húng mang trà kiểu Arập đựng trong một chiếc ly nhỏ. Tay Sarah vẫén đang bị còng. Để uống trà, cô phải cúi đầu xuống sát bàn húp sột soạt trong khi Muhammad nhìn cô đầy khinh bỉ. Hắn không hề động tới tách trà của mình. Tách trà đặt giữa quyển sổ ghi chép của hắn và khẩu súng lục đã nạp đạn. “Các ông không thể khiến tôi bốc khói rồi cho rằng không ai chú ý đến điều này”, cô nói. Hắn nhìn lên rồi chớp mắt nhanh vài lần. Sarah, giờ đây không còn bị vướng víu bởi abaya (khăn bịt mặt), quan sát kĩ hắn trong ánh đèn chói chang của phòng thẩm vấn. Hắn bị hói đến đỉnh đầu, số tóc và râu ít ỏi còn lại được cắt ngắn bằng nhau. Đôi mắt đen ẩn kín một phần sau kính, phản chiếu ánh đèn lấp lánh mỗi khi hắn ngước nhìn lên từ quyển sổ ghi chép. Nét mặt hắn cởi mở, và chân thật một cách lạ lùng, không giống một người thẩm vấn. Khuôn mặt hắn, khi không quát tháo đe dọa đánh cô, nhìn có vẻ khá dễ chịu. Đôi lúc Sarah có cảm giác hắn giống như một nhà báo trẻ hăng hái muốn đặt câu hỏi cho một chính trị gia đang đứng trên bục. “Mọi người ở Luân Đôn đều biết tôi đến biển Caribê cùng Zizi”, cô nói. “Tôi ở gần hai tuần trên chiếc Alexandra. Mọi người thấy tôi cùng ăn tối với ông ta tại các nhà hàng ở đảo Saint Bart’s. Tôi ra bãi biển cùng Nadia. Có ghi chép về chuyến bay tôi rời Saint Maarten và chuyến bay tôi đến Zurich. Các người không thể khiến tôi biến mất ở Thụy Sĩ. Các người sẽ không bao giờ thoát tội được”. “Nhưng mọi chuyện không xảy ra như vậy”, Muhhammad nói. “Mày thấy đấy, một lúc sau khi chuyến bay của mày hạ cánh, mày đăng ký tại khách sạn Dolder Grand. Người tiếp viên kiểm tra hộ chiếu của mày, theo như thông lệ ở Thụy Sĩ, rồi chuyển thông tin đến cảnh sát Thụy Sĩ, cũng theo thông lệ. Sau vài tiếng nghỉ ngơi, mày thức dậy, rồi sau khi uống cà phê sáng, mày đến phòng tập thể dục của khách sạn để luyện tập vào buổi sáng. Sau đó mày sẽ tắm rồi thay đồ để đi gặp khách hàng theo như cuộc hẹn. Một chiếc xe hơi sẽ đón mày vào lúc 9 giờ 45 phút rồi đưa mày đến khu nhà ở của Herr Klarsfeld ở Zurichberg. Ở đó, một vài người giúp việc trong nhà của Herr Klarfeld sẽ thấy mày. Sau khi xem xét bức Manet, mày sẽ gọi cho ông al-Bakari thông báo rằng mày không thể đạt được thỏa thuận về giá bán. Mày sẽ trở lại khách sạn Dolder Grand, làm thủ tục rời khách sạn, sau đó ra phi trường Kloten đáp máy bay trở lại Luân Đôn. Mày sẽ nghỉ ngơi hai ngày trong căn hộ ở Chelsea. Trong khoảng thời gian này, mày thực hiện vài cuộc gọi và tiêu tiền trên thẻ tín dụng. Sau đó, thật không may, mày sẽ biến mất không lời giải thích”. “Cô ta là ai?” “Tao chỉ có thể nói cô ta khá giống mày, đủ giống để có thể đi lại bằng hộ chiếu của mày và ra vào căn hộ của mày mà không khiến hàng xóm nghi ngờ. Chúng tao có người giúp đỡ ở châu Âu, Sarah, những người trợ giúp da trắng”. “Cảnh sát sẽ lần theo Zizi”. “Không ai lần theo Zizi al-Bakari. Dĩ nhiên cảnh sát sẽ có những câu hỏi, và sẽ được các luật sư của ngài al-Bakari trả lời vào khoảng thời gian thích hợp. Vấn đề này sẽ được xử lý êm thấm và chu đáo. Đây chính là ưu thế của người Arập Xêút. Bọn tao thực sự đứng trên luật pháp. Nhưng bây giờ hãy quay trở lại vấn đề trước mắt”. Hắn nhìn xuống gõ gõ đầu bút một cách thiếu kiên nhẫn vào quyển sổ ghi chép trống trơn. “Mày sẽ trả lời những câu hỏi của tao chứ, Sarah?” Cô gật đầu. “Hãy nói vâng, Sarah. Tao muốn mày quen với việc thẩm vấn”. “Vâng”, cô trả lời. “Vâng cái gì?” “Vâng, tôi sẽ trả lời những câu hỏi của ông”. “Tên của mày có phải là Sarah Bancroft không?” “Vâng”. “Rất tốt. Ngày và nơi sinh của mày có đúng như trên hộ chiếu không?” “Đúng”. “Cha mày có thật sự là Ủy viên Hội đồng Quản trị của Citibank không?á”. “Đúng”. “Có phải mày học trường Đại học Dartmouth, sau đó học sau đại học tại Viện Courtauld ở Luân Đôn không?” “Phải”. “Có phải mày là người viết bài luận văn được đánh giá cao về Chủ nghĩa Biểu hiện Đức khi học tiến sỹ tại Harvard không?” “Đúng vậy”. “Có phải mày đang làm cho Cục Tình báo Trung ương trong khoảng thời gian này không?” “Không”. “Mày gia nhập CIA khi nào?” “Tôi chưa bao giờ gia nhập CIA”. “Mày đang nói dối, Sarah”. “Tôi không nói dối”. “Mày gia nhập CIA khi nào?” “Tôi không phải là CIA”. “Thế mày làm cho ai?” Cô im lặng. “Trả lời câu hỏi đi, Sarah. Mày đang làm cho ai?” “Ông biết tôi đang làm cho ai”. “Tao muốn nghe chính mày nói ra điều này”. “Tôi đang làm việc cho Cục Tình báo của Israel”. Hắn gỡ kính ra, nhìn cô một lúc. “Mày đang nói sự thật chứ, Sarah?” “Vâng”. “Tao có thể nhận ra nếu mày nói dối”. “Tôi biết”. “Mày muốn uống thêm trà không?” Cô gật đầu. “Trả lời tao đi, Sarah. Mày có muốn uống thêm trà không?” “Có, tôi muốn uống thêm trà”. Muhammad dựa người ra thành ghế và đập tay vào cửa phòng. Cánh cửa mở ra ngay lập tức, Sarah nhìn thấy hai tên đang đứng gác bên ngoài. “Thêm trà”, Muhammad nói với chúng bằng tiếng Anh, sau đó giở sang trang mới trong quyển sổ ghi chép rồi ngước lên nhìn Sarah với khuôn mặt hăm hở và cởi mở. Sarah đưa tay lên chiếc đồng hồ tưởng tượng và cộng thêm mười phút để sống nữa. Mặc dù Sarah không biết việc này, nhưng nơi thẩm vấn cô là khu Uri có nhiều người theo đạo Thiên Chúa La Mã, ở vùng quên mà người Thụy Sĩ thường hay trìu mến gọi là Khu Trung tâm Thụy Sĩ. Ngôi nhà nằm ở hẻm núi hẹp bị cắt bởi một nhánh của sông Reuss. Chỉ có một con đường vào hẻm núi và một ngôi làng đơn độc nằm xiêu vẹo bên trên. Uzi Navot xem xét nhanh ngôi nhà, sau đó quay lại lái xe xuống hẻm núi. Theo kinh nghiệm của anh, người Thụy Sĩ là một trong những dân tộc thận trọng nhất trên thế giới. Những kẻ người Arập Xêút đã cố cắt đuôi anh ở Zurich, nhưng Navot đã được chuẩn bị. Anh luôn tin rằng khi theo đuôi một người chuyên nghiệp đang nghĩ mình sẽ bị theo dõi, tốt nhất nên để hắn ta nghĩ rằng thật sự hắn ta đang bị theo dõi - và quan trọng hơn, rằng những biện pháp phòng ngừa của hắn có tác dụng. Navot đã hi sinh ba người theo dõi của mình ở bắc Zurich để khiến hắn tin như vậy. Chính Navot là người đã dõi theo chiếc Mercedes với biển số ngoại giao quẹo vào khu phố Công Nghiệp, và hai mươi phút sau chính Navot đã theo đuôi bọn chúng rời khỏi Zurich. Nhóm của anh tập hợp lại ở dọc biển Zurichsee và cùng anh theo dõi chiếc xe đi hướng nam với Uri. Thời tiết xấu đã giúp họ có thêm lớp bảo vệ, cũng như bây giờ thời tiết đang giúp Navot khi anh ra khỏi xe nhìn lặng lẽ qua hàng cây dày đặc xuống ngôi nhà ván, với khẩu súng trong bàn tay đang giơ lên. Ba mươi phút sau, sau khi quan sát xong khu đất và các biện pháp an ninh, anh ngồi vào sau tay lái, chạy xe xuống hẻm núi về phía thung lũng sông Reuss. Tới nơi, anh đỗ xe tại bãi đất dọc bờ sông chờ Gabriel từ Zurich sang. “Ai là sỹ quan chỉ huy mày?” “Tôi không biết tên anh ta”. “Tao sẽ hỏi mày thêm lần nữa. Tên sỹ quan chỉ huy của mày là gì?” “Tôi đã nói với ông, tôi không biết anh ta. Ít nhất là tên thật của anh ta”. “Mày biết hắn dưới cái tên nào?” Đừng tiết lộ Gabriel, cô nghĩ. Cô thốt ra cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu. “Anh ta tự xưng là Ben”. “Ben à?” “Vâng, Ben”. “Mày chắc chứ? Ben?” “Đó không phải là tên thật của anh ta. Đó chỉ là tên anh ta tự gọi mình”. “Sao mày biết đó không phải là tên thật của hắn?” Cô thầm cảm ơn sự chính xác trong câu hỏi của Muhammad, vì việc này sẽ giúp cô cộng thêm vài phút vào chiếc đồng hồ tưởng tượng. “Vì anh ta bảo với tôi đó không phải là tên thật của anh ta”. “Mày tin hắn à?” “Tôi nghĩ mình chẳng có lí do gì không tin anh ta”. “Mày gặp người đàn ông này khi nào?” “Lúc đó là tháng 12”. “Ở đâu?” “Ở Washington”. “Thời gian nào trong ngày?” “Vào buổi tối”. “Anh ta đến nhà mày. Nơi mày làm việc?”. “Lúc đó là sau giờ làm. Tôi đang trên đường về nhà”. “Kể tao nghe mọi việc diễn ra như thế nào, Sarah. Kể tao nghe mọi thứ”. Và cô làm đúng theo lời hắn, kể từng mẩu một, từng chút một. “Căn nhà chúng đưa mày tới là ở đâu?” “Ở Georgetown”. “Đường nào ở Georgetown?” “Trời tối lắm. Tôi không nhớ”. “Đường nào ở Georgetown, Sarah?” “Đường N, tôi nghĩ thế”. “Mày nghĩ, hay mày biết?” “Đó là đường N”. “Địa chỉ?” “Không có địa chỉ”. “Dãy nhà nào?” “Tôi không nhớ nổi”. “Nó nằm ở Đông hay Tây đại lộ Winconsin, Sarah?” “Ông biết Georgetown à?” “Đông hay Tây?” “Tây. Chắc chắn là phía Tây”. “Dãy nhà nào, Sarah?” “Tôi nghĩ là giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”. “Mày nghĩ?” “Giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”. “Phía đường nào?” “Ý ông là gì?” “Phía đường nào, Sarah? Bắc hay Nam?” “Nam. Chắc chắn là phía Nam”. Vào lúc 2 giờ 45 phút sáng, Navot nhìn thấy chiếc Audi đang chạy với tốc độ nhanh tới mức nguy hiểm, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thế này. Khi chiếc xe lao ngang qua làm bắn tuyết và bùn sang hai bên, anh thoáng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của bốn người đang ngồi trong xe. Anh lấy điện thoại bấm số. “Anh vừa phóng ngang qua mặt tôi”, anh nói bình tĩnh, sau đó nhìn vào gương thấy chiếc Audi cua gấp lại gần như muốn lật. Từ từ thôi, Gabriel, anh nghĩ. Từ từ thôi. “Người đầu tiên phỏng vấn mày là ai? Người của CIA hay tên Do Thái?” “Người Mỹ”. “Họ hỏi mày những điều gì?” “Chúng tôi nói chung chung về cuộc chiến chống khủng bố”. “Ví dụ?” “Ông ta hỏi tôi theo tôi nghĩ cần phải xử lí như thế nào đối với những tên khủng bố. Bọn chúng nên được đưa tới Mỹ để xét xử hay giết tại hiện trường bởi những người mặc đồ đen?” “Những người mặc đồ đen?” “Đó là cách ông ta gọi họ”. “Có nghĩa là Lực lượng Đặc nhiệm? Những tên thuộc đội chuyên ám sát của CIA? Hay SEAL của Hải quân?” “Tôi nghĩ vậy”. “Thế mày trả lời hắn như thế nào?” “Ông thực sự muốn biết à?” “Nếu không thì tao đã không hỏi”. Thế là cô kể cho hắn nghe, từng chút một. Họ đứng thành vòng tròn dọc bờ sông trong khi Navot nhanh chóng thuật lại cho Gabriel tất cả những thông tin anh nắm được. “Có lính canh nào nữa ở sân không, hay chỉ hai tên ở cổng trước?” “Tôi không biết”. “Có bao nhiêu tên bên trong ngôi nhà?” “Tôi không biết”. “Cậu có thấy bọn chúng đưa cô ấy vào đâu không?” “Không”. “Có xe cộ nào khác chạy trên đường không?” “Đường này rất ít xe cộ”. “Thông tin như vậy không đủ, Uzi”. “Tôi đã làm hết khả năng của mình rồi”. “Tôi biết”. “Tôi nghĩ anh có hai phương án, Gabriel ạ. Phương án một: thực hiện một phi vụ khác. Việc này sẽ mất thời gian. Không phải là không có rủi ro. Nếu thấy chúng ta tới, đầu tiên bọn chúng sẽ giết chết Sarah”. “Phương án hai?” “Xông thẳng vào. Tôi chọn phương án hai. Chỉ Chúa mới biết Sarah đang phải chịu đựng những gì ở trong đó”. Gabriel nhìn xuống tuyết suy nghĩ một lúc. “Chúng ta sẽ đột nhập vào ngay bây giờ”, anh quyết định. “Cậu, Mikhail, Yaakov, và tôi”. “Giải cứu con tin không phải nghề của tôi, Gabriel. Tôi chỉ là người đưa tin”. “Đây cũng không phải là nghề của Eli, nhưng tôi cần ít nhất bốn người. Moshe và Eli sẽ ngồi đợi trong xe hơi. Khi tôi ra dấu, họ sẽ đến đón chúng ta”. “Khi nào thì gã người Do Thái đến?” “Tôi không thể nhớ thời gian đích xác”. “Khoảng nào?” “Tôi không nhớ được. Vào khoảng nửa tiếng sau khi tôi đến, như vậy tôi đoán khoảng bảy giờ”. “Thế hắn xưng mình là Ben à?” “Không phải ngay lúc đó”. “Ban đầu hắn dùng tên khác à?” “Không. Ban đầu anh ta không xưng tên”. “Tả hắn cho tao nghe thử”. “Anh ta người khá nhỏ nhắn”. “Hắn ta mập hay gầy?” “Gầy”. “Rất gầy?” “Anh ta không quá gầy”. “Có tóc chứ?” “Vâng”. “Màu tóc?” “Màu đen”. “Ngắn hay dài?” “Ngắn”. “Tóc hắn có khúc nào bị muối tiêu không?” “Không”. Muhammad bình tĩnh đặt cây bút lên quyển sổ. “Mày đang nói dối tao, Sarah. Nếu mày nói dối tao lần nữa, cuộc chuyện trò của chúng ta sẽ chấm dứt. Bọn tao sẽ dùng cách khác để moi thông tin của mày. Hiểu chưa?” Cô gật đầu. “Trả lời tao đi, Sarah”. “Vâng, tôi hiểu”. “Tốt”. “Bây giờ hãy tả chính xác cho tao nghe cái gã Do Thái tự gọi mình là Ben”.