ủng hộ công đoàn đã bị đánh đập vào một buổi tối nọ. Tôi cảm thấy sợ. Nếu lỡ như Hank Garvin cũng là một tên mặt rô hoạt động bí mật thì sao? Tôi không biết đích xác một tên mặt rô là gì, đó lại là một lý do để sợ hơn nữa. Một tên mặt rô có thể là bất cứ ai, ở bất cứ đâu. Có vẻ như Hank biết được tôi sợ. Anh ta dùng đầu gối của mình để điều khiển vô-lăng rất tài trong lúc lấy tay lục túi áo và lôi ra một miếng sing-gum đã lột sắn và ném tới cho tôi. Ảnh dùng tay cầm vô-lăng trở lại. Tôi đang cố bám thật chặt vì mạng sống của mình. Anh mỉm cười. Ảnh đẹp trai khủng khiếp. “Ba mươi năm nay tôi chưa bị tai nạn lần nào.” Ba mươi năm! Anh quá lớn so với tôi! Tôi bỏ miếng sing-gum vô miệng. “Anh quẹo phải ở đây đi!”, tôi nói. “Em nghĩ chắc là vậy.” “Em tên gì?” “Katie!” “Bám chặt nghe, Katie!” Rồi ảnh quẹo phải. Tôi bám chặt, rồi tôi nhìn thấy chị và em của mình.