in về tai họa ở Saint-Barthélemy bay về phòng điều hành đặt tại đại lộ King Saul trong vòng 5 phút sau khi Gabriel quay trở về với chiếc du thuyền Sun Dancer. Amos Sharrett, Tổng giám đốc, đang ngồi trong văn phòng trên lầu vào lúc đó và được báo cáo về tiến trình của vụ việc. Mặc dầu lúc đó đã muộn rồi, nhưng ông vẫn gọi điện cho Thủ tướng và kể cho ngài nghe vụ việc. Năm phút sau đó ông nhận được một cuộc gọi mật từ chiếc du thuyền Sun Dancer. Cuộc gọi không đi vào trung tâm điều hành mà vào đường dây riêng trong văn phòng của Adrian Carter ở tầng bảy. Carter đón nhận tin tức một cách bình thản, y như các việc khác, anh nghịch với cái kẹp giấy trên bàn khi Gabriel đưa ra lời yêu cầu của mình. “Chúng ta có máy bay ở Miami ngay lúc này”, Carter bảo. “Máy bay có thể đáp ở Saint Maarten trước bình minh”. Carter gác máy và nhìn về phía ti vi ở phía kia góc phòng. Tổng thống Mỹ đã đi châu Âu vài ngày để gặp tân Thủ tướng Đức. Bên ngoài cảnh sát tiến hành những trận chiến đường phố xuyên suốt thành phố Berlin để dập tắt những đám đông biểu tình chống Mỹ. Hai điểm đến còn lại gồm Pari và Roma cũng thế thôi. Cảnh sát Pháp đang gắng sức kiềm chế việc bạo động của những người theo đạo Hồi. Cảnh sát Ý đang ngăn chặn những cuộc biểu tình trên diện rộng chưa từng thấy trong một thế hệ qua ở Rome. Xem chừng khó mà đạt được sự hòa hợp về ý kiến và quyền lợi xuyên Đại Tây Dương mà nhóm người tạo dựng bộ mặt của Nhà Trắng đã hi vọng. Carter tắt ti vi và cất tài liệu mật vào ngăn tủ, khóa lại rồi vớ lấy chiếc áo khoác mắc sau cửa và mặc vào. Mấy người thư kí đã về nhà, tiền sảnh im lìm trong bóng tối ngoại trừ một khe sáng từ căn phòng hé cửa ở phía đối diện. Cánh cửa dẫn vào văn phòng của Shepard Cantwell, Phó chánh văn phòng cơ quan tình báo, chức vụ tương đương với Carter trong bộ phận phân tích tình báo. Trong phòng vang lên tiếng lách cách của bàn phím máy vi tính. Cantwell vẫn còn ở đó. Theo như những người có đầu óc dí dỏm bên phân tích tình báo thì Cantwell chưa bao giờ rời khỏi phòng làm việc của mình. Khi đêm xuống, ông ta nhốt mình vào cái tủ tường bằng sắt và tự thả mình ra lúc bình minh để kịp có mặt ở bàn làm việc khi Chánh văn phòng đến. “Phải anh không Adrian?”. Cantwell hỏi bằng cái giọng lè nhè. Khi Carter đưa đầu vào cái ‘chuồng’, Cantwell ngừng gõ và ngước mắt nhìn lên, trước mặt là một chồng hồ sơ. Trông ông ta nghiêm nghị một mà láu lỉnh thì đến hai. “Lạy Chúa, Adrian, trông anh như xác chết biết đi ấy. Anh buồn phiền vì việc gì vậy?” Khi Carter lúng túng về sự hỗn độn quanh chuyến công du đầy thiện chí của ngài Tổng thống, Cantwell bắt đầu dài dòng văn tự về những nguy cơ giả tạo của chủ nghĩa chống Mỹ. Cantwell chỉ phân tích, ông ta không giúp gì được. “Adrian à, cái nhu cầu lố bịch vừa muốn có quyền lực vừa được yêu thương của chúng ta luôn cuốn hút tôi. Ngài Tổng thống Mỹ đi nửa vòng trái đất và lật đổ tên chuyên quyền ở Minipotamia chỉ trong một buổi chiều. Ngay cả Caesar cũng chẳng làm nổi việc ấy. Bây giờ Tổng thống lại muốn được chính những kẻ chống đối ủng hộ mình. Càng sớm thôi lo lắng về chuyện được yêu thích hay không thì chúng ta càng thấy hạnh phúc và thỏa mãn hơn đấy”. “Anh lại đọc Machiavelli nữa hả Shep?” “Tôi chưa bao giờ ngừng đọc”. Ông đan các ngón tay lại để sau gáy rồi lại dang khủy tay ra để tránh Carter nhìn thấy nách của mình. “Có một tin đồn ác ý đang lan truyền trong vùng đấy”. “Thật à?”. Carter liếc nhìn đồng hồ đeo tay, Cantwell có vẻ không để ý đến cử chỉ này lắm. “Theo như tin đồn thì anh có liên quan đến vài hoạt động đặc biệt nào đó chống lại một anh bạn giàu có người Arập Xêút. Và đối tác của anh trong vụ này là, tôi chỉ nói điều tôi nghe thấy thôi Adrian à, những người Do Thái”. “Anh không nên nghe những tin đồn đó. Thế nó đồn đi bao xa rồi?”. Carter hỏi. “Xa hơn Langley”. Cantwell trả lời. Có nghĩa là lời đồn đã đến tai các cơ quan khác và nhanh chóng xâm lấn đến bề mặt của CIA, lần đầu tiên kể từ sự cải tổ đáng sợ của cộng đồng tình báo Mỹ. “Xa thế nào?” “Đủ xa để vài người trong thị trấn bắt đầu thấy bất an. Anh biết quy luật của cuộc chơi mà, Adrian. Có một đường ống giữa Riyadh và Washington, và tiền mặt chảy đầy qua đó. Vùng này đang bị cuốn đi bởi con sóng tiền của người Arập Xêút. Nó đổ vào cơ quan lập pháp và các công ty luật. Mẹ kiếp, bọn vận động hành lang đi ăn tối bằng số tiền ấy đấy. Người Arập Xêút thậm chí còn thành công trong việc tạo ra một hệ thống để hối lộ chúng ta trong khi ta vẫn còn tại chức. Mọi người biết rằng nếu không ‘canh chừng’ bọn Arập Xêút ấy khi họ còn làm việc cho Cục Dự trữ Liên bang thì chúng cũng sẽ ‘canh chừng’ họ khi họ làm ăn trong lĩnh vực tư nhân thôi. Có lẽ là ở dạng hợp đồng tư vấn sinh lợi hay việc hợp pháp nào đó. Có lẽ là một cái ghế ở viện nghiên cứu tẻ nhạt nào đó có liên quan đến băng đảng Arập Xêút. Và vì thế khi tin đồn lan truyền rằng ‘một gã cao bồi’ ở Langley đang chạy theo một hội những nhà hảo tâm rộng lượng thuộc hệ thống tội lỗi này, người ta dễ bồn chồn lắm chứ”. “Anh có nằm trong số đó không Shep?” “Tôi ấy à?”. Cantwell lắc đầu. “Tôi sẽ trở lại Boston ngay khi tôi được ‘phóng thích’. Nhưng có những người khác trong tòa nhà này đang dự định đi chơi vòng quanh phố xá và tiêu tiền như nước đấy”. “Nếu những nhà hảo tâm rộng lượng trong hệ thống tội lỗi ấy cũng đang chất xác những tên lái máy bay đâm thẳng vào các tòa cao ốc của chúng ta vào quan tài thì sao? Nếu như những người bạn này của chúng ta chán khủng bố đến tận cổ thì sao? Nếu như chúng sẵn sàng thỏa hiệp với quỷ dữ bằng bất cứ giá nào để bảo đảm sự sống còn của chúng, thậm chí là xác chết của dân Mỹ thì sao?” “Thì anh bắt tay và mỉm cười chứ sao”. Cantwell trả lời. “Và anh coi chủ nghĩa khủng bố như thể loại thuế phụ thu bất cập cho lần đổ xăng kế tiếp của anh. Anh vẫn lái chiếc Volvo cũ đấy chứ?” Cantwell biết rõ Carter lái xe gì vì phần chỗ đậu xe của hai người kế bên nhau. “Tôi không đủ khả năng mua xe mới. Làm sao dư tiền khi phải nuôi ba đứa con đang còn đi học cho được?” “Có lẽ anh nên đăng kí cho kế hoạch về hưu của bọn Arập Xêút. Tôi thấy một hợp đồng tư vấn sinh lợi trong tương lai của anh đấy”. “Đó không phải kiểu sống của tôi Shep à”. “Thế còn tin đồn thì sao? Có tin nào là thật không?” “Không có tin nào thật hết”. “Rất vui khi nghe anh xác nhận như thế. Tôi sẽ nhắn nhủ lại với mọi người. Chúc ngủ ngon, Adrian”. “Ngủ ngon, Shep”. Carter đi xuống lầu. Bãi giữ xe gần như trống. Carter bước lên chiếc Volvo của mình và chạy thẳng đến khu Tây Bắc Washington, theo đúng con đường ông ta và Gabriel đã đi tám tuần trước đó. Khi chạy ngang qua khu bất động sản của Zizi al-Bakari, ông cho xe chạy chậm lại và nhìn qua thanh chắn cổng lên vách núi, nơi điền trang toạ lạc với mặt chính quay ra sông. Đừng có đụng đến cô ấy, Carter cáu kỉnh. Đụng đến một sợi tóc trên đầu cô ấy thôi, tao sẽ tự tay giết mày. Chạy đến cầu Chain, ông nhìn vạch xăng trên bảng điều khiển xe. Vạch đỏ. Thật đúng lúc, ông nghĩ. Bình xăng gần như cạn hẳn. Cùng lúc đó, chiếc du thuyền Sun Dancer lượn quanh Grande Pointe và quay trở về nơi thả neo ở Gustavia. Gabriel ngồi một mình trên thành tàu, cặp kính áp sát mắt, nhìn phía đuôi con tàu Alexandra, nơi nhân viên đang vội vã chuẩn bị buổi ăn tối cho ba mươi người. Gabriel thấy họ như những nhân vật trong một bức tranh. Anh ta bắt đầu đặt tên. Bữa tiệc trên tàu hay Bữa tối cuối cùng nhỉ? Kia là Zizi, ngồi như một vị vua ở đầu bàn, như thể mọi sự kiện xảy ra trong buổi ăn tối chỉ là trò tiêu khiển mở đầu cho một chuyến du hành, mà nếu không có trò tiêu khiển ấy thì chuyến đi này sẽ đơn điệu nhàm chán làm sao. Bên trái hắn là cô con gái xinh đẹp Nadia. Bên phải hắn là chỉ huy thứ hai Daoud Hamza đang ngồi chọc nĩa vào thức ăn với dáng vẻ không ngon miệng cho lắm. Phía kia bàn là các luật sư, Abdul & Abdul, và Herr Wehrli, người trông coi tài sản của Zizi. Kia là Mansur, người sắp xếp các chuyến du lịch; Hassan, chuyên về truyền thông, bảo mật và những việc khác đại loại như thế. Rồi đến Jean-Michel, người chăm sóc thân thể cân đối của Zizi và cũng là một vệ sĩ bổ sung của ông trùm, kế bên là Monique, cô vợ mặt sưng mày sỉa của hắn. Có Rahimah Hamza và người tình của Hamid - ngôi sao điện ảnh Ai Cập xinh đẹp. Có nhóm tứ tấu gồm bốn gã vệ sĩ mặt bồn chồn lo lắng và vài cô gái quyết rũ với vẻ mặt vô tội. Ngồi ở góc xa đằng kia, rất xa so với tên trùm Zizi, là một người phụ nữ xinh đẹp trong bộ cánh bằng lụa màu vàng nghệ. Cô tạo nên sự cân bằng trong bố cục của bức tranh. Cô vô tội trước tội ác khủng khiếp của Zizi. Gabriel có thể thấy vẻ mặt sợ hãi đến cực độ của cô. Gabriel biết mình đang chứng kiến một buổi trình diễn. Nhưng buổi trình diễn này có lợi cho ai? Hắn ta hay Sarah? Nửa đêm, các nhân vật trong bức tranh đứng dậy và chúc nhau ngủ ngon. Sarah biến mất qua hành lang và Grabiel mất dấu cô một lần nữa. Zizi, Daoud Hamza, và Wazir bin Talal đi vào phòng Zizi. Gabriel nghĩ ra một bức tranh mới: Cuộc hẹn của ba con quỷ, không biết họa sĩ là ai. Năm phút sau Hassan chạy vào văn phòng và đưa cho Zizi chiếc điện thoại di động. Ai đang gọi hắn? Có phải là một trong những tên môi giới của Zizi xin hướng dẫn nên chọn vị trí nào cho buổi khai trương thương mại ở Luân Đôn không? Hay là Ahmed in Shafiq, kẻ sát nhân những người vô tội, nói cho Zizi biết nên xử cô gái của Gabriel như thế nào? Zizi nhận điện thoại và vẫy tay gọi Hassan đi ra ngoài. Wazir bin Talal, tên phụ trách an ninh, đi đến cửa sổ và hạ tất cả màn xuống. Sarah nhìn qua cửa cái và bật tất cả đèn sáng trong phòng. Cô bật truyền hình vệ tinh lên và chuyển ngay sang kênh CNN. Cảnh sát Đức xô xát với những người phản đối Mỹ trên phố. Thêm chứng cứ về thất bại của Mỹ ở Irắc, theo lời người phóng viên hụt hơi trên đài. Cô đi ra boong tàu và ngồi xuống. Chiếc thuyền buồm nhẹ cô quan sát kể từ khi rời bến cảng trưa hôm nay đã quay trở lại. Có phải là thuyền của Gabriel không nhỉ? Bin Shafiq còn sống hay chết? Cô chỉ biết rằng có chuyện gì đó tồi tệ đã xảy ra. Những chuyện như thế này thỉnh thoảng cũng xảy ra, Zizi đã từng nói. Đó là lí do tại sao chúng ta phải coi trọng vấn đề an ninh. Sarah cứ nhìn chiếc thuyền buồm chằm chằm, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của sự chuyển động trên boong tàu ấy, nhưng nó ở quá xa đến nỗi cô chẳng thấy gì. Chúng tôi ở ngay đây với cô Sarah à. Tất cả chúng tôi. Gió thốc lên. Cô vòng tay ôm đầu gối vào sát người mình, ngồi co ro. Tôi hi vọng tất cả các bạn vẫn còn ở đó, cô nghĩ. Và làm ơn, hãy cứu tôi khỏi chiếc tàu này trước khi họ giết tôi. Một lúc sau, cái lạnh làm cô muốn đi ngủ. Cô thức dậy vào một buổi bình minh xam xám và mưa nhẹ hạt trên nóc boong tàu. Ti vi vẫn bật; ngài Tổng thống đã đến Pari. Place de la Concorde trở thành một biển người biểu tình phản đối. Sarah bốc điện thoại lên và gọi cà phê. Đúng năm phút sau có người đem cà phê tới. Mọi thứ đều nguyên vẹn như cũ, ngoại trừ tấm giấy viết tay nhỏ được gấp làm đôi và đặt kế bên rổ bánh mì ngọt của cô. Tin nhắn từ Zizi. Tôi có công việc cho cô đây Sarah. Dọn đồ đạc và sẵn sàng rời khỏi đây lúc 9 giờ nhé. Chúng ta sẽ nói chuyện trước khi cô rời tàu. Sarah rót một cốc cà phê và đứng uống ngoài ban công. Lúc đó cô mới để ý rằng chiếc Alexandra đã rời Saint Bart và đang lướt trên biển. Cô nhìn tờ giấy của tên trùm một lần nữa. Nó không cho biết cô sẽ đi đâu.