NHỮNG CUỘC ĐIỀU TRA CỦA THÁM TỬ POIROT
LƯU VÂN dịch
CĂN HỘ RẺ TIỀN

     hông thường, như tôi ghi nhớ các cuộc điều tra của ông Poirot dù là án mạng hay là một vụ trộm cướp đều bắt đầu từ trung tâm của sự việc, rồi từ đó suy luận theo một trình tự rất logic và đạt được thắng lợi cuối cùng là lần ra manh mối.
Những sự kiện tầm thường xảy ra được đưa lên bản tin thời sự thường không cho tôi một đầu mối nào đáng kể, nhưng lại gây cho ông Poirot rất nhiều chú ý, và điều đó có thể giúp ông tìm thấy điều gì đó bất thường để tìm ra kết luận..
Một buổi chiều tôi đến nhà một người bạn cũ, ông Gerald Parker, ở đó còn có chừng sáu người khác nữa. Sau những câu chuyện tào lao thì ông Parker hướng đề tài sang vấn đề tìm nhà ở Lon- don. Nói về nhà ở và căn hộ là một sở thích đặc biệt của Parker. Từ khi chiến tranh kết thúc, ông ta cũng từng sở hữu gần cả chục căn hộ và nhà ở khác nhau. Ở chỗ này chưa bao lâu thì tự nhiên ông ta muốn tìm kiếm một chỗ khác và ngay lập tức, ông ta lại dời chỗ. Và gần như những lần chuyển nhà như vậy ông ta đều thu lợi, ông ta vốn là trùm sò những thương vụ khôn khéo nhất.
Tuy nhiên, việc thay đổi chỗ ở đối với ông ta là một đam mê giống như người ta mê thể thao, chứ không phải là mục đích kiếm lời. Nghe ông Parker nói cách thức tập tành công việc của ông ta chúng tôi hết sức thán phục. Rồi cuộc trò chuyện dắt chúng tôi theo một chiều hướng không rõ ràng gì hết. Cuối cùng là tiếng nói của bà Robinson, một phụ nữ cao ráo, duyên dáng có mặt ở đó cùng với chồng, họ vừa kết hôn gần đây. Trước kia, tôi chưa lần nào gặp hai người này vì Robinson cũng mới quen biết ông Parker.
- Ông có nghe gì về sự may mắn của chúng tôi không, ông Parker? - bà Robinson nói - Cuối cùng chúng tôi cũng kiếm được một cái ở Montagu.
- Hay lắm - ông Parker đáp - Tôi luôn luôn cho rằng có những căn hộ thật tuyệt vời cho thuê một giá nhất định.
- Vâng, nhưng căn hộ này rẻ kinh khủng. Tám mươi bảng Anh một năm thôi.
- Nhưng, có đúng là tòa Montagu Mansions ở cuối phố Knightsbridge không? Tòa nhà đó vô cùng tuyệt. Tôi chắc là bà đang nói về một nơi nào có cái tên giống như vậy thôi, phải không?
- Không. Chính ở Knightsbridge. Một sự kỳ diệu đấy.
- Kỳ diệu cũng chỉ là một từ ngữ mà thôi! Nó là sự kỳ diệu mờ ám. Tôi cho rằng tiền bảo hiểm phải lớn lắm?
- Không phải đóng gì cả.
- Không à, lạ nhỉ. Các bạn ơi, tôi có nghe nhầm không đấy? - Ông Parker lẩm bẩm.
- Nhưng chúng tôi phải mua đồ đạc trang trí trong nhà. Bà Robinson tiếp.
- À! - Ông Parker vội kêu lên - Biết ngay là có bẫy trong vụ này mà.
- Đồ trang trí mất mươi bảng, nhưng thật là tuyệt mỹ.
- Xin ghi nhận - Ông Parker nói - Vậy thì chủ nhân ở đấy là kẻ mất trí có thứ thị hiếu nhân từ.
Bà Robinson có vẻ khó chịu. Bà ta cau mày:
- Ông cho là kỳ quái à? Ông không nghĩ đó là nhà ma chứ?
- Tôi chưa bao giờ nghe tới các căn hộ có ma cả. - Ông Parker cả quyết tuyên bố.
- Không à? - Bà Robinsort có vẻ không tin điều đó - Thế mà đã có rất nhiều việc quái gở đấy!
- Cụ thể thế nào? Tôi hỏi.
- À. - Ông Parker kêu lên - Bà hãy nói cho anh ấy biết đi, bà Robinson. Anh Hastings là người có nhiều khả năng lần mò để khám phá mọi điều bí mật.
Tôi cười lớn, hết sức bối rối nhưng không hoàn toàn bực bội vì mình là cái đích nhắm của mọi người.
- Ô, không hoàn toàn kỳ quái đâu, đại úy Hastings ạ, nhưng khi chúng tôi đi với nhân viên quản lý nhà, ông Stosser và ông Paul, chúng tôi cũng không dám hy vọng vì chỗ họ toàn những căn hộ đắt tiền ở Mayfair, dù vậy chúng tôi vẫn nghĩ biết đâu có chỗ nào đó giá mềm hơn. Căn nào họ cũng báo giá thuê từ bốn đến năm trăm bảng một năm kèm thêm khoản tiền bảo hiểm phải nộp rất cao, và khi chúng tôi định bỏ đi thì họ bỗng nhiên cho biết có căn hộ với giá tám mươi bảng một năm, nhưng rồi họ lại tỏ vẻ ngần ngại không muốn chúng tôi đến xem vì theo sổ sách ghi lại thì họ đã giới thiệu cho rất nhiều người, có khi đã có người thuê rồi. Họ sợ chúng tôi bực bội.
Bà Robinson ngừng lại để thở rồi tiếp:
- Chúng tôi cám ơn ông ta và nói rằng chúng tôi muốn xem thử cho biết dù nó có thể không tốt lắm. Thế rồi chúng tôi đến thẳng đó bằng taxi. Ông biết không, đó là căn hộ số Bốn trên tầng Hai. Đúng lúc đang chờ thang máy thì tôi thấy chị Elsie Ferguson, một người bạn của tôi cũng đến tìm thuê nhà, đang hốt hoảng chạy xuống cầu thang như bị ma đuổi. Chị ấy bảo cứ lên mà chọn một căn đi. Nhưng chẳng tốt đẹp gì nên họ mới để cho thuê đấy. Có vẻ đó là lời khuyên chúng tôi nên bỏ ý định lên xem nhà, nhưng John nói, ở đây giá thì rẻ, phù hợp với khả năng của chúng tôi hơn cũng như có thể dễ dàng kỳ kèo về khoản tiền bảo hiểm, vốn là khoản mà chúng tôi sợ nhất. Ông ạ, tôi thật ngượng khi nói với ông điều đó, nhưng chắc ông cũng biết nỗi khổ thuê nhà...
Tôi quả quyết bảo bà ta rằng tôi cũng đủ nhận thức được trong cuộc đánh- vật-để có một chỗ ở thì cái giá thấp vẫn luôn là một khuynh hướng tự nhiên của con người.
- Thế là chúng tôi đi lên lầu, ông biết không, căn hộ này chưa có người thuê. Một người giúp việc đã cho chúng tôi biết điều đó, rồi chúng tôi đến gặp bà chủ nhà và mọi điều kiện đã được thỏa thuận. Chúng tôi được sở hữu ngay lập tức với năm mươi bảng cho khoản đồ dùng trong nhà. Chúng tôi ký hợp đồng thuê nhà ngày hôm sau và dọn đến ở.
Bà Robinson tự nhiên ngừng nói. Parker hỏi thêm:
- Thế còn bà Ferguson thì sao? Ông có sự suy luận như thế nào, ông Hastings?
- Hiển nhiên rồi, ông bạn thân mến của tôi ạ. - Tôi nhấn mạnh - Bà ấy đến nhầm căn hộ khác.
- Ồ, đại úy Hastings, sao ông thông minh thế! - Bà Robinson kêu lên một cách thán phục.
Tôi bỗng ước gì có ông bạn Poirot của tôi trong lúc này. Đôi khi tôi có cảm giác rằng ông ấy thường đánh giá thấp về khả năng của tôi.
Toàn bộ câu chuyện này khá buồn cười và tôi đem nó thách thức ông Poirot vào buổi sáng hôm sau. Ông có vẻ thú vị và hỏi tôi khá kỹ về các loại giá tiền thuê nhà ở nhiều vùng.
- Một câu chuyện khá lạ kỳ. - Ông ấy nói đầy vẻ nghĩ ngợi - Xin lỗi anh, Hastings, tôi phải ra ngoài đi dạo một lúc.
Chừng một giờ sau, ông Poirot trở vào. Đôi mắt ông ấy có vẻ phấn khích khác thường. Ông Poirot đặt cây gậy của mình lên bàn, phủi tuyết bám trên mũ bằng động tác hết sức cẩn thận thường có trước khi nói:
- Hay lắm anh bạn ạ, đang là lúc chúng ta không có việc gì để làm cả. Chúng ta có thể dành hết tâm trí cho cuộc điều tra này.
- Ông muốn nói tới cuộc điều tra nào vậy?
- Cái căn hộ mới thuê với giá rẻ bất ngờ của bạn anh, bà Robinson đấy.
- Ông Poirot, ông nói đùa đấy chứ?
- Tôi nói nghiêm túc. Này anh bạn của tôi, anh thử hình dung xem, những căn hộ như thế phải có giá cho thuê đúng ra là ba trăm năm mươi bảng. Tôi mới vừa dọ hỏi một cách chính xác tại văn phòng giới thiệu nhà cho thuê. Chưa nói tới việc nếu căn hộ đặc biệt này được cho thuê lại phải trả thêm tám mươi bảng nữa! Tại sao vậy?
- Chắc phải có điều gì đó không hay lắm trong vụ này. Có lẽ nhà đó có ma như bà Robinson cũng đã nghi ngờ như thế.
Ông Poirot lắc đầu tỏ ý không đồng tình.
- Điều lạ lùng hơn nữa đó là bạn bà ta bảo rằng căn hộ đó cho thuê mà khi bà ta lên xem thì lại thấy là không phải vậy.
- Nhưng biết đâu người đàn bà kia đã đến nhầm một căn hộ khác. Đó là điều giải thích duy nhất.
- Anh có thể đúng mà cũng có thể không đúng về điểm này, Hastings ạ. Sự kiện này vẫn còn có đối với những người khác đã đến xem căn hộ ấy, chưa nói đến việc cái giá cho thuê rẻ đến bất ngờ, vậy mà nó vẫn chưa có ai thuê cho đến khi bà Robinson tới là sao?
- Điều đó cho thấy rằng có vấn đề khó hiểu.
- Bà Robinson có lẽ không chú ý đến một điều gì đó không hay lắm. Rất là kỳ lạ, phải vậy không nào? Bà ta có gây cho anh chút ấn tượng nào về một người đàn bà thành thật không, Hastings?
- Bà ta có phong cách khá thú vị.
- Và từ hồi nào mà bà ta làm anh không còn đủ sức để trả lời các câu hỏi của tôi vậy? Được rồi, hãy tả bà ta cho tôi nghe xem nào.
- Vâng, bà ta khá cao và dịu dàng, tóc nâu vàng rất đẹp...
- Anh thì luôn luôn có thiện cảm đối với những mái tóc nâu vàng mà! Ông Poirot lẩm bẩm - Nào, nói tiếp đi.
- Mắt xanh và nước da đẹp một cách hoàn hảo, và... mà thôi, chỉ có vậy. - Tôi kết luận một cách không ra sao cả.
- Còn ông chồng của bà ta?
- Ồ, ông ta đúng là một ông bạn tốt... không có gì đặc biệt.
- Hắc ám hay dễ chịu?
- Tôi không biết nữa... nửa nọ nửa kia, và đúng hơn chỉ là một gương mặt bình thường.
Ông Poirot khẽ gật gù.
- Phải rồi, có hàng trăm người trong số những hạng người trung bình như vậy... và nói một cách khác là anh dễ đồng cảm và dễ diễn tả về phụ nữ mà thôi. Anh còn biết gì về những người ấy không? Ông Parker có biết rõ họ không?
- Tôi cho rằng họ cũng vừa mới quen biết nhau mà thôi. Nhưng chắc chắn là, ông Poirot, ông đừng nghĩ gì về sự đột ngột đó...
Ông Poirot vội xua tay và kêu lên bằng tiếng Pháp:
- Này bạn ơi, tất cả chỉ là nhạc êm dịu thôi mà! Tôi có nói điều gì tôi đã nghĩ đâu? Mọi sự tôi nói chỉ là... là một chuyện lạ lùng thôi. Và không thấy có chút ánh sáng nào soi rọi lên câu chuyện này, ngoại trừ có lẽ đó là tên của người đàn bà này, phải vậy không, Hastings nhỉ.
- Tên của bà ta là Stella - Tôi bướng bỉnh nói - Nhưng tôi không biết...
Ông Poirot cắt lời tôi bằng một tràng cười thật lớn. Có điều gì đó đã làm ông ta thấy tức cười:
- Và Stella có nghĩa là một ngôi sao, phải không nào? Rất nổi tiếng!
- Trên hành tinh nào vậy...
- Và những ngôi sao tỏa sáng! Chà chà! Bình tĩnh lại đi, Hastings. Đừng đặt cho nó một cái vẻ là sự thực bị tổn thương. Đi, chúng ta sẽ đến Montagu Mansions để làm một cuộc thẩm tra nhỏ.
Tôi không hề miễn cưỡng đi theo ông Poirot. Đó là một lô nhà rất đẹp, mới được sửa sang một cách hoàn hảo. Người gác cổng mặc đồng phục đang đứng sưởi nắng chỗ ngưỡng cửa. Ông Poirot đi tới và hỏi thăm.
- Xin lỗi, anh có thể cho biết ông bà Robinson có cư ngụ ở đây không?
Người gác cổng có vẻ là một người ít nói, khó tính và đa nghi. Ông ta nhìn chúng tôi rất kỹ, càu nhàu trả lời:
- Số Bốn. Tầng Hai.
- Cám ơn ông. Ông có thể cho tôi biết là họ đã ở đây từ hồi nào không?
- Sáu tháng nay.
Tôi hoàn toàn kinh ngạc và tôi cũng nhìn thấy nét mặt ông Poirot nhăn lại đầy hoài nghi.
- Không thể nào như thế được - Tôi kêu lên - Ông có nhầm không đấy?
- Sáu tháng.
- Ông chắc vậy chứ? Người phụ nữ mà tôi muốn nói là một người cao dong dỏng và rất quý phái với mái tóc nâu vàng, và...
- Đúng vậy - Người gác cổng nói - Họ đến ở đây vảo tuần lễ Thánh Michael. Đúng sáu tháng nay rồi.
Lời nói của ông ta làm chúng tôi mất hết cả hứng thú, và ông ta bỏ đi vào tiền sảnh. Tôi theo ông Poirot trở ra ngoài.
- Được lắm, Hastings? - Ông bạn tôi nói một cách châm biếm - Bây giờ anh có còn tin những người đàn bà mỹ miều đều nói thực không?
Tôi làm thinh, không trả lời..
Ông Poirot hướng bước về phía Đại lộ Brompton trước khi tôi hỏi ông ta định làm gì và chúng tôi sẽ đi đến nơi nào.
- Đến chỗ người giới thiệu nhà, Hastings ạ. Tôi có nhu cầu cần thuê một căn hộ ở Montagu Man-sions. Nếu tôi không nhầm, sẽ có nhiều điều thú vị sẽ xảy ra ở đó nay mai.
Chúng tôi đã gặp may khi đưa ra nhu cầu đó. Đó là căn hộ số 8 trên tầng Bốn, được cho thuê trọn gói vói giá mười ghi-nê một tuần. Ông Poirot có ỷ thuê căn hộ này một tháng. Trở ra phố, ông ta làm tôi rất bất ngờ.
- Giờ đây tôi phải kiếm tiền! Tại sao tôi sẽ không theo đuổi cái ý nghĩ chợt nảy ra đó nhỉ? Thế này nhé, Hastings, anh có súng ngắn không?
- Có... tôi luôn mang theo người dù đi bất cứ chỗ nào - Tôi trả lời mà lòng vô cùng hồi hộp - Ông nghĩ là...
- Anh muốn hỏi "để làm gì" phải không? Rất có thể cần đến nó đấy. Ý tưởng đó sẽ làm anh vui, anh hiểu chứ? Mọi sự ngoạn mục và lãng mạn luôn luôn hấp dẫn được anh mà.
Ngay sau đó chúng tôi xuất hiện trong căn nhà mới thuê của mình. Căn hộ được trang bị không chê vào đâu được! Nó cũng ở cùng một phía trong tòa nhà như của bà Robinson nhưng cao hơn hai tầng lầu.
Sau một ngày khi chúng tôi có mặt ở nơi này là ngày chủ nhật. Trưa đó, ông Poirot rời khỏi chỗ cửa trước đang mở hé rồi hối hả gọi tôi khi có tiếng đóng sập cửa dội lại từ đâu đó ở tầng dưới.
- Nhìn xuống ban-công xem. Họ có phải là bạn anh không? Nhưng đừng để họ nhìn thấy anh nhé.
- Đúng là họ - Tôi lắp bắp, thì thào xác nhặn.
- Tốt lắm. Hãy đợi một lúc nữa.
Chừng nửa giờ sau, một người phụ nữ trẻ xuất hiện ở đó trong bộ đồ rực rỡ. Với thái độ rất bằng lòng, ông Poirot nhón chân đi trở vào căn hộ.
- Thế thôi mà. Sau ông chủ và bà chủ là người giúp việc: Bây giờ thì căn hộ đó không còn ai nữa.
- Chúng ta sẽ làm gì đây? - Tôi thắc mắc hỏi.
Ông Poirot vội vã chạy vào chỗ rửa bát đĩa, giật mạnh sợi dây thừng kéo than:
- Chúng ta phải khép mình làm theo một phương pháp rẻ tiền thôi. Sẽ không có ai phát hiện được chúng ta cả. Các cuộc vui chơi rồi mệt mỏi của ngày Chủ nhật sẽ làm người ta quên đi những việc làm của "Hercule Poirot". Nào, đến đây đi, anh bạn.
Ông bước lên một tấm ván thô ráp dựng đứng, và tôi hào hứng bước theo.
- Chúng ta sẽ đột phá căn hộ ấy phải không?  - Tôi mơ hồ hỏi lại.
Câu trả lời của ông Poirot như tái xác định một lần nữa:
- Hôm nay thì không hoàn toàn như thế.
Tuột theo sợi dây thừng, chúng tôi đã xuống tầng lầu Hai. Ông Poirot thốt lên một tiếng đầy sảng khoái khi ông nhận thấy cánh cửa gỗ chỗ ban-công vẫn mở.
- Anh có quan sát thấy điều gì không? Họ không bao giờ cài then cửa vào ban ngày cả. Mà cũng chưa có ai leo lên hay tuột xuống như chúng ta đã làm cả. Tuy nhiên, nếu vào ban đêm, chúng ta cũng cần để ý đề phòng cho dù nó có thể vẫn luôn không cài khóa.
Vừa nói, ông Poirot vừa lôi mấy món đồ nghề trong túi ra và lập tức khéo léo tiến hành công việc. Mục đích chính của ông ấy là thẩm tra nên ông ấy kéo từ chỗ dây thừng lại. Việc này chỉ tốn chừng ba phút. Xong, ông Poirot bỏ đồ nghề vào túi rồi chúng tôi leo dây trở lên chỗ trú ngụ của mình.
Suốt ngày thứ Hai, ông Poirot đi vắng, nhưng vào buổi chiều khi trở về, gieo mình vào ghế bành thì nét mặt của ông ta hoàn toàn thỏa mãn.
- Hastings này, tôi có thể nhắc lại với anh một câu chuyện nhỏ chứ? Một câu chuyện đã nằm sâu trong trái tim anh và nó sẽ làm anh nhớ lại bộ phim mà anh ưa thích.
- Ông nói đi - Tôi cười lớn - Tôi đoán rằng đây là một câu chuyện có thật, mà không có một chi tiết nhỏ nào của ông là không cố gắng cho nó trở thành khôi hài.
- Chuyện thật mà. Thanh tra Japp ở Sở Scotland Yard sẽ chứng minh cho sự chính xác ấy từ khi nó được nói ra ở văn phòng lịch sự của ông ta cho đến tai tôi. Nghe này, anh bạn Hastings. Chỉ một thời gian ngắn trong sáu tháng qua, một số kế hoạch quan trọng của ngành Hải quan lưu tại một Bộ của Chính phủ Mỹ đã bị đánh cắp. Những kế hoạch này chỉ rõ những vị trí của một số quân cảng quan trọng cần được phòng thủ, mà một số đáng kể thì đang thuộc về những chính phủ nước ngoài, như Nhật Bản chẳng hạn. Người ta nghi ngờ một thanh niên trẻ có tên là Luigi Valdarno, một người gốc Ý được tuyển dụng vào làm một viên chức cấp thấp tại Bộ này, là kẻ đã đồng thời mất tích cùng với những tài liệu mật kia. Không biết chắc có phải Luigi Valdarno đúng là kẻ đã đánh cắp tài liệu không, nhưng hai ngày sau người ra đã tìm thấy xác của anh ta bị bắn chết tại khu Bờ Đông ở New York. Tài liệu đã bị đánh cắp không có ở chỗ anh ta. Bây giờ, tiếp theo Luigi Valdarno, một người khác đáng chú ý là cô Elsa Hardt, một ca sĩ dàn hợp xướng mới xuất hiện gần đây và đang sống cùng người anh tại một căn hộ ở Washington. Không ai biết gì về tiểu sử bản thân của Elsa Hardt, mà cô này cũng bỗng nhiên biến mất cùng thời gian với cái chết của Valdarno. Có nhiều lý do để người ta tin rằng cô ta có dính líu rõ ràng đến một tổ chức gián điệp quốc tế, người đã từng làm nhiều việc bất chính dưới nhiều bí danh khác nhau. Cơ quan an ninh Mỹ đã mất khá nhiều thì giờ đề tìm kiếm dấu vết của cô ta, cũng như để mắt theo dõi một người Nhật có vẻ rất tầm thường đang sinh sống tại Washington. Họ cảm thấy lạc quan tin chắc rằng khi Elsa Hardt cố gắng che đậy hoàn toàn dấu vết của mình, thì cô ta phải tìm cách tiếp xúc với người đàn ông Nhật kia. Một trong số hai người này đã thình lình đi Anh cách đây nửa tháng. Do đó, một mặt của vấn đề cho thấy có lẽ Elsa Hardt đang ở Anh - Ông Poirot ngừng lại một chút rồi khẽ nói thêm: Nhân dạng chính thức của Elsa Hardt là cao một mét bảy mươi hai, mắt xanh, tóc nâu vàng, dáng điệu quý phái, mũi thẳng, không có dấu vết riêng.
- Bà Robinson ư? - Tôi hổn hển hỏi.
- Phải, đại khái có thể có khả năng là thế - Ông Poirot bổ sung - Ngoài ra tôi còn nhận thấy có một người ngoại quốc da ngăm đen hồi sáng này đã hỏi thăm về những người ở phòng số Bốn đó. Vì thế, anh bạn ạ, tôi e rằng anh phải từ bỏ giấc ngủ của mình tối nay để cùng tôi thức canh căn hộ bên dưới cả đêm đây... mà anh còn phải vũ trang bằng khẩu súng ngắn của anh nữa, hiểu rõ không nào?
- Quá hiểu! - Tôi kêu lên đầy kích động - Khi nào thì chúng ta bắt đầu?
- Tôi nghĩ rằng vào nửa đêm thì vừa thích hợp vì sẽ chẳng có gì xảy ra trước giờ đó đâu.
Đúng 12 giờ đêm, chúng tôi cẩn thận rón rén theo ngả kéo than tuột xuống tầng Hai. Dưới sự thao tác của ông Poirot, cánh cửa gỗ đu đưa về phía trong và chúng tôi trèo vào căn hộ. Từ ban-công, chúng tôi băng qua nhà bếp, ở đó chúng tôi có hai chiếc ghế để ngồi rất thuận lợi bên cánh cửa hé mở vào gian khách.
- Bây giờ chúng ta chỉ có việc chờ đợi thôi. - Ông Poirot nói vói thái độ rất thỏa mãn, và khép đôi mắt lại.
Với tôi, sự chờ đợi là khôn cùng. Tôi sợ mình ngủ thiếp đi. Đúng khi cơn buồn ngủ có vẻ đang đến thì tôi tưởng tôi đã ở đó chừng tám giờ đồng hồ... và, như sau này tôi thấy rằng chính xác chúng tôi chỉ ở đó có một giờ hai mươi phút... khi có tiếng chạm nhẹ làm đau tai tôi. Ông Poirot bấu vào tai làm tôi tỉnh dậy. Và cả hai chúng tôi thận trọng tiến vào trong khách sảnh. Có tiếng động vang lên từ đó. Ông Poirot ghé môi vào tai tôi:
- Phía ngoài cửa trước. Chúng đang cắt khóa. Khi tôi lên tiếng thì đừng chậm trễ, hãy vật ngã hắn ta ra phía sau và giữ chặt hắn, làm cho thật nhanh nhé. Nhớ cẩn thận, chắc chắn hắn có dao đấy.
Có tiếng giằng cửa ra và một vòng sáng nhỏ hiện qua cánh cửa. Ánh sáng bất thình lình bị tắt và cánh cửa từ từ mở ra. Ông Poirot và tôi dán sát người vào tường. Tôi nghe tiếng thở của người đàn ông khi hắn đi ngang chỗ chúng tôi. Người đàn ông đó bỗng chớp đèn và trong lúc hắn ta làm vậy thì ông Poirot khẽ nói vào tai tôi:
- A-lê hấp.
Chúng tôi cùng phóng người tới, ông Poirot hành động thật nhanh và bằng cái khăn len mỏng, ông đã trùm kín đầu kẻ xâm nhập trong lúc tôi khóa chặt cánh tay hắn ta. Toàn bộ các động tác đã diễn ra thật nhanh gọn và nhẹ nhàng, không khua động. Tôi tước được cây dao găm từ tay hắn, còn ông Poirot tuột chiếc khăn len xuống khỏi mắt để buộc chặt ngang miệng hắn. Tôi thúc khẩu súng vào người hắn để hắn hiểu rằng mọi sự kháng cự đều vô hiệu. Khi hắn thôi không còn vùng vẫy, ông Poirot ghé môi gần tai hắn và hỏi thật khẽ. Một phút sau người đàn ông ngoan ngoãn gật đầu. Vẫn yên lặng, ông Poirot khoát tay, chúng tôi cùng ra khỏi căn hộ và đi xuống lầu. Kẻ bị bắt bị tôi kè súng sau lưng ngoan ngoãn đi. Khi ra đến ngoài phố, Poirot mới quay về phía tôi.
- Có taxi đang chờ mình chỗ góc đường. Đưa khẩu súng cho tôi. Bây giờ chúng ta không cần đến nó nữa đâu.
- Nhưng lỡ anh bạn này tìm cách bỏ chạy thì sao?
Ông Poirat mỉm cười:
- Anh ta không làm thế đâu.
Một phút sau tôi trở lại đó với chiếc taxi đã chờ sẵn. Chiếc khăn quàng cổ không còn buộc quanh khuôn mặt của người đàn ông lạ và tôi hết sức ngạc nhiên nên phải nói khẽ vói ông Poirot:
- Anh ta đâu phải người Nhật.
- Bao giờ thì sự quan sát của anh cũng có điểm mạnh đó Hastings! Không gì thoát khỏi anh cả. Không đâu, người này không phải là người Nhật. Anh ta là người Ý.
Chúng tôi bước vào taxi và ông Poirot kêu đi tới đường John's Wood. Bây giờ tôi hoàn toàn đi trong sương mù. Tôi không muốn hỏi ông Poirot về nơi chúng tôi sẽ đến trước mặt người đàn ông bị chúng tôi bắt giữ mà đành cố gắng một cách vô ích để nắm bắt được chút ánh sáng về mọi diễn tiến.
Chúng tôi được soi sáng tại cửa của một căn nhà bên trong đường lộ cái. Một người có vẻ là dân du lịch đi bộ hình như đã say mèm, lảo đảo trên vỉa hè đã gần như va vào ông Poirot, anh ta đã nói gì đó với ông Poirot mà tôi không nghe rõ. Cả ba người chúng tôi bước lên bậc thềm. Ông Poirot rung chuông và ra hiệu cho chúng tôi đứng gọn lại một bên. Không có tiếng trả lời ông rung chuông lần nữa rồi giật mạnh tay nắm cửa sau vài phút giận dữ.
Bất ngờ đèn bật loé lên và cánh cửa mở ra một cách dè dặt.
- Ông muốn cái quỷ gì vậy? - Một giọng đàn ông chói tai vang lên.
- Tôi cần bác sĩ. Vợ tôi đang bệnh.
- Ở đây không có bác sĩ nào cả.
Người đàn ông sắp sửa đóng cửa lại, nhưng ông Poirot nhanh chân bước lên phía trước nên thình lình ông đã làm cho người đàn ông Pháp mặt hài hước tức điên lên:
- Ông nói sao, không có bác sĩ ở đây hả? Tôi sẽ đưa ông ra Tòa. Ông phải đi đến đó! Tôi sẽ ở đây rung chuông và gõ cửa cả đêm.
- Ôi, ông bạn thân mến! - Cửa lại được mở ra lần nữa; và một người đàn ông khoác áo ngủ, mang dép đi trong nhà bước về phía ông Poirot, cố làm xoa dịu ông ta, nhưng vẻ mặt chẳng có chút nào thiện cảm.
- Tôi sẽ gọi Cảnh sát. - Ông Poirot chuẩn bị bước xuống mấy bậc thềm.
- Không nên, đừng làm thế, xin Chúa nhân từ! - Người đàn ông vừa bước ra lao tới sau ông Poirot.
Bằng một cú đẩy gọn nhẹ, Poirot đã làm ông ta ngã sóng soài trên bậc thềm. Để rồi một phút sau, cả ba chúng tôi hiên ngang ở trong phòng và tiến hành cuộc thẩm tra.
- Nhanh lên... trong này này - Poirot dẫn tôi vào một gian phòng gần nhất, bật đèn lên vội vàng nói: Còn anh... ở phía sau màn cửa đó.
- Thưa... thưa Ngài - Người đàn ông Ý lên tiếng và di chuyển rất nhanh đến sau tấm màn nhung màu đỏ hoa hồng đầy nếp gấp đang che phủ ô cửa sổ.
Chưa đầy một phút, sau khi anh ta ẩn mình thì một người đàn bà tiến vào phòng. Bà ta có dáng người cao dong dỏng với mái tóc nâu vàng, mặc trên người bộ ki-mô-nô làm tôn thêm nét đẹp quyến rũ.
- Chồng tôi đâu rồi? - Bà ta kêu lên, giọng nói nhanh và sắc - Còn mấy ông là ai?
Ông Poirot tiến lên phía trước và cúi chào.
- Rất hy vọng là chồng bà không bị hại vì cóng lạnh. Tôi có thấy rằng chân ông ấy vẫn mang dép đi trong nhà, còn cái áo ngủ cũng khá đủ ấm.
- Ông là ai? Ông đang làm gì trong nhà tôi vậy?
- Thực ra thì không một ai trong chúng tôi có dịp được làm quen với bà. Và đặc biệt là xin bà thứ lỗi vì một người trong chúng tôi được lệnh từ New York để đến đây gặp bà.
Bức màn cửa vén lên và người đàn ông Ý bước ra. Tôi rùng mình khi nhận thấy rằng trong tay anh ta đang vung vẩy khẩu súng của tôi mà có lẽ do ông Poirot thiếu cẩn trọng trong khi ngồi xe taxi đến đây.
Người đàn bà kêu lên một tiếng thất thanh và quay người định chạy trốn nhưng ông Poirot đang đứng chận trước cánh cửa đã đóng lại.
- Tránh cho tôi đi - Bà ta hốt hoảng gào lên - Anh ta sẽ giết chết tôi.
- Ai đã khử Luigi Valdarno hử? - Người đàn ông Ý khàn giọng hỏi, tay vẫn khoa khẩu súng qua từng người quanh chúng tôi. Chúng tôi chẳng ai cử động gì hết.
- Chúa ơi, ông Poirot, việc này thật đáng sợ. Chúng ta sẽ làm sao đây? - Tôi không nén được phải kêu lên.
- Anh sẽ phải cám ơn tôi khi tôi cố nín lại mà không nói nhiều, Hastings ạ. Tôi có thể bảo đảm với anh rằng anh bạn của chúng ta sẽ không nổ súng cho tới khi tôi ra lệnh.
- Ông tin chắc như vậy hả? - Giọng người đàn ông Ý nói tiếng Anh ngọng nghịu kèm theo cái liếc mắt tỏ vẻ không bằng lòng.
Tôi cũng chẳng biết làm gì nữa nhưng người đàn bà vụt quay sang ông Poirot như một ánh chớp.
- Thế ông muốn cái gì đây?
Ông Poirot hơi khom người xuống:
- Tôi không nghĩ rằng điều đó cần thiết để xúc phạm sự thông minh của cô Elsa Hardt hơn là bảo thẳng với cô ấy.
Chỉ một giây phút thật ngắn, người đàn bà vội chộp lấy con mèo lông đen như nhung mượt đang nằm phủ kín trên điện thoại.
- Họ đã vá kín tấm phủ che đậy việc đó rồi.
- Rất thông minh - Ông Poirot lẩm bẩm khen ngợi. Ông đang đứng một bên cửa ra vào - Xin chào bà. Tôi sẽ bắt giữ người bạn của bà ở New York trong khi bà tìm cách đào tẩu.
- Vậy là điên! - Ngiròi đàn ông Ý lại ngọng nghịu rít lên rồi nâng nòng súng bắn thẳng vào người đàn bà lúc bà ta định thoát đi khi tôi cũng vụt lao thẳng đến chỗ anh ta.
Nhưng khẩu súng chỉ kêu lách cách không làm hại ai được và ông Poirot thì lên tiếng quở trách nhẹ nhàng.
- Không bao giờ anh tin bạn hở, Hastings.
Giờ là lúc anh chàng người Ý hằn học chửi rủa.
Ông Poirot hướng về phía anh ta, cũng bằng giọng nhẹ nhàng quở trách như khi nói với tôi:
- Xem nào, tôi đã làm điều gì cho anh. Tôi đã cứu anh từ giá treo cổ đó. Và cũng đừng nghĩ rằng người đàn bà xinh đẹp kia của chúng ta sẽ trốn thoát được đâu. Không, không bao giờ. Ngôi nhà này đã bị bao vây, cả phía trước và phía sau. Họ sẽ lọt vào tay Cảnh sát. Đó không phải là ý tưởng đầy an ủi và đẹp đẽ sao? Còn anh phải rời khỏi phòng này ngay bây giờ. Nhưng nhớ cẩn thận, phải hết sức cẩn thận. Tôi... À, ông ấy đã đến! Và bạn tôi, anh Hastings thì cứ nhìn tôi bằng đôi mắt trách cứ kìa! Nhưng tất cả đâu có đơn giản! Nó quá rõ ràng, ngay từ đầu, bởi vì cả hàng trăm con người muốn đến ở căn hộ số Bốn ở Montagu Mansions ấy, vậy mà chỉ có một mình vợ chồng ông- Robinson vớ được thì là tại sao vậy? Điều gi khiến họ được ưu tiên hơn số người kia từ cái nhìn thoáng qua vậy? Sự xuất hiện của họ chăng? Rất có thể, nhưng đó không chỉ là một điều quá bất thường. Đúng rồi, chỉ vì cái tên của họ mà thôi.
- Nhưng Robinson thì đâu có gì lạ - Tôi kêu lên.
- À! Anh có lý, nhưng chính xác lại là như vậy đó! Đó chỉ là một điểm. Elsa Hardt và người đàn ông xưng là chồng, hoặc là anh, hoặc là một người nào đó, đã từ New York đến đây, lấy tên là ông và bà Robinson khi thuê căn hộ ấy! Nhưng rồi bất ngờ họ biết được rằng có một người trong giới xã hội đen này, bọn Mafia hoặc là bọn Camorra, đã theo dấu họ tiếp sau cái chết của Luigi Valdarno. Vậy thì họ phải làm gì đây? Đơn giản là họ đã có kế hoạch giấu mình. Họ chỉ biết kẻ đang truy tầm họ tất nhiên không hề từng quen biết với họ? Họ đã ngốc nghếch nghĩ đến việc thuê một căn hộ rẻ tiền. Trong số hàng ngàn cặp vợ chồng trẻ của London này cần tìm thuê chỗ ở, cặp Robinson không thể thất bại. Nó chỉ là vấn đề phải chờ đợi thôi. Nếu anh có dò kỹ tên Robinson trên đanh bạ, sớm muộn gì anh củng sẽ tìm ra bà Robinson có mái tóc đẹp trong dó. Rồi cái gì phải xảy ra? Người báo thù đến. Anh ta biết tên họ, anh ta biết địa chỉ. Thế là anh ta tấn công! Hơn nữa, cuộc báo thù đã thật dễ xảy ra, và cô Elsa Hardt may mắn đã tránh khỏi trong đường tơ kẽ tóc một lần nữa. Và như vậy, anh Hastings, anh đã phải cống hiến cho tôi sự thực về bà Robinson... như anh nói đó là một con người dễ mến và chân thành nhất! Và họ sẽ nghĩ sao khi thấy căn hộ của họ đã bị phá tan hoang tất cả? Chúng ta phải nhanh chóng quay lại đó. À, có tiếng như ông Japp và bạn của ông ta vừa mới đến.
Một loạt tiếng gõ cửa dồn dập.
- Ông có biết địa chỉ ở chỗ này không? - Tôi hỏi lúc tôi theo ông Poirot đi ra ngoài khách sảnh. - À, mà tôi chắc ông đã theo dõi bà Robinson đến đây ngay lần đầu khi bà ta rời khỏi căn hộ đó.
- Thật là hoàn hảo đấy, Hastings. Anh hãy tận dụng chất xám của anh đi. Bây giờ hãy cho Japp một chút ngạc nhiên.
Và nhẹ nhàng mở cánh cửa ra, ông Poirot đã chạm trán với cái đầu của con mèo bên cánh cửa và nó phát ra tiếng kêu "M-a-o".
Thanh tra sở Scotland Yard đang đứng ngoài cửa với một người đàn ông khác, nhảy dựng lên vì tức giận.
- Ô, ngay lúc này chỉ có một mình ông Poirot đang làm chuyện đùa thôi.
Ông ta kêu lên trong lúc ông Poirot ngoái đầu về phía con mèo
- Để chúng tôi vào chứ, ông bạn ạ.
- Ông có để cho những người bạn của chúng tôi an toàn và được lên tiếng không đây?
- Được, chúng ta có đủ các loại chim mà. Nhưng người ta không trang bị cho chúng đầy đủ những thứ cần thiết.
- Tôi hiểu rồi. Thế nên ông đến đây để lục soát chứ gì. Được rồi, tôi và anh Hastings cũng định đi đây, nhưng tôi cũng muốn nói cho ông biết một chút về lịch sử và thói quen của loài mèo nội địa của mình.
- Lạy Chúa tôi, ông sắp trở thành kẻ gàn rồi đấy hả?
- Loài mèo... - Ông Poirot cao giọng - đã được người cổ đại Ai Cập thờ cúng. Nó càng được quan tâm như một điềm may mắn nếu có con mèo đen băng ngang trên con đường đi. Con mèo này sẽ băng qua con đường của ông tối nay đó, ông Japp. Nói về nội tâm của bất cứ loài vật nào hay người nào thì tôi đâu dám nói, tôi biết, theo thói lịch sự của đất nước Anh mà. Nhưng nội tâm của con mèo này thì hoàn toàn tinh vi. Tôi muốn nói đến việc làm tròn trịa mọi điều.
Thình lình thốt ra tiếng càu nhàu, người cùng đi với thanh tra Japp chộp ngay lấy con mèo từ tay ông Poirot.
- Ô, tôi quên giới thiệu với ông, ông Poirot -
Ông Japp nói - Đây là ông Burt ở cơ quan An ninh Hoa Kỳ.
Những ngón tay thuần thục của người Mỹ này cảm thấy được cái gì ông ta cần phải làm. Thế là ông ta đưa tay ra. Lặng thinh một lúc, ông ta mới có dịp để cất tiếng:
- Rất vui được biết ông - Ông Burt chỉ nói được như thế.