oirot và tôi ngồi bên bàn nước đợi thanh tra cảnh sát Japp, một người bạn cũ, đã hẹn tới uống trà cùng chúng tôi. Một tiếng động khô khan tiếp liền việc đến đột ngột của Japp. Hy vọng rằng tôi không tới muộn, anh chào chúng tôi và nói tiếp, không giấu giếm gì các anh, tôi phải làm việc với Miller, ông thanh tra phụ trách vụ Davenheim. Tôi giỏng tai lên nghe. Từ ba ngày nay, báo chí đều đăng tin về vụ biến mất lạ lùng của ông Davenheim, một thành viên quan trọng của hãng Davenheim và Salomon gồm những nhà tài phiệt và chủ ngân hàng danh tiếng. Ông đi khỏi nhà hôm thứ bảy tuần trước và cho đến nay vẫn chưa trở về. Tôi nóng lòng muốn nghe ở Japp một vài chi tiết bổ ích. Tôi cho rằng – Tôi nói – Không thể có chuyện biến mất trong thời buổi này được. Poirot đẩy chiếc đĩa đựng những chiếc bánh rán nhỏ phết bơ ra và hăng hái nói: Hãy nói cụ thể, anh bạn. Anh hiểu biến mất là thế nào? Anh đang nói đến loại biến mất nào đây? Những vụ biến mất đều đã được phân loại và dãn nhãn ư? – Tôi cười và hỏi lại. Nhưng đúng là chúng đã được làm như vậy. Chúng gồm ba loại: loại thứ nhất, loại thường được biết đến, là biến mất một cách cố ý; thứ hai đó là do sự mất trí và mất nhân cách, trường hợp hiếm nhưng vẫn xảy ra; thứ ba là giết người, thủ tiêu xác chết ít nhiều không khéo. Anh cho rằng không có những trường hợp ấy ư? Phải, gần như không thể. Người ta có thể mất trí, nhưng chắc chắn rằng đến một ngày nào đó người ta nhận ra anh, nhất là đối với một nhân vật quan trọng như Davenheim. Sau nữa, đối với thi hài, người ta không thể cho nó bay vào không trung được, sớm hoặc muộn chúng cũng phải ra khỏi nơi ẩn giấu, từ một chiếc hòm hay từ một góc rừng… vụ giết người được khám phá. Với những phương tiện giao thông hiện đại người ta cũng chẳng đã bắt được những người chạy trốn ra nước ngoài đó sao? Những nhà ga, những bến cảng được canh chừng chặt chẽ… Bạn thân mến – Poioirot nói – Anh đã nhầm. Anh không hiểu được trí xảo của một người muốn thủ tiêu một người khác, hoặc thủ tiêu mình, tuy rằng ít khi xảy ra,là một người có phương pháp. Hắn có thể dùng toàn bộ trí khôn và tất cả tài năng cần thiết vào công việc để tính toán cẩn thận tới từng chi tiết nhỏ: và trong trường hợp ấy thì tại sao hắn không thể đánh lừa được cảnh sát? Đánh lừa được cảnh sát thì có thể, nhưng còn anh? – Japp nói với giọng đầy nhiệt thành và cặp mắt tỏ vẻ ranh mãnh – Người ta không thể làm cho Hercule Poirot nhầm lẫn được. Nhà thám tử cố gắng tỏ ra khiêm tốn: Có thể chứ, đối với tôi cũng vậy thôi. Tại sao lại không? Đúng là tôi tiếp cận loại vấn đề này với một khoa học chính xác, một sự xác định toán học mà than ôi rất hiếm thấy ở những thám tử trong thế hệ mới này. Japp cười hớn hở: Có thể là như vây. Nhưng Miller phụ trách việc này là một tay lão luyện trong nghề. Anh có thể tin chắc rằng không một dấu tay nào, không một chút tàn thuốc lá, một vụn bánh mì, một vết bùn trên thảm chùi chân hoặc một sợi lông mèo ở dưới gầm giường nào có thể lọt qua mắt ông ta. Anh không thể không công nhận giá trị của những chi tiết nhỏ chứ? Không bao giờ. Những cái đó đều rất có ích, mỗi thứ về một phương diện. Nguy hiểm là chúng được quá coi trọng hơn bản thân chúng. Hầu hết những chi tiết đều vô nghĩa; chỉ một hoặc hai cái có tầm quan trọng căn bản mà thôi. Đó là bộ óc, là chất xám… - Anh vỗ vào trán – mà ta phải tính đến. Cảm giác thường bị nhầm. Sự thật biểu hiện ở trong chứ không phải ở ngoài chúng ta. Pooirot, liệu anh có thể nói rằng anh có thể khám phá ra một vụ mà không rời khỏi ghế ngồi không? Có chứ, đây đúng là điều tôi muốn nói. Tôi sẽ làm với điều kiện là người ta cho tôi biết rõ mọi sự kiện. Tôi coi mình là một nhà chuyên môn để người ta tra vấn. Japp xoa tay với một vẻ tinh anh. Tôi muốn bị treo cổ nếu không nhận lời anh, Poirot. Tôi đánh cuộc năm bảng Anh rằng anh không thể đặt tay, hoặc làm cho tôi đặt tay, vào ông Davenheim, dù còn sống hay đã chết, trong một tuần lễ, kể từ ngày hôm nay. Hừ… Một tuần lễ, anh nói như thế chứ? Phải, bảy ngày, bắt đầu từ chiều nay. Rõ, anh bạn, tôi nhận. Thể thao, đó là cái thú của các anh, những người Ăng-lê. Và bây giờ nếu anh muốn cung cấp cho tôi những sự kiện. Thứ bảy tuần trước, theo thói quen, ông Daveiheim từ Victoria, đi chuyến xe lửa mười hai gờ bốn mươi đến Chingside, nơi ông có ngôi nhà ở vùng Cèdres. Sau bữa ăn trưa, ông đi dạo và chỉ bảo công việc cho những người làm vườn. Mọi người đều nói ông ở trạng thái tuyệt đối bình thường. Sau khi dùng trà, ông mở cửa buồng của bà vợ nói là ông đi vào làng để bỏ một vài lá thư vào thùng thư bưu điện. Ông nói thêm là ông đang đợi một ông Lowen nào đó vì ông phải dẫn khách vào văn phòng và nói ông này đợi mình. Ông Davenheim đi ra bằng cửa lớn, bước chậm chạp trên lối đi chính rồi ra khỏi cổng và sau đó người ta không thấy ông đâu nữa. Từ lúc ấy, ông ta tan biến trong giới tự nhiên. Một bức tranh đẹp: vùng Cèdres… vườn… một trạm bưu điện trong làng… Sự bí mật được lồng trong một cái khung đáng mến – Poirot lẩm bẩm – Nhưng anh bạn hãy nói tiếp đi, tôi không muốn ngắt lời anh. Khoảng mười lăm phút sau, một người đàn ông cao lớn, tóc nâu,có ria mép đen, bấm chuông ở cửa lớn và nói rằng mình có cuộc hẹn với Davenheim. Người ấy xưng tên là Lowen, và theo lời dặn của ông chủ người ta dẫn khách vào văn phòng. Một tiếng đồng hồ trôi qua, ông Davenheim vẫn chưa về. Cuối cùng thì ông Lowen bấm chuông và nói rằng mình không thể chờ được nữa vì chuyến tàu trở về sắp chạy. Bà Davenheim xin lỗi về sự vắng mặt của chồng, điều mà bà rất khó giải thích vì trước khi đi chồng bà có nói là đang đợi một ông khách sắp tới. Ông Lowen nói về sự đáng tiếc của mình và ra đi. Thời gian trôi nhanh… Và mọi người không thấy Davenheim trở về nhà. Sáng sớm chủ nhật hôm sau người ta báo việc này cho cảnh sát, nhưng cảnh sát cũng không tìm ra ông ta. Hình như ông Davenheim đã bay đi mất. Người ta không thấy ông ấy đi vào làng, cũng không thấy ông ấy đến trạm bưu điện. Nhà ga cũng nói là không thấy ông ấy đi chuyến xe lửa nào. Ô tô vẫn nằm trong nhà để xe. Nếu ông ta thuê một chiếc xe ô tô để đi đến một nơi vắng vẻ nào đó thì người lái xe hẳn đã đến để báo tin những điều anh ta biết để nhận được số tiền thưởng đã hứa cho mọi tin tức. Nếu đúng là ông ta đã đi bộ đến Enfield cách đấy năm ki-lô-mét để đến nhà ga thì ông ta không thể không bị nhận ra trong đám đông. Ảnh của ông đã được in trên các báo với thông báo về tướng mạo đầy đủ, nhưng vẫn không có ai cho biết tin tức. Sáng ngày thứ hai có một sự khám phá giật gân: phía sau cánh cửa văn phòng ông Davenheim có một chiếc két sắt nhỏ. Chiếc két đó đã bị đục ra và bị lấy đi hết mọi thứ bên trong. Các cánh cửa sổ đều được gài phía bên trong, chi tiết đó loại trừ việc trộm cắp thông thường; ít nhất nếu không phải là một vụ thông đồng đã được một người tay trong gài cửa sổ lại, đúng là như vậy. Mặt khác, cần chú ý, hôm ấy là ngày nghỉ cuối tuần, trong nhà có thể có những náo động, nên việc mất trộm xảy ra vào hôm thứ bảy nhưng đến thứ hai mới được biết đến. Rõ – Poiroit đột ngột cắt ngang – Vậy cái người quấy rầy là ông Lowen đã bị bắt giữ rồi chứ? Chưa. Nhưng cảnh sát đã canh chừng ông này. Poirot ngẩng đầu hỏi bằng giọng thờ ơ: Người ta đã lấy gì ở trong két sắt? Anh có ý kiến gì không? Chúng tôi đã cùng một nhân vật chủ chốt thứ hai của hãng và bà Davenheim tìm hiểu việc này. Hình như đã mất một khoản tiền lớn gồm những séc vô danh, tiền mặt mới rút ra. Cũng có thể có cả một số đồ trang sức đắt tiền. Tất cả đồ nữ trang của bà Davenheim cũng để trong két ấy. Thời gian gần đây chồng bà rất thích mua sắm đồ trang sức. Cách đây một tháng ông ta đã cho vợ xem những viên đá quý có giá trị lớn. Tóm lại đây là một mẻ lưới lớn – Poirot suy nghĩ nói – Bây giờ thì cái ông Lowen ấy ra sao? Người ta đã biết chiều hôm ấy ông ta định bàn bạc công việc gì với Davenheim chưa? Hình như hai người ấy không thân thiết với nhau lắm. Lowen là một kẻ đầu cơ khét tiếng. Cần chú ý là ông ta đã có một đôi lần kình địch với Davenheim. Đã từ rất lâu hai người không nhìn mặt nhau nữa. Công việc kinh doanh ở Nam Mỹ đã khiến ông chủ ngân hàng ấy hẹn gặp gỡ người này. Davenheim có những lợi ích ở Nam Mỹ ư? Phải, tôi cho là như vậy. Bà Davenheim có cho tôi biết là mùa thu vừa qua chồng bà đi Buenos Aires. Cuộc sống gia đình của vợ chồng nhà ấy không có chuyện gì. Họ ăn ở với nhau ra sao? Chúng tôi cho rằng hai người sống yên ổn và không có chuyện gì. Bà Davenheim là một người dễ chịu và thông minh lắm. Tôi thấy cá nhân bà ta là không có nghĩa lý gì. Vậy đây không phải là chỗ cho ta tìm lời giải của bài toán. Ông ta có kẻ thù chứ? Ông ấy có nhiều đối thủ tài chính, và tất nhiên những người bị ông tước đoạt không muốn điều tốt cho ông ấy. Nhưng tôi không thấy có một người nào có thể thủ tiêu ông; và nếu thế thì xác chết ở đâu? Cái khó là ở đó! Như anh Hastings đã nói, những xác chết có thói quen tái hiện sau một thời gian dài tai hại. Về điều này thì một người làm vườn cho rằng mình đã nhìn thấy một người nào đó đã từ trong nhà đi ra vườn. Có một cửa văn phòng đi ra vườn và ông Davenheim thường ra vào qua lối này. Nhưng người làm vườn ở rất xa, đang bận làm giàn cho những cây dưa, nên anh ta không thể nói chắc chắn đó có phải là ông chủ của mình không. Và ông Davenheim đã rời khỏi nhà vào lúc… Khoảng năm giờ rưỡi chiều. Phía ngoài thửa vườn còn có gì nữa? Một cái hồ. Có mái che cho những con thuyền du ngoạn chứ? Phải, có hai chiếc thuyền đang neo ở đấy. Tôi giả thiết rằng anh đang nghĩ về một vụ tự sát, Poirot? Đây: xin báo tin cho anh rõ ngày mai Miller cho tát cạn hồ. Tôi không ngạc nhiên gì về việc làm của ông thanh tra ấy, ông ta sẽ cho vét bùn và soi những lá cây củ súng bằng kính lúp đấy. Poirot nở một nụ cười khó hiểu và quay sang phía tôi: Hasting, anh vui lòng đưa cho tôi tờ báo Daily Telegraph. Nếu tôi không nhầm thì trên báo có ảnh của người mất tích. Tôi đứng lên và đưa tờ báo cho Poirot. Anh chăm chú nghiên cứu bức hình. Hừ - Poirot lẩm bẩm - Tóc dài và lượn sóng, râu mép rậm, râu cằm nhọn… lông mày cũng rậm, mắt đen… Phải, phải, đúng thế. Râu, tóc đã đốm bạc rồi chứ? Nhà thám tử gật đầu khẳng định điều đó. Thế nào Poirot? Anh cho rằng việc này là đơn giản ư? Ngược lại. Rất phức tạp. Người nhân viên của Scotland Yard tỏ vẻ sung sướng: Nhưng nó cho tôi nhiều hy vọng giải quyết vấn đề – Poirot trầm tĩnh nói. Thế nào? Tất nhiên. Khi vụ án còn trong bóng tối, đó là một dấu hiệu tốt. Nếu vấn đề đã rõ như ban ngày thì anh hãy coi chừng, sẽ có một người bị một người khác đánh lừa. Japp thở dài nhẫn nhục: Một tuần lễ chứ, Poirot… Anh sẽ thông báo cho tôi mọi tin tức khám phá được, đặc biệt là những kết quả công việc của viên thanh tra cần mẫn của anh. Đồng ý. Đã thỏa thuận xong. Japp ra về. Này – Poirot nói khi chúng tôi còn lại hai người – Các anh muốn đùa cả Poirot đó phải không? Anh ấy giơ ngón tay lên dọa tôi. Các anh không tin chất xám của tôi sao? A, đừng có khó chịu và chúng ta hãy bàn bạc về vấn đề nhỏ này khi những dữ kiện của nó còn chưa đầy đủ. Tôi chấp nhận vì nó có đôi điểm thú vị. Cái hồ nước ư – Tôi nói bằng giọng tinh quái. Còn hơn cả cái hồ đó là cái mái che những con thuyền du ngoạn. Tôi liếc mắt nhìn Poirot: anh có nụ cười khó hiểu nhất. Tôi nghĩ rằng lúc này thật là vô ích nếu hỏi anh nhiều hơn nữa. Chúng tôi không có tin tức gì của Japp cho đến tối hôm sau khi anh ấy đến, vào lúc chín giờ. Nhìn mặt anh tôi biết ngay là anh có một vài tin quan trọng và thú vị. Thế nào, anh bạn có gì mới không? – Poirot hỏi – Chắc rằng anh sẽ nói là không thấy xác ông Davenheim ở dưới hồ. Tôi đã nói trước với anh là tôi không tin có chuyện ấy. Chúng tôi không tìm thấy xác nhưng lại tìm thấy quần áo của ông ấy! Quần ào mà ông ta mặc trong cái ngày ông ấy biến mất ấy. Anh nói xem, thế là thế nào, Poirot. Bây giờ thì tôi không nói gì cả. Anh cho biết đây có phải là quần áo lấy trong nhà ra không? Tuyệt đối là không. Người hầu của ông ta có thể xác nhận: quần áo trong tủ vẫn đủ bộ, nguyên vẹn. Chúng tôi đã cho bắt giam Lowen. Một trong những cô hầu trong nhà khai rằng khi cô ta đang đóng cửa sổ trong nhà thì thấy ông khách từ ngoài vườn đi vào. Lúc ấy là mười giờ mười lăm phút, mười phút trước khi ông khách ra về. Và ông Lowen đã trả lời sao? Đầu tiên ông ta chối cãi rằng mình không hề rời khỏi văn phòng. Nhưng khi cô hầu khẳng định điều đó thì ông ta khai rằng mình đã quên không nói là ông đã ra khỏi cửa để xem một bông hoa hồng lạ. Chứng cứ hơi yếu! Lại còn một chuyện nữa: ông Davenheim thường đeo ở ngón tay út phút một chiếc nhẫn vàng có mặt kim cương. Chiếc nhẫn đó đã được mang tới một cửa hàng cầm đồ ở Londres đêm hôm thứ bảy. Người mang nhẫn đi cầm tên là Billy Kellett: một tên trộm cắp vặt, đã bị đi tù ba tháng vào mùa thu năm ngoái vì đã ăn cắp một chiếc đồng hồ quả quít vàng của một cụ già. Hắn đã mang chiếc nhẫn đi gạ bán ở ít nhất là năm cửa hàng trước đó. Được tiền hắn đi uống rượu say túy lúy ở nhiều quán hàng khác nhau, rồi cãi nhau với một người khuân vác trên tàu và người này đã mang hắn đến đồn cảnh sát. Tôi và Miller đã đến nhà giam ở Bowstreet. Hắn đã tỉnh rượu và chúng tôi gần như chết đứng khi nghĩ rằng hắn lại có thể bị truy tố vì tội giết người. Đây là câu chuyện của hắn. Hãy chú ý nghe, anh Poirot, nó khá kỳ cục: “Hôm thứ bảy, Kellett đến vùng Enfield để rình cuỗm một chiếc ví tiền hơn là ăn cắp một con ngựa. Hôm ấy thật đen đủi, hắn không có chút hy vọng nào. Tới con đường Chingside hắn ngồi vào một chiếc hố để nghỉ ngơi trước khi vào trong làng. Một vài phút sau hắn thấy một người đi vào làng. Một nhà quý tộc, da sạm ria mép rậm. Phải thấy là hắn sốt ruột như thế nào, không phải là một lão trọc phú nông thôn… không, không… Đây là một Rockerfeller. Hắn đã thấy hiện lên chiếc xe Rolls – Royce và hắn ngửi thấy mùi trứng cá muối từ xa hai mươi mét… “Kellett giấu nửa người xuống đống cát, sỏi. Khi đi qua hắn, ông kia cảnh giác nhìn xung quanh (lúc này đường vắng người), sau đó lấy trong túi ra một vật nhỏ và ném nó qua bụi cây. Xong việc, ông ta đi ra phía nhà ga. Vật bị ném đi rơi vào đống sỏi với một tiếng vang nhỏ thúc đẩy tính tò mò của người ngồi dưới hố. Hắn đã quì trên cỏ để tìm và cuối cùng hắn thấy chiếc nhẫn ấy. Đây là lời khai của Kellett mà tôi thuật lại đúng từng lời một. Theo tôi, hắn đã gặp Davenheim trên đường và giết ông ta để cướp của”. Poirot lắc đầu: Không thể như vậy được, anh bạn. Hắn không có cách nào để thủ tiêu xác chết, người ta sẽ tìm ra. Thứ hai, cái cách mà hắn công khai đi bán chiếc nhẫn là khác thường, tỏ ra là mình đã phạm tội giết người. Thứ ba, loại ăn cắp vặt ấy thường không phải là kẻ sát nhân. Thứ tư: vì hắn đã bị bắt giam hôm thứ bảy thì có một sự trùng hợp để hắn có thể mô tả đúng Lowen. Japp ra hiệu tán thành ý kiến ấy: Tôi không nói rằng anh không có lý. Nhưng anh cũng biết là các quan tòa sẽ chú ý đến lời làm chứng của một tên trộm vặt. Cái làm tôi lạ lùng là Lowen lại không tìm một cách khôn ngoan hơn để vứt bỏ chiếc nhẫn. Poirot nhún vai. Nhưng tại sao hắn lại thủ tiêu xác chết? – Tôi kêu lên. Chắc có lý do gì đó – Japp nói – Anh có biết là phía sau hồ có một cánh cổng đi ra một quả đồi và từ đấy chỉ đi mất ba phút người ta gặp một hố tôi vôi lớn. Trời! – Tôi kêu lên – Anh cho rằng vôi tôi có thể làm tiêu tan xác người, có thể ăn mòn được cả chiếc nhẫn ư? Đúng là như vậy. Cái đó làm đảo lộn tất cả, tôi cho là như thế. Một tội ác kinh khủng. Cùng một nhịp, cả hai chúng tôi quay lại nhìn Poirot. Anh thở dài nhìn Japp và hỏi: Anh bạn, anh có biết ông bà Davenheim ngủ chung một phòng hay ngủ ở hai phòng khác nhau? Câu hỏi hình như rất nực cười, lạc đề, khiến tôi và Japp nhìn nhau một lúc mà không nói gì. Sau đó Japp cười lớn: Khỉ gió cái anh Poirot này! Tôi trông mong ở anh một cái gì lỗi lạc kia. Tôi không thể trả lời câu hỏi của anh vì lý do tuyệt diệu là tôi không biết. Anh không thể tìm kiếm được ư? Ồ không phải, chắc chắn là tôi biết nếu nó rất cần cho anh. Cảm ơn, anh bạn. Tôi sẽ mang ơn anh nếu anh cung cấp cho tôi cái tin ấy càng nhanh càng tốt. Japp nhận lời với vẻ ngạc nhiên, nhưng hình như Poirot quên hẳn sự có mặt của chúng tôi. Viên cảnh sát buồn bã lắc đầu, nhìn tôi rồi thì thào: “Ông già khốn khổ! Chiến tranh đã giáng xuống ông ấy một đòn nặng nề!”. Sau đó anh ta ra về. Vì hình như Poirot đang đi sâu vào trong giấc mộng, tôi lấy ra một tờ giấy và tôi ghi lên đó những điều cần chú ý về vụ này. Tiếng nói của bạn tôi làm tôi giật mình. Anh đã ra khỏi cơn mộng mị và trở nên tươi tỉnh và nhanh nhẹn. Anh đang làm gì đấy, Hasting? Tôi đang ghi lại những điều thú vị trong chuyện này. Đấy, anh trở nên một người làm việc theo phương pháp khoa học rồi – Poirot nói với vẻ đồng tình. Tôi cố gắng che giấu sự hài lòng của mình. Anh có muốn tôi đọc cho anh nghe không? Đọc đi… Tôi hắng giọng: Thứ nhât: Dù thế nào đi nữa thì cũng chính Lowen là kẻ đã phá chiếc két sắt. Thứ hai: Hắn muốn thủ tiêu Davenheim. Thứ ba: Hắn đã dối trá khi nói là mình không hề rời khỏi văn phòng. Thứ tư: Nếu công nhận lời khai của Billy Kellett là đúng thì Lowen phải bị tố cáo. Tôi dừng lời và hỏi: thế nào? Vì tôi cảm thấy mình đã nắm chắc trong tay những sự kiện chủ yếu. Poirot nhìn tôi với vẻ thương hại và lắc đầu: Bạn thân mến! Anh chưa quen việc. Anh không nhận ra cái chi tiết quan trọng nhất. Và lập luận của anh cũng bị đổ nhào nữa. Tại sao? Để tôi nói lại bốn điểm cơ sở này. Trước hết Lowen không thể biết trước được là hắn có thời cơ mở cái két sắt hay không. Hắn tới vì công việc kinh doanh. Hắn không dự đoán được là Davenheim sẽ đi gửi lá thư và để hắn ngồi một mình trong văn phòng. Ông ta có thể lợi dụng cơ hội chứ – Tôi gợi ý. Nhưng còn những dụng cụ? Một người thành thị không mang theo trong mình những đồ vật của một tên ăn trộm để chờ một dịp may bất ngờ. Chiếc két sắt không thể bị mở bằng một lưỡi dao nhỏ. Đúng. Còn điểm thứ hai sao? Anh nói rằng Lowen muốn thủ tiêu Davenheim. Anh muốn nói hắn đã một hoặc hai lần mâu thuẫn với ông này. Chắc chắn đây là vấn đề lợi lộc. Thông thường thì người ta không làm hại người mà người ta bòn rút được tiền bạc. Mà trái lại. Nếu có vấn đề trả oán thì cái đó thuộc về Davenheim. Anh không chối cãi rằng chính Lowen đã nói rằng mình không hề rời khỏi văn phòng chứ? Không, nhưng có thể do hắn đã sợ hãi. Anh hãy nhớ: quần áo của người biến mất được tìm thấy ở dưới hồ. Tất nhiên thì cuối cùng hắn đã nói đúng sự thật. Và điểm thứ tư? Đây là theo ý anh: nếu câu chuyện của Kellett là đúng thì Lowen phải bị tố cáo. Điều đó làm cho vụ này trở nên thú vị đấy! Như vậy tôi có tìm ra được điểm nào là chủ yếu không? Có thể, nhưng anh đã quên mất cái điều rất quan trong: cái chìa khóa của toàn bộ vụ án là ở đâu? Theo anh thì cái đó là gì? Thứ nhất: tính ham mê chơi đồ trang sức của Davenheim gần đây. Thứ hai: chuyến đi Buenos Aires của ông ta mùa thu năm trước. Poirot, anh chế giễu tôi đấy ư? Ngược lại, tôi rất nghiêm chỉnh. A! Miễn là Japp không quên cung cấp cho tôi cái tin ấy! Nhưng vào mười một giờ sáng hôm sau nhà thám tử đã hài lòng nhận được nó. Người ta mang tới cho Poirot một bức điện tín. Theo yêu cầu của anh, tôi mở ra và đọc: “Người chồng và người vợ ngủ ở hai căn phòng khác nhau từ mùa đông năm trước”. A! A! – Poirot kêu lên – Bây giờ đang giữa tháng sáu. Bài toán đã được giải. Tôi ngạc nhiên nhìn anh. Anh bạn, anh có tiền tửi ở Ngân hàng Davenheim và Salomon không? – Poirot hỏi tôi. Không – Tôi ngỡ ngàng hỏi lại anh – Tại sao? Vì rằng tôi sẽ khuyên anh rút ngay ra trước khi quá muộn. Tại sao? Anh chờ đợi điều gì? Tôi dự đoán một sự sụp đổ ghê gớm trong một vài ngày nữa, có thể là sớm hơn. Tôi nghĩ rằng chúng ta phải lịch sự gửi cho Japp một bức điện. Làm ơn đưa cho tôi cái bút chì. Đây: “Khuyên anh rút nhanh số tiền đã gửi vào ngân hàng của Davenheim”. Cái này sẽ làm cho Japp tốt bụng băn khoăn đây! Anh ta sẽ trố mắt lên. Anh ta sẽ không hiểu gì cả cho đến ngày mai hoặc ngày kia. Tôi hoài nghi nhưng hai ngày sau tôi buộc phải công bằng mà nhận ra khả năng phán đoán kỳ diệu của bạn tôi. Trên tất cả các báo đều đưa tin với đầu đề in chữ to sự sụp đổ chấn động của Ngân hàng Davenheim và Salomon. Sự mất tích của người chủ ngân hàng đã tạo ra ánh sáng cho sự phát giác mọi việc làm gian dối của ngân hàng này. Khi chúng tôi đang dùng bữa sáng thì cánh cửa đột ngột mở ra và Japp lao vào như một cơn lốc. Tay trái cầm tờ báo, tay kia cầm bức điện của Poirot, anh ta ngồi phịch xuống ghế trước mặt bạn tôi. Sao anh biết trước được, Poirot? Anh là phù thủy hay là gì? Poirot trầm tĩnh cười: A! Anh bạn, sau bức điện của anh, tôi đã tin chắc. Ngay từ đầu việc chiếc két sắt bị nạy tung tôi đã thấy là một điều lạ lùng. Đồ trang sức, séc vô danh, giấy bạc, tất cả những cái đó đều tiện lợi… rất tiện lợi. Điều có thể thấy ngay được là mọi việc đều đã được chuẩn bị từ trước. Còn cái cách mua đồ trang sức của hắn cũng rất đơn giản. Của cải xoay xở được hắn chuyển sang đồ trang sức, hắn thay thế vào đó, bằng những giấy tờ giả. Chắc chắn là như vậy. Thế rồi hắn gửi vào một nơi chắc chắn dưới một cái tên giả một tài sản lớn để sau này hưởng thụ. Khi người ta đã trả lại tự do cho hắn. Chuẩn bị mọi việc xong xuôi, hắn hẹn gặp Lowen (chắc chắn hắn đã quên việc đã một hai lần va chạm với ông này), hắn khoét một lỗ trên két sắt, ra lệnh cho người nhà dẫn ông này vào văn phòng rồi ra đi. Đi đâu? – Poirot ngừng nói, giơ tay lấy một quả trứng luộc nửa chín. Anh ta chau mày: - Thật là không thể tưởng tượng được. Những con gà mái đẻ ra những quả trứng to nhỏ khác nhau. Như vậy sự cân đối trên bàn ăn sẽ như thế nào? Ít nhất thì nhà hàng phải có sự phân loại trước chứ! Mặc kệ những quả trứng – Japp sốt ruột nói – Những con gà mái đẻ ra những quả trứng vuông cũng dược! Anh cho chúng tôi biết lão ta rời Cèdres để đi đâu? Đây là điều ít nhất, nếu anh biết… Đúng, tôi biết cái đó. Hắn đến thẳng nơi ẩn nấp. A! Cái lão Davenheim này! Có thể là hắn có một vài tật xấu trong xà lim màu xám ấy, nhưng hắn thuộc loại thượng thặng đấy, người ta cần biết rõ cái đó. Lão ta núp ở đâu? – Japp kêu lên. Trong một chỗ rất thông minh. Vì tình yêu của Thượng đế, Poirot, ở chỗ nào, anh nói đi! Nhà thám tử cẩn thận chất những mảnh vỏ trứng vụn vào một chiếc bát và đặt vỏ trứng lên trên. Sau khi làm xong công việc tỉ mẩn ấy anh cười một cách hài lòng. Anh quay về phía chúng tôi, vẻ mặt rạng rỡ: Này, các anh, các anh là những người trí thức, các anh hãy trả lời câu hỏi mà tôi đã đặt ra cho mình: “Nếu ta ở vào vị trí của con người ấy, ta sẽ trốn ở đâu?” – Hasting, anh trả lời đi. Tôi cho rằng tôi chằng phải nấp ở đâu cả. Tôi ở lại Londres ở ngay trung tâm thành phố. Tôi sẽ đi xe buýt, đi tàu điện ngầm như mọi người khác. Có đến chín phần mười may mắn là tôi sẽ không bị nhận ra. Không có cách nào chắc chắn hơn là sống giữa đám đông. Poirot quay sang nhìn Japp với cặp mắt dò hỏi. Tôi không tán thành ý kiến ấy. Đi xa ngay lập tức, đó là sự may mắn độc nhất. Tôi có nhiều thời gian chuẩn bị từ trước cho cuộc chạy trốn đó. Tôi sẽ lên một chiếc thuyền buồm đã chờ sẵn ở bờ biển nước Anh và đến một góc hẻo lánh của thế giới trước khi lệnh truy nã được phát ra. Chúng tôi nhìn Poirot. Còn anh? Anh sẽ làm gì? Anh ấy nhìn chúng tôi một lúc. Một nụ cười khác thường nở trên môi. Các ban, nếu tôi phải ẩn nấp vào cơ quan cảnh sát thì các bạn bảo tôi phải nấp ở đâu? Ở nhà tù! Thế… Thế nào? Các anh tìm Davenheim để ném hắn vào trại giam, nhưng các anh đã không nhìn xem hắn đã ngồi trong ấy chưa. Anh nói rằng bà Davenheim là một phụ nữ không thông minh lắm. Bây giờ các anh dẫn bà ta đến nhà tù Bowstreet, cho bà ta gặp một người có tên là Billy râu ria, tóc rối bù và mặc quần áo nghèo khổ. Một người đàn bà bao giờ cũng nhận ra ngay chồng mình dù những người khác lầm lẫn về hắn. Billy Kellett ư? Anh điên rồi, Poirot! Anh đã chẳng nói với tôi rằng Kellett đã bị tống giam rồi đó sao? Anh đã chẳng nói với tôi rằng Davenheim là một người đặc biệt thông minh đó sao? Hắn đã chuẩn bị cho sự vô can của hắn từ lâu. Hắn không ở Buenos Aires trong mùa thu năm ngoái, lúc ấy hắn còn bận sắm vai Billy Kellett, làm cho mình phải ở tù ba tháng mà cảnh sát không hề nghi ngờ gì cả. Hắn dự vào một trò chơi lớn: một tài sản khổng lồ sẽ xuất hiện cùng với lúc hắn được trả tự do. Cái đó còn cao giá hơn nhiều so với sự cực khổ trong thời gian ở tù. Chỉ cần… Sao? Đây, sau đó hắn bỏ bộ râu giả và mớ tóc giả, hắn có thể trở lại nguyên hình của mình, các anh xem. Và đi ngủ với bộ râu giả thì không dễ dàng gì, người ta có thể biết. Hắn sẽ chỉ rủi ro nếu ngủ chung cùng phòng với vợ. Anh đã cho tôi biết sáu tháng nay, hoặc ít nhất từ ngày hắn nói là hắn ở Buesnos Aires về, hắn và bà Davenheim ngủ ở hai phòng khác nhau. Thế là tôi không nghi ngờ gì nữa. Tất cả đã rõ ràng. Người làm vườn có lý khi anh ta nói đã gặp người chủ của mình, Davenheim đã tới chỗ mái che thuyền buồm. Mặc bộ quần áo “đi đường” vào. Anh chắc chắn hiểu đây là việc che giấu những người giúp việc. Hắn ném quần áo cũ xuống hồ và đi bán chiếc nhẫn một cách công khai, sau đó hắn gây chuyện đánh nhau với một người phu khuân vác ở giữa đám đông để rồi bị giam trong nhà tù Bowstreet, nơi mà mọi người không hề có ý định lục soát tới. Thật là không thể tưởng tượng nổi! – Japp lẩm bẩm. Đi bảo vợ hắn ta làm công việc ấy đi – Bạn tôi cười nói. Hôm sau một chiếc phong bì gửi theo lối bảo đảm được đặt dưới đĩa ăn của Poirot. Anh mở phong bì và một tờ giấy bạc năm bảng Anh rơi ra. Bạn tôi nhíu cặp lông mày lại: A! Trời đất! Tôi đã làm gì thế này! Anh chàng Japp khốn khổ – A! Tôi có một ý kiến! Chúng ta sẽ tổ chức một bữa ăn trưa thịnh soạn cho cả ba người. Cái đó sẽ an ủi tôi. Vụ này tìm ra rất dễ dàng. Tôi thẹn vì đã được cuộc như thế. Đúng là giật một cái kẹo từ miệng một đứa trẻ con không có cách nào để tự vệ cả. Hastings, anh có bao giờ làm như vậy không?