húng tôi dậy từ mờ đất. vừa hi vọng lại vừa lo âu nên không thể ngủ lâu. Ăn qua loa buổi sang xong, tôi sửa soạn tất cả cho chuyến đi. Tôi căn dặn các con chuẩn bị sẵn sàng những thứ gì phải đem theo. Tôi nhắc vợ tôi nhớ cho gia súc thức ăn sẵn trong nhiều ngày, nếu chuyến đi này có kết quả tốt, một ngay gần đây sẽ có thể quay lại đón chúng. Chúng tôi "bốc hàng" xuống chiếc tàu mới: một thùng thuốc súng, ba khẩu súng nhẹ, ba khẩu súng săn, hai cặp súng ngắn bỏ túi, một cặp súng tay cỡ lớn dùng khi cưỡi ngựa, đạn viên và đạn ghém thì vô kể - mang được chừng nào thì hay chừng ấy - và sau hết là một khuôn đúc đạn chì. Ngoài ra vợ tôi và mỗi đứa nhỏ đều mang một bao tải đầy chặt, chọn trong đám hành lý của các sĩ quan trên tàu. Tôi cũng đã cho đưa xuống một hòm đầy những tấm bánh bột nấu canh, một hòm lớn bánh khô, một thùng cá ngừ ướp muối và rất nhiều lương thực khác. Thêm vào đó còn có một cái nồi bằng gang, một cần câu, một hòm đủ các loại đinh, những dụng cụ như là búa, đinh, cưa, kìm, búa tạ, khoan v.v… Sau hết là một tấm vải buồm lớn sẽ dùng để dựng một cái lều ở tạm. Chúng tôi tạm bằng lòng với chừng ấy thứ tối cần thiết nên đành phải bỏ lại khá nhiều thứ có ích khác. Tôi lấy ra hết những hòm đạn dùng để độn cho đằm thuyền và thay thế bằng những đồ đạc kể trên, nhưng xem chừng chiếc thuyền mỏng manh này khó kham thêm được nữa. Vừa bước chân xuống thuyền, chúng tôi bỗng nghe tiếng gà gáy và tiếng lũ gà vịt kêu buồn bã như muốn tiễn biệt chúng tôi. Đột nhiên tôi nghĩ rằng có lẽ nên đem chúng cùng đi. Bỏ chúng lại đây, mình không thể nuôi được chúng, mà đưa theo lên đất liền biết đâu chúng lại chẳng nuôi được mình! Mọi người tán thành ý kiến ấy nên cùng đi tìm những con vật đáng thương đó. Tôi thả vào trong một cái thùng trên thuyền một chục con gà mái với hai con gà trống rồi cẩn thận lấy tấm vải buồm đậy lên trên để chúng khỏi bay ra. Còn bọn ngỗng, vịt và bồ câu thì cứ thả chúng ra chắc chắn chúng sẽ vào tới đấy liền dễ dàng và nhanh hơn chúng tôi hoặc bay lên trời, hoặc bơi dưới nước. Tất cả gia đình tôi đều đã cuống thuyền và ngồi vào chỗ, chỉ còn chờ vợ tôi ra nữa là nhổ sào. Vợ tôi vốn là người rất lo xa cho nên tôi đồ rằng bà ấy còn tìm kiếm cái gì đặc biệt có ích cho nên mới ra chậm. Cuối cùng vợ tôi xuống thuyền, trên vai mang một tay nải khá lớn. Bà ném tay nải vào trong cái thùng mà bé Phrít đã ngồi sẵn từ trước và nói: "Đây là túi đồ dùng vạn năng của tôi đấy!". Tôi đoán là một cái nệm gối để cho thằng bé ngồi cho êm trong cái thùng ngổn ngang trăm thứ này và tôi cũng chẳng để ý đến nữa. Tôi cởi dây neo và chúng tôi lên đường. Vợ tôi ngồi ở thùng thứ nhất. Phrít chiếm thùng thứ nhì ngay bên cạnh mẹ. Phrê-đê-rích giữ cái thùng thứ ba để trông nom vũ khí cất ở thùng thứ tư cùng với đàn gà và tấm vải buồm. Kho lương thực là thùng số năm, Ruýt-ly trông nom nồi niêu soong chảo thì ngồi ở thùng thứ sáu. Éc-nét lọt thỏm trong thùng thứ bảy, giữa trăm thứ đồ dùng linh tinh. Còn tôi, đứng vững trong cái thùng thứ tám, cố gắng điều khiển con thuyền mỏng manh trên đó tập trung tất cả những gì thân yêu và quí báu nhất. Vừa lúc đó hai con chó đáng thương của Ruýt-ly thấy chúng tôi bỏ rơi chúng thì hú lên những tiếng đau thương van nài. Con chó đực tên Tuyếc, là chó giữ nhà giống Ăng-lê chính cống; con cái tên là Bi-ly thuộc giống Đan Mạch loại lớn nhất. Nhưng chúng nó quá nặng như thế kia làm sao cho cùng vào thuyền được! Ngay lúc đó cả hai con cùng nhảy ào xuống biển và cố hết sức bơi theo thuyền. Chuyến đi của chúng tôi thật may mắn tuy khá chậm chạp. Mặt biển yên lặng, những lượn sóng nhỏ nhẹ nhàng đưa chúng tôi vào đất liền. Trời trong xanh. Xung quanh chúng tôi, cơ man là thùng, là gói, là hòm trôi vật vờ từ chiếc tàu bị bão dạt đến. Hi vọng trong đó có thể có lương thực, tôi phóng ra một cái móc sắt lớn tìm cách móc lấy mấy cái mà kéo lại thuyền. Tôi bày cho Phrê-đê-rích lấy dây thừng quấn vòng quanh những cái thùng đó và tìm cách cánh (kéo theo thuyền) được chúng bên sườn thuyền. Càng lại gần bờ càng thấy miền này bớt vẻ hoang vu. Phrê-đê-rích với cặp mắt tinh như chim cắt, nói cho chúng tôi biết là nó thấy rõ nhiều thứ cây, trong đó có những cây lá cọ. Vừa nghe nói thế, Éc-nét, "nhà sinh vật học vĩ đại" của chúng tôi, reo lên vui sướng và kể lại cho mấy anh em nghe rõ tất cả những đặc điểm kỳ diệu của cây lá cọ: -Nó có thể cho ta nào là rượu, nào là sữa, bơ và một thứ cùi ngon bùi, hơn hẳn những nhân hạt dẻ ở rừng quê hương. Thằng bé nói như thế đấy! Khi nghe tôi phàn nàn quên không cầm theo kính viễn vọng của viên thuyền trưởng, Ruýt-ly đưa cho tôi một ống nhòm đi biển đã lấy được trong phòng người hoa tiêu. Nhờ có ống nhòm ấy, tôi đã chọn trước được chỗ cho thuyền ghé vào bờ. Sau nhiều cố gắng chống lại những dòng nước cứ muốn cuốn chúng tôi trở ra ngoài khơi, tôi dong được thuyền tới cửa một ngọn suối đổ thẳng ra biển. Ở đó có một cái vũng nhỏ, lũ ngỗng và gà vịt đã đến đó trước và hình như đương chờ để chỉ đường cho chúng tôi. Tôi cẩn thận ghé vào một nẻo bờ thấp xấp xỉ những chiếc chậu trong thuyền. Ở đó nước cũng đủ sâu để thuyền không bị mắc cạn. Cuộc đổ bộ tiến hành rất nhanh. Tất cả người và vật đều nhảy ngay lên bờ, kể cả chú bé Phrít, mặc dầu còn thấp hơn thành thùng gỗ, cũng cố leo lên như những người khác. Mẹ nó lại giúp một tay và kéo nó lên bờ. Mấy con chó đến trước chúng tôi, đã đứng đó và sủa lên vui mừng để chào đón chủ. Những con ngỗng và vịt đương bơi lội trong vũng cũng kêu oang oang lên. Tiếng chúng hòa với tiếng kêu chói tai của các thứ chim biển đậu trên những mỏm đá quanh đó, tạo thành một âm điệu lạ lùng và có vẻ man rợ. Bước chân lên đất liền, trước tiên chúng tôi cảm ơn trời đất đã dun dủi cho chúng tôi vào đây bình yên vô sự. Sau đó chúng tôi bắt tay ngay vào việc dỡ đồ đạc trên thuyền. Gớm, chỉ mới có mấy thứ đã đem theo được lần này thế mà sao chúng tôi thấy mình giàu thế! Vợ tôi bắt gà thả ra cho chúng tự do đi kiếm ăn bởi vì chưa có gì nuôi chúng. Tôi lo tìm chỗ dựng lều. Tôi cắm ngang một cái sào dài vào hốc trên thành núi đá, đầu kia gác lên một cái cọc chĩa ba trồng vững trên cát. Tôi đem tấm vải buồm vắt qua sào, thế là có ngay một gian lều vải đủ rộng cho cả gia đình. Chúng tôi lấy hòm, thùng và những vật nặng xếp đè lên mép vải phía trong cho tường lều được vững chãi, lại buộc những cái móc sắt chắc chắn vào mép phía trước để ban đêm cài cửa lều cho kín. Lũ trẻ nhặt cỏ và rêu ở xung qunah đem rải ra phơi khô trên cát để tối đến sẽ đưa vào lót dưới lều, khỏi phải nằm xuống đất. Trong khi chúng lo việc đó thì tôi ra bờ suối chọn mấy hòn đá to và bằng phẳng, đem về xếp thành một cái bếp ở gần lều. Lũ trẻ nhặt đem lại những mảnh gỗ nhỏ đã khô, bị song biển đánh dạt lên bờ từ lâu, tôi bật lửa lên đốt. Chẳng mấy chốc một ngọn lửa đã sáng bùng lên thật vui mắt. Vợ tôi, cùng với Phrít tí hon phụ bếp, múc nước suối vào nồi đem đặt lên bếp, thái những tảng thịt khô chúng tôi đã đem theo cả một hòm đầy, sửa soạn bữa ăn tối. Trong lúc đó, Phrê-đê-rích đã nạp đạn vào khẩu súng săn rồi đi về hướng chiếc tàu. Éc-net thì nghĩ rằng không nên đi liều như thế vào một chỗ vắng vẻ, và nó đi thẳng về phía biển. Ruýt-ly lại rẽ sang bên trái, len lỏi giữa những mỏm đá rải rác trên bờ biển tìm những con ngao nó đã chú ý khi mới ghé thuyền vào đây. Về phần tôi thì tôi lo kéo vào bờ hai cái thùng lớn đã cánh theo thuyền. Bỗng một tiếng kêu thất thanh khiến tôi phải bỏ đó mà chạy về phía Ruýt-ly. Nó đứng trong một vũng nước chỉ ngập đầu gối: một con tôm hùm lớn cắp vào chân nó và thằng bé đáng thương cứ loay hoay mãi không sao gỡ ra được. Tôi bèn lội xuống nước, thấy tôi đến bất ngờ, con vật định tháo lui nhưng tôi đã nhanh tay chẹn lấy ngang lưng nó và nện cho nó một gậy rồi xách lên bờ. Thấy kết quả tốt đẹp, thằng bé thích thú reo lên. Thế rồi Ruýt-ly lại đi theo Éc-nét trong khi Éc-nét vẫn cứ rụt rè không dám lội xuống nước. Ruýt-ly cứ lội tràn, còn anh nó thì lò dò tìm từng tảng đá để bước lên. Mỗi đứa cầm một cái gậy bọc sắt ở đầu và gỡ trên đá vô số là sò vừa đẹp vừa ngon, rồi đem về hai khăn tay đầy. Vừa đi vòng sau một tảng đá, nhà tự nhiên học nhỏ tuổi của chúng toi lại phát hiện ra một điều mới: Thoáng thấy trong một hốc đá đã cạn hết nước biển có thứ gì trăng trắng và sáng, Éc-nét cúi xuống nhón lên mọt chút, nếm thử rồi đoán chắc là muối. Nhà bác học không chỉ thỏa mãn với cái thú phát hiện ra điểm mới lạ mà còn tính đến chuyện sử dụng vật đó nữa. Nó nhặt một chiếc vỏ ngao thật to, xúc đầy muối rồi chạy đem về cho mẹ. vợ tôi đón món quà mới này với vẻ thích thú rõ ràng hiện ra nét mặt. Bà bảo con: -Tốt quá Éc-nét ạ! Nhờ có con, hôm nay gia đình ta không phải ăn món xúp nhạt và vô vị. Chú bé Ruýt-ly ngờ nghệch hỏi ngay: -Nhưng mà tại sao không đổ nước biển vào xúp cho đậm? Anh nó trả lời ngay: -Vì nước biển tuy có mặn đấy, nhưng lại chát! Em cứ nếm thử một ngụm thì thấy ngay điều đó! Ruýt-ly quay phắt người đi: -Cảm ơn! Vô cùng cảm ơn! Tôi xin tin lời anh nói. Sau khi đã lăn trên cát tất cả những thùng và hòm về, tôi trở lại chỗ nấu bếp. Vợ tôi quấy xúp, nếm và tuyên bố xúp đã chín. Thế là chú Éc-nét vốn cũng hơi tham ăn và lúc nào cũng có vẻ vội vàng muốn ăn ngay, tiếp lời: -Thế thì chúng ta ăn đi thôi! Nhưng mẹ nó đã bảo nó, giọng trách móc: -Đúng đấy! Nhưng chỉ nên nghĩ đến chuyện ăn khi nào anh con đã về đây! Mẹ không thấy Phrê-đê-rích đâu cả - Bà nói tiếp, giọng lo lắng - Vả lại, chúng ta làm thế nào để ăn xúp? Đĩa chẳng có mà thì cũng không! Chẳng lẽ lại lấy tay bốc à? Làm thế nào bây giờ? Chẳng ai trả lời được câu hỏi đó cả. Chúng tôi thấy mình có vẻ sa hố như con cáo lúc nó đến ăn tại nhà con cò và được cò dọn mời ăn trong " một cái lọ cỏ dài miệng nhỏ". Éc-nét có ý kiến: -À, nếu có được vài quả dừa nhỉ! Chúng ta sẽ cắt vỏ dừa thành những cái thìa ăn xúp rất tốt! -Ồ, nếu chỉ cần nói "nếu có", thì mẹ thích nói có ngay ở đây một tá dao đĩa bằng bạc, bằng sắt hoặc bằng gỗ cũng được! Éc-nét nhìn vào một con sò và nói tiếp: -Ồ, vậy thì… hay là chúng ta dùng cái vỏ sò lớn này? Có lẽ cũng có thể thay thế thìa được… Bà mẹ đáp ngay lời con: -ý kiến tốt đấy! Nhưng trước hết phải rửa cho thật sạch đã! Nếu không, cái vị nước biển có thể làm hỏng xúp đấy! Trong khi bà nội trợ loay hoay rửa loạt "thìa" mới thì chúng tôi nghe thấy tiếng Phrê-đê-rích. Các em nó đã nhanh chân chạy ra đón và bao vây lấy nó, reo ầm lên: -Một con lợn sữa! Một con lợn sữa! Anh gặp nó ở đâu đấy? Sao mà bắt được nó? -Ồ! Cho xem cái nào! Và ông anh cả mỉm cười đắc chí, đưa cho các em xem một con vật nhỏ, đúng là giống như một con lợn con. Nó kể lại cho chúng tôi nghe rằng sau khi vượt qua dòng suối nó đã tới một vùng lý thú như thế nào! Nó kể rằng: -Nơi đó, bờ biển bằng phẳng và dễ ghé thuyền. Chắc cả nhà không ai có thể tưởng tượng được sóng đã đánh dạt vào đó cơ man là hòm, là thùng lớn và những tấm gỗ đủ loại, đủ cỡ. Đứng đó, có thể nhìn thấy rõ chiếc tàu mắc cạn. chúng ta còn để lũ gia súc đánh thương lại trên tàu, ngày mai có ra ngoài tàu đem chúng về không? Con nghĩ chỉ cần đem một con bò cái về là bánh khô sẽ được ngâm sữa và không đến nỗi rắn thế này! Ở bên ấy, cỏ rất nhiều, lại có một cánh rừng nhỏ có thể làm nhà ở trong đó. Tội gì chúng ta tự thiêu nắng ở đây như thế này, trên một bãi cát khô khan và chẳng có một chút bóng hình cây cỏ. -Thong thả! Thong thả! Việc nào lúc nấy, con ạ! Ngày mai ngày kia sẽ có Chương trình làm việc rõ ràng. Bây giờ thì trước hết con hãy nói cho bố biết con có tìm thấy chút dấu vết gì về những người bạn đồng hành xấu số của chúng ta không? Phrê-đê-rích trả lời tôi: -Con chẳng thấy gì cả! Trên đất liền cũng không trên mặt biển cũng vậy… Bà vợ nhân hậu và đáng quý của tôi kẽ nói: -Cầu sao cho họ thoát được hiểm nguy, và một chiếc tàu nào đó đã gặp và cứu họ! Tôi không nói gì bởi vì tôi hiểu rõ hơn vợ tôi về những tại nạn trên biển cả hung hãn với những chiếc xuồng mỏng manh ấy. Nhưng tôi không để lộ mảy may ý nghĩ của mình để khỏi làm cho gia đinh phải lo lắng buồn phiền. Vả lại lúc này chú Phrê-đê-rích vẫn đang say sưa với câu chuyện mạo hiểm của mình: -Con gặp rất nhiều con thú loại này: chúng nhảy trong cỏ, ngồi lên trên chân sau và chùi chùi chân trước vào mõm. Nếu không sợ nó chạy đi mất thì con đã cố gắng bắt sống một con, vì nó không có vẻ gì dữ tợn cả. Éc-nét đã nhận xét con vật và nói: -Nó không thuộc về loài lợn, tuy lông nó cũng cứng như lông lợn, nhưng răng nó lại khác hẳn, chỉ có răng cửa là giống loài gặm nhấm. Trông nó thật giống một con vật vẽ trong sách vạn vật học của em, nếu em không nhầm thì con lợn sữa của anh thật ra chỉ là một loại cu núi. Nhưng vợ tôi đã cắt ngang câu chuyện: -Này, này các cậu! thôi hãy tạm gác chuyện bàn cãi về những nhận xét khoa học đi đã! Bữa tối dọn đã lâu mà hình như các con quên khuấy mất rồi! Bây giờ hãy lo cạy những con xò này ra, lấy vỏ làm thìa! Mẹ chẳng biết làm thế nào cả; Ruýt-ly và mẹ loay hoay mãi mà không sao cạy ra được. -Bố biết một cách rất dễ dàng! Nói đoạn, tôi lấy ngay mấy con sò đặt lên trên bếp than hồng đã bỏ không. Quả nhiên, vừa bị nóng, chúng nó đã tự há miệng ra. Tôi cầm lên một con và bảo lũ trẻ: -Nào, cả nhà, ta hãy nếm cái món sò này! Nhiều người đã nói nó là một món ăn tuyệt ngon của những kẻ sành ăn kia đây! Tôi lấy dao tách con sò ra khỏi vỏ rồi bỏ vào miệng. Nhưng mặc dầu mỗi người đều làm theo tôi để tự kiếm lấy một cái thìa, món hải vị này hình như chẳng hợp khẩu vị của ai cả. Sau khi đã đồng ý công nhận sò chỉ là một món ăn vào hạng tồi, chúng tôi vục ngay mấy chiếc thìa kiểu mới vào nồi xúp nóng khỏi bay nghi ngút. Mặt trời vừa lặn hẳn dưới chân trời, gà vịt kéo đến vây quanh chúng tôi để nhặt những mẩu bánh kho vụn rơi vãi. Thấy thế, vợ tôi bèn xách cái bao tải ra, cái bao tải đã được gọi là túi thần kỳ bởi vì vợ tôi thường lấy trong ấy ra cơ man các thứ mà không ai ngờ được. Bây giờ bà lấy ra mấy vốc lúa, đậu hạt muồng và nhiều thứ hạt khác ném cho gà, cho chim bồ câu đương xúm quanh. Nhưng tôi đã kịp nhắc cho vợ tôi rằng những thứ hạt đó rất quan trọng, cần để dành mà gieo trồng sau này. Bà ấy bèn thay bằng mấy chiếc bánh khô đã bị nước biển ngâm cho hỏng, bẻ vụn ném ra thì thấy bọn gà vịt cũng hoan nghênh không kém. Một lát sau, gà vịt, chim chóc sửa soạn đi ngủ; gà bay lên đậu trên nóc lều, bố câu chui vào hốc đá, ngỗng và vịt nấp trong những bụi cói ở vũng nhỏ. Mọi vật đều có vẻ nghỉ ngơi và suốt ngày mệt nhọc cũng khiến chúng tôi thấy muốn đi ngủ. Tôi tập hợp gia đình lại rồi nạp đạn vào tất cả súng ống để chuẩn bị sẵn sàng. Sau khi tia sáng cuối cùng vừa tắt, chúng tôi chui vào lều đi ngủ. Vùa bước chân vào lều thì đem tối mù mịt cũng vụt tiếp đến ngay. Các con tôi tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Tôi bèn giảng cho chúnghiểu rằng hiện tượng đó giúp cho ta biết rằng chỗ ở hiện nay rất gần xích đạo. Hoàng hôn là một ảnh hưởng của tia nắng mặt tời bị chệch đường trong không trung. Những tia nắng ấy càng chiếu xiên xuống bao nhiêu thì ánh sánh của nó khi bị mờ lại càng tỏa ra xa bấy nhiêu. Hiện tượng trái ngược lại xảy ra khi những tia nắng ấy chiếu thẳng xuống, chính vì thế mà đêm tối đến ngay sau khi mặt trời lặn hẳn xuống chân trời. Sau lời giải thích ngắn đó mà có thể là chẳng ai để ý nghe, mỗi người đều nằm lăn xuống nệm rêu, sẵn sàng để ngủ một giấc say sưa. Tôi nhìn lại một lần nữa ra bên ngoài lều để xem tình hình đã ổn cả chưa, sau đó tôi mới đóng cửa lều lại, móc hai cánh thật chặt rồi cũng nằm ngủ. Ban ngày nóng bao nhiêu thì ban đêm lạnh bấy nhiêu. Chúng tôi phải nằm chen chúc nhau như một lũ cừu cho ấm. Mặc dầu biết bao nhiêu nỗi lo âu đương xâm chiếm tâm trí tôi, cũng chỉ một lúc sau là tôi đã mơ mơ màng màng, rồi đánh một giấc như chết. Sáng hôm sau, tiếng gà gáy thức chúng tôi dậy rất sớm. Hai vợ chồng tôi bàn bạc với nhau về Chương trình làm việc hôm đó. Chúng tôi quyết định trước hết là phải đi tìm dấu vết những người cùng đi trên tàu, đồng thời cũng tìm hiểu cảnh vật ở chốn này, rồi chọn dần một chỗ tốt để xây dựng nhà. Mặc dầu không muốn xa rời tôi, vợ tôi cũng hiểu rõ trong một cuộc đi như thế tất nhiên không đem cả gia đình theo được. Bà đành đồng ý ở lại nhà với Éc-nét và hai đứa nhỏ, còn tôi thì đem theo Phrê-đê-rích, cũng đã lớn và đủ sức chịu đựng khó nhọc trong khi đi đường, để giúp đỡ tôi khi cần thiết. Chúng toi sẽ đi "thám hiểm". Tôi bảo vợ tôi sửa soạn ngay cho bữa ăn sáng để có thể lên đường khi trời chưa nắng. Vợ tôi thở dài trả lời: -Ôi! Bữa sáng thì có thể có ngay đấy, nhưng mà chẳng có gì ngoài món xúp loãng! -Thế con tôm hùm thằng Ruýt-ly bắt được hôm qua đấy thì sao? -Phải hỏi nó đã chứ! Trong khi tôi nhóm lửa đun nước thì bố nó thức các con dậy đi! Lũ trẻ vùng dậy ngay. Tôi hỏi Ruýt-ly về con tôm biển; nó liền chạy ngay đến góc một mỏm đá, lấy con tôm đưa lại. Tối hôm qua nó phải giấu ở đó để lũ chó khỏi ăn mất. Tôi bèn bảo nó: -Ừ, thế thì giỏi đấy! Con biết cất đặt cẩn thận như thế, bố rất bằng lòng. Nhưng, này con, con có thể nhường phần tôm của con cho cuộc "đi chơi" ngày hôm nay không? Hai tiếng "đi chơi" tất nhiên có ảnh hưởng đến lũ trẻ ngay lập tức. Bốn đứa con tôi nhảy nhót như những con dê non, nhắc đi nhắc lại rối rít: "Một cuộc đi chơi! Ồ! Một cuộc đi chơi!". Tôi vội vàng kìm sự sốt sắng ấy lại. Tôi nói cho chúng biết một số lý do không cho phép tất cả gia đình cùng đi. Rồi tôi nói thêm: -Vả lại, không nên để cho mẹ các con phải mệt nhọc một cách vô ích. Ba anh em sẽ ở lại nhà với mẹ. Tại đây có thể rất yên ổn. Con Bi-ly vạn vỡ sẽ ở nhà canh phòng, còn con Tuyếc gan dạ thì đi theo bố và anh Phrê-đê-rích. Với một bạn đường như thế và mấy khẩu súng tốt, có thể bắt kẻ thù phải nể mặt. Mấy đứa con tôi vâng theo những lời giảng giải đó. Ruýt-ly đưa con tôm hùm cho mẹ nấu để vừa ăn sáng, vừa đưa đi. Trong lúc đó, tôi bảo Phrê-đê-rích sửa soạn súng ống và bỏ đầy đạn dược cần thiết vào hai cái túi dết sẽ mang theo. Mỗi người cầm thêm một đôi súng tay bỏ túi. Ngoài ra, tôi giắt gọn gàng một chiếc búa nhẹ vào thắt lưng. Một lát sau, vợ tôi gọi chúng tôi ăn sáng. Bà đã tìm thấy trong đống đồ đạc một cái xô bằng sắt tây, đổ xúp vào, lấy nồi luộc con tôm hùm với nước lã và muối. Thịt tôm hùm tuy nhiều nhưng lại hơi dai và nhạt nhẽo quá! Tuy thế, tôi và Phrê-đê-rích cũng lấy một ít bỏ vào túi dết cùng với cái bánh khô và vài chai nước: đó là lương thực đi đường. Chuẩn bị đầy đủ như thế, chúng tôi lên đường, nhằm hướng ngọn suối mà tôi đã có dịp nói đến.