rước khi lên đường qua tây bán cầu, Văn Bình đọc lại lần chót những lời dặn dò của ông tổng giám đốc được đánh máy bằng máy chữ IBM trên tờ giấy vàng có tác dụng tan thành bột nếu được ngâm trong nước. Chàng hơi ngạc nhiên khi thấy tên chàng bị đánh sai. Thay vì "đại tá Tống Văn Bình", Nguyên Hương đánh lộn ra "đại tá Tống Văn Tình". Trên bàn máy IBM, chữ B ở xa chữ T gần đốt ngón tay, Nguyên Hương không thể lầm lẫn, nàng có tài đánh máy không bao giờ sai mặc dầu không cần nhìn chữ, nàng lại quen tên chàng vì trong đời nàng đã nhắc đến hàng trăm triệu lần. Chàng định gọi điện thoại từ Tân-sơn-nhứt về văn phòng cho nàng song gã bổi của nhà hàng đã lễ phép tiến lại và hỏi nhỏ vào tai chàng: -Thưa, ngài có phải là đại tá Tống Tình không ạ? Chàng lắc đầu: -Không. Gã bổi nhai nhải: -Thưa, có điện thoại gấp gọi ngài. Cháu được lệnh tìm kiếm một ông khách mặc áo mông-ta-gu màu huyết dụ, quần chẽn vàng, giầy trắng, dây lưng đỏ, trong nhà hàng chỉ mỗi mình ngài phục sức như vậy. Ngài giận bà nhà phải không? Cháu xin lỗi đã làm ngài buổn. Văn Bình cau mặt đứng dậy. Gã bổi nói đúng. Trong đám thực khách ngổi chờ máy bay, chỉ có mình chàng phục sức kiểu híp-py đỏ vàng trắng đen loạn xạ. Chẳng riêng gì trong nhà hàng Tân-sơn-nhứt thưa thớt, dẫu trong chợ Bến Thành đông nghẹt người ta cũng tìm chàng trong chớp mắt. Biết là Nguyên Hương xỏ ngọt, chàng đành chào thua. Chàng vừa áp ống nói vào tai thì Nguyên Hương đã tuôn ra một bài "luân lý giáo khoa thư lớp ba": -Chào ông đại tá Tống Tình, em không đánh máy lầm đâu, em cố tình đấy! Anh coi chừng, chuyến này qua Mễ-tây- cơ phải cải tà quy chính, anh chỉ được phép đi coi múa vu-đu, coi đá gà, coi đấu bò, ngoài ra không được làm gì hết. Em đã mua vé sẵn cho Quỳnh Loan, nếu anh thất hứa thì đừng trách em ác... Em có tai, mắt khắp nơi, anh đã biết. Nguyên Hương chỉ nói thế rổi cúp điện thoại. Nàng dọa thật, không phải dọa chơi, nhân viên của ông Hoàng ở khắp nơi trên thế giới đều là tai mắt của nàng. Quỳnh Loan, mẹ của Văn Hoàng, con trai duy nhất của chàng, lại vừa bình phục sau cuộc giải phẩu ruột dư, chàng không thể làm nàng phật ý, và chàng lại không thể làm Văn Hoàng phật ý sau những ngày, những tuần dài lê thê nó bị Quốc Tế Tình Báo sở bắt giam (1). Vì vậy Văn Bình rầu thối ruột trên chuyến phi cơ qua Mễ-tây-cơ. Nhưng Nguyên Hương biết một mà không biết hai vì cho Văn Bình đi Mễ cũng như thả hổ về rừng. Nguyên Hương không biết rằng Mễ là thiên đường của giống đực rựa. Múa vu-đu vũ cổ truyền tôn giáo, cũng là di.p để biểu diễn ái ân xác thịt. Đá gà cũng vậy, người ta thường biến các cuộc đá gà thành hội họp yêu đương. Trai gái đa tình rủ nhau đi xem đấu bỏ những ngày cuối tuần để lấy sinh lực cho ban đêm rửng mỡ. Phái Văn Bình qua Mễ-tây-cợ, dẫu với công tác nghề nghiệp quan trọng, hết sức bận bịu, thập phần nguy hiểm, thật là dại dột, phương chi chuyến này, Văn Bình lại được đặt chân xuống Juarez, một thị trấn dạ lạc dọc biên giới Mễ- tât-cơ, nơi mà đàn ông khỏe mạnh và đàn bà khỏe mạnh coi là động tiên. Giới ăn chơi đã đặt tên cho Doarệ là họa hậu biên giới, nói cách khác, trong số các th[trấn biên giới thì Doarê là địa điểm có nhiều thú yêu hoa đặc sắc nhật. Người Mễ có tính "yêu chết bỏ", tại Doarê khẩu hiệu "yêu chết bỏ" đã được tôn làm khuôn vàng thước ngọc cho gần ba trăm ngàn dân dịa phương và khách du hí từ Mỹ kéo sang nườm nượp. Văn Bình đến Doarê với nhiệm vụ tóm bắt một tên trùm buôn gái người Á. Chàng mong công việc kéo dài, càng dài thời gian càng lợi, song chỉ một tuần là hoàn tất. Theo chỉ thị, chàng phải trở về Sài Gòn ngay sau khi công việc kết thúc. Đêm cuối cùng ở tại Doarê, chàng dự tính du hí suốt sáng, chàng sửa soạn lên đường thì thần may mắn hiện ra. Hiện ra với đại tá Pít, cộng sự viên thân cận của ông Sì-mít, tổng giám đốc C.I.A., Trung Ương Tình Báo Mỹ. Khi ấy chàng đang say sưa với người đẹp trong hộp đêm 4 Bông Hổng. Danh từ "ngựời đẹp" ẹ quá đáng, vì khác Sài Gòn, thú vui xác thịt đã được hợp pháp hóa tại Doarê, chị em ta khó thể hành nghề lậu thuế trước đạo quân cảnh sát và mật báo viên hùng hậu. Thú vui của Doarê được coi là khá độc đáo, vì ngoài sự lựa chọn tùy thích, khách còn có thê xem xi-nê, không phải xi-nê con heo thường thấy khắp nơi, mà là xi-nê sống, nam nữ diễn viên thi thố tài năng ái tình trong phòng gắn máy lạnh, bên ngoài có phú-lít canh gác cẩn mật. Cái khoái thứ hai là khách có thể ngủ đêm an toàn khỏi phải gối đầu trên bót-phợi, nơm nớp sợ túi tiền không cánh mà bay. Khách có thể treo y phục lên mắc, và tự do kéo một giấc say sưa cho đến trưa hôm sạu. Ngoài sự an toàn về tiền bạc, khách còn được hưởng sự an toàn về sức khỏe nữa. Đại khái các quán dạ lạc đều được thiết trí như nhau: khách bước qua khung cửa ngay bên mũi một cảnh sát viên mặc đổng phục, và bên trong đèn sáng, với hàng chục cái bàn, hàng chục cô gái, khách được quyền tuyển lựa, xong xuôi được quyền hỏi giá (nếu cần có quyền trả giá) rổi nữ điều dưỡng của Nhà Nước sẽ đến tận giường để... khám. Nếu khách có bệnh, họ sẽ mời ra ngoài. Văn Bình la cà tại hộp đêm 4 Bông Hổng, không phải để giải quyết vấn đề xác thịt. Chàng thuộc một đẳng cấp đàn ông khác thường, chàng yêu si mê, yêu cuổng loạn, nhưng vẫn giữ vẻ bay bướm thượng lưu, chỉ những khi bị công tác bắt buộc, chàng mới mò xuống xóm yên hoa. Chàng đến hộp đêm này là vì trót hẹn với người yêu mũm mĩm của tên trùm buôn gái tơ mà chàng vừa bắt giữ, giao lại cho cảnh Sát Quốc Tế Interpol. về phương diện tư pháp, nàng là kẻ có tội, ra tòa, quan tòa hiền hậu nhất cũng phải tuyên phạt 2, 3 năm tù là nhẹ, song nàng lại có bộ mặt và tấm thân quá đẹp, miệng cười quá xinh và những cử chỉ quá hấp dẫn nên chàng đã mở cửa hậu cho nàng trốn thoát. Kể ra, Văn Bình không đến nỗi dại gái: sở dĩ chàng giải vây cho nàng chẳng phải vì chàng bị những đường cong núi lửa của nàng hớp hổn, mà chính nàng đã giúp chàng thập cổ tên anh chị quốc tế tuy nàng đối với hắn theo tình "già nhân ngãi, non vợ chổng" từ lâu. Chàng đột nhập vào sào huyệt tên anh chị, hắn bị kẹt trong phòng tắm nên ra lệnh cho nàng dùng súng bắn chàng, nàng giơ súng lên, không chịu lảy cò, vì, như lời nàng tâm sự, "anh đẹp trai quá, em không đủ can đảm giết anh". Tên nàng là Têquila. Sáng hôm sau, chàng phải giả từ thị trấn Duarê về quê hương, quê hương đáng yêu, chàng nhớ lắm, nhưng vũ trường bị đóng chặt, thanh niên đa tình chỉ có thể tìm quên ở những địa ngục buổn nôn mang cái tên buổn nôn như Chuổng Chó, cho nên Văn Bình đành thất lỗi với quê hương để vọng ngoại Doarê. Sáng hôm sau, nàng cũng phải giả từ Doarê vì công an Interpol săn đuổi nàng ráo riết như phù thủy săn đuổi tà ma. Tên nàng là Têquila có khác, ngổi bên nàng, Văn Bình có trái tim đúc bê-tông mà cũng ngả nghiêng. Têquila là một trong các loại rượu mạnh nấu bằng mía được thông dụng trong giới nhậu Mễ-tây-cơ. uống têquila phải theo một thể thức đặc biệt: mỗi ly rượu được kèm theo với múi chanh và dúm muối hột. Có người rắc muối ở lưng bàn tay, thè lưỡi liếm muối, sau đó mút một hơi chanh, mùi mặng hòa trộn với mùi chua rổi mới mạnh dạn nâng ly, nốc cạn. Nhưng chỉ có dân nhậu hữu hạn mới đủ bản lãnh uống cạn ly têquila. Khách chơi Mỹ, thân hình đổ sộ, huýt-ky uống thả giàn không say vậy mà sợ têquila hơn đàn bà sợ ông già 35, khi uống, họ chỉ dám nhắp từng hớp nhỏ. Vì uống một ngụm cạn ly là đâu óc choáng váng, uống cạn ly thứ nhì là phải dùng bốn chân mới đi được. Cô gái tứ chiến đem lòng yêu Văn Bình vì chàng đẹp trai, đến khi choàng vai bá cổ chàng, nàng còn yêu hơn, vì điệu nghệ của chàng vượt xa thanh niên Mễ một bậc, chàng nốc têquila vô hổi kỳ trận từ chập tối đến nửa đêm, đốn ngã gần hai chai mà mặt vẫn tỉnh khô. Đêm ấy, nhà hàng 4 Bông Hổng có một cuộc trình diễn thoát y đặc biệt. Thoát y Mễ khác thoát y ở nơi khác, Pháp thoát y huyền ảo, Nhật thoát y trơ trẽn, Sài Gòn thoát y nửa nạc nửa mỡ là vì sở kiểm tục Pháp khác sở kiểm tục Nhật, sở kiểm tục khác sở kiểm tục Sài Gòn, còn ở Mễ, sở kiểm tục rất hiền, nếu không hiền thì tiền chè là cũng làm ông cò nhũn như con chi chi, song gái thoát y Mễ lại chỉ hành nghề theo khoái cảm từng lúc. Không khoái thì chỉ thoát y theo kiểu Sài Gòn, khoái thêm chút nữa thì cỡ bỏ tất cả, còn khoái thêm thêm chút nữa thì ưỡn ẹo giữa đám du khách sẳn sàng chiều chuộng như giống nghiên nguyên, khoái hết mực thì tìm trong đám vương tôn công tử để chọn ông hoàng một đêm. Vô phước cho Văn Bình (theo một số người biết chuyện và quen thân thì đó lại là tốt phước bậc nhất) cô gái thoát y trên sân khấu bỏ túi lại tuyển chọn chàng làm ông hoàng đặc biệt. Cô gái khá cân đối, nhan sắc khá mê ly, không mất một đổng xu teng mà được sánh vai mỹ nhân thì còn thú nào bằng, nên Văn Bình nụốt nước miếng ừng ực. Cô gái tiến lại, cọ sát da trắng nõn vào vai chàng, chàng liếc nhìn Têquila chờ nàng gật đầu hoặc tiếp tục giữ vẻ mặt thản nhiên thì sẽ đứng dậy. Nhưng bão táp hãi hùng đã xảy ra.... Cộ gái thoát y vừa chạm người chàng, nụ cười tươi như hoa mới nở được non nửa trên cặp môi dầy tràn trề nhựa sống thì "hấp". Têquila đậ xô ghế. Máu giang hổ của thời cặp đôi với gã trùm buôn gái quốc tế sôi sục trong huyết quản, nàng rút phăng chiếc giầy cao gót, choảng thẳng tay vào giữa mặt tình địch. Chắc Têquila đã được huấn luyện về cận vệ chiến nến đánh đòn đúng phương pháp, đế giầy nhọn hoắt bằng nhom tiện phăng chiếc răng cửa của người đẹp thoát y. Cái răng, cái tóc là góc con người, hàm răng của vũ nữ thoát y lại đáng quý hơn hàm răng của người thường, nhiều khi bảo hiểm cả chục ngàn đô-la, vậy mà ngay trọng phút xáp trận đầu tiên, Têquila đã tiện mất một cái, cái răng cửa đắt tiền nhất. Cô gái thoát y rú lên, lăn xả vào, cầm chai rượu giáng vào trán Têquila. Bên nửa cân, bên tám lạng. Tệquila xin được củạ địch một cái răng cửa thì đền lại cô gái thoát y cũng làm trán Têquila rách một mảng dài. Điên tiết, Têquila giành lấy cái chai, ghè vào mép bàn đập vỡ cổ, mảng thủy tinh lởm chởm, và dùng làm khí giới tả xụng hữu đột. Cô gái thoát y ngã chúi xuống đất máu me đầy mặt: nếu Văn Bình can chậm thì nàng đã biến thành đống thịt nhầy nhụa, có nằm bệnh viện thẩm mỹ thì cũng tốn 4, 5 chục ngàn mỹ kim và 4, 5 tháng vá thịt, tiếp da mới mong phục hổi được phân nửa sắc đẹp ngày trước. Quán rượu lập tức biến thành sân khấu của một cuộc loạn đả. Thực khách nổi máu anh hùng chia làm hai phe, song hầu hết đều đứng về phe cô gái thoát y. Lý do của sự thiên vị này rất dễ hiểu: ngạy từ khi nàng múa nhảy xong, rời bục gỗ xuống ngổi cùng bàn với Văn Bình, mọi người đều ngó chàng bằng cặp mắt thèm thuổng pha lẫn tức tối. Họ ghen tị vì chàng đẹp trai hơn họ. Họ ghẹn tị vì chàng đã phỗng người đẹp củạ họ. Họ muốn dần cho chàng một trận mà chưa tìm ra cơ hội. Cơ hội này đã đến. Trận đấu giữa hai mỹ nhân vừa chấm dứt thì trận đấu khác diễn ra, ác liệt hơn, giữa bọn đàn ông tự ti mặc cảm và Văn Bình. Họ xáp lại, toan ăn tươi nuốt ssống chàng. Họ là dân đấu bò rừng nên có những cử chỉ tiến thoái nhanh nhẹn và nhẹ nhàng, sức đánh cũng khá mạnh mẽ. Nhưng họ không thể ngờ được con người uống rượu têquila như hũ chìm trong hộp đêm 4 Bông Hổng kia lại là đệ nhất võ sư. Bởi vậy, họ chưa léo hánh được đến da thịt Văn Bình thì đã lăn chiêng, đầu bưu, tai sứt, máu chảy đầm đìa. Tinh thần dân tộc lan sang cả cảnh sát viên. Thấy đổng bào của họ ngã xuống như sung rụng, họ liền xông vào trợ chiến. Văn Bình vừa đánh đỡ, vừa tìm cách rút ra ngoài. Kinh nghiệm cho biết mãnh hổ nan địch quần hổ, nếu cuộc quần thảo kéo dài, chàng sẽ phải đương đầu với toàn thể người Mễ ở Doarệ; chàng lại không dám nặng tay sợ gây thương tích trầm trọng, cho nên thượng sách là chuổn êm, càng sớm càng tốt. Nhưng vòng vây mỗi lúc một thắt chặt, chàng cảm thấy không còn cách nào khác ngoài cách xử dụng đòn hiểm. May thay, cô gái thoát y tỉnh dậy trên sàn nhà, nàng quên bẵng bị đau ê chề, nàng chỉ nghĩ đến Văn Bình đáng ỵêu và đáng thương đang bị đổng bào nàng vây đánh trối chết, nên nàng thu hết sức lực vào miệng, thét lớn yêu cầu mọi người ngừng lại. Mỹ nhân Têquila cũng khóc rống lên thảm thiết. Sự can thiệp của người đẹp chỉ cứu được Văn Bình tạm thời. Bọn đàn ông Mễ chợt nghĩ đến lý do thầm kín đã khiến Têquila và cô gái thoát y bắt tay giải hòa sau khi đánh nhau mang đầy thương tích. Lý do này là bộ mã khôi ngô và điệu nghệ của thằng thanh niên da vàng có luổng mắt quyến rũ và cái miệng ngọt ngào, vô cùng ngọt ngào. Phải làm hắn đui một mắt. Phải làm hắn sứt một bên môi. Nếu hắn tiếp tục lành lặn, tiếp tục vận dụng hào quang kỳ lạ của đôi mắt, sức hút quái đản của cặp môi chẳng sớm thì muộn, vợ con họ, nhân tình bệ bỏng của họ, đàn bà cọn gái thuộc mọi lứa tuổi, mọi thành phần trên xứ sở của họ, sẽ đeo dính lấy. Phải tặng hắn một bài học để đời, nếu không.... Một gã thực khách lực lưỡng, cánh tay xâm tràm, đầu đội mũ rơm nghênh ngang, lớn tiếng hê mọi người tiếp tục đánh Văn Bình. Đám đông còn trù trừ trong khi gã rút dao nhọn trong mình ra, bước lên sửa soạn ăn thua đủ. Thì đại tá Pít lò dò tới. Xíp-lê cảnh sát reo vang. Nếu dân Sài Gòn coi tu-huýt cảnh sát là một trong nhiều âm thanh quen thuộc, cũng quen thuộc như tiếng cô bé rao bánh mì trong hẻm buổi sáng, thì dân Mễ, đặc biệt là dân Doarê lại cho là chuyện hãn hữu. Rất ít khi xảy ra cảnh xe công an mở đèn đỏ huýt còi oạp oạp oạp oạp mở đường, nên sau loạt síp-lê oạp oạp đầu tiên, đám đông giãn ra, đoàn xe díp thắng lại kèn kẹt bên ngoài, một đống người mặc đổng phục nhảy xuống, chạy vào thình thịch. Pít, cộng sự viên của ông Sì-mít cùng đến với ông cảnh sát trưởng dịa phương. Sau vài phút đổng hổ líu la líu lo tiếng Tây-ban-nha, cuộc ẩu đả được giận xếp ổn thỏa, và mọi người bắt tay nhau, ôm nhau hôn rối rít, rượu têquila được mang ra cả két, toàn thể sà vào uống say bí tỉ. Sở dĩ có cuộc ẩu đả vô ích là do sự thận trọng vô ích của C.I.A.. Theo chỉ thị của ông Sì-mít, đại tá Pít qua thị trấn Doarê để gặp Văn Bình. Vì không muốn lộ diện giữa đám anh chị quốc tế, đại tá Pít nhờ một mật báo viên hành nghề vũ nữ thoát y trong thị trấn biên giới làm nhiệm vụ móc nối. Mật báo viên này là cô gái có những đường cong nẩy lửa đã tóng tình Văn Bình sau màn biểu diễn cởi quần áo trên sân khấu trong hộp đêm 4 Bông Hổng.... Phương pháp móc nối giản dị nhất và tiện lợi nhất là nói nhỏ vào tai Văn Bình là đại tá Pít đang chờ chàng tại văn phòng viên cảnh sát trưởng. Đại tá Pít cũng dặn nàng nói nhỏ vào tai Văn Bình như vậy. Nhưng đến khi rời bục gỗ, ngổi sát Văn Bình, cô gái mật báo viên C.I.A. bỗng quên hết chỉ thị và chỉ nghĩ đến ái tình. Cuộc đấm đá hỗn độn đã diễn ra ngoài ý muốn của nàng. Nàng kêu cứu vì thấy Văn Bình đẹp trai, nhưng phần khác vì chợt nhớ lại nhiệm vụ. Trong cuộc đấu tửu xô bổ tiếp sau, trai gái ôm nhau nằm la liệt trên sàn nhảy hộp đêm. Còn Văn Bình và đại tá Pít thì lặng lẽ rút ra ngoài, trèo lên xe díp, phóng một mạch qua biên giới, về lãnh thổ Mỹ. Đại tá Pít là bạn thân của Văn Bình. Hai người quẹn nhạu vì tình đổng nghiệp, nhưng sau nhiều điệp vị hoạt động bên nhau, họ trở thành bạn thân. Lần hoạt động gần nhất, Văn Bình đã cứu đại tá Pít khỏi chết tại Thái Lan. Khi ấy Pít vừa cưới vợ sau nhiều năm thờ chủ nghĩa độc thân, và vợ trẻ của chàng vừa đẻ con. Mới xa bạn chưa đầy một năm mà Văn Bình thấy bạn đã đổi khác, gần như hoàn toàn đổi khác, chàng nhận thấy những phương tây chóng già, Pít mới 30, nghĩa là còn trẻ hơn chàng, thế mà bụng đã bắt đầu phưỡn ra, cạnh tranh với lồng ngực rụch rịch thót lại và tệ hơn nữa là Pít sắp sửa có hai cằm. Hồi Văn Bình gặp Pít trong phòng giấy ông Sì-mít ở Hoa-thịnh-đốn, trước ngày chàng đội lốt bác sĩ Lý Dĩ đột nhập lãnh thổ Liên Sô, chàng đã phải tắc tỏm khen ngợi những bắp thịt tròn lẳn và cái bụng mỏng lét của đại tá Pít. Pít là đệ tử trung thành của môn chạy bộ, và nhất là môn quần vợt. Dầu bận bịu đến đâu, chàng cũng giành mỗi buổi chiều một giờ để vác vợt ra sân quần. Chủ nhật nào chàng cũng hì hà hì hục chạy bộ từ trụ sở Trung ương C.I.A. ở ngoại ô thành phố về tận vùng quê xa lắc. Văn Bình bàng hoàng vì đại tá Pít cường tráng và cân đối ngày xưa không còn nữa. Năm ngoái, Pít đã thay đổi, dáng đi bắt đầu lừng khừng theo điệu công chức cao cấp khiến Văn Bình lo âu và thương hại. Nhưng Pít đang đứng trước mặt chàng còn lừng khừng hơn nữa. Pít xô cửa một tiệm ăn bên đường. Đêm đã khuya lắm song con người ở đây dường như không quan tâm đến sự phân biệt ngày và đêm, quán nào cũng đều mở cửa, và có khách lái xe qua, đổ xô vào ăn uống đông nườm mượp. Văn Bình ngần ngại nhìn bạn. Ngón tay xưa vuông cạnh vì được tập dượt hàng ngày để đánh atêmi đã trắng bệu, một màu trắng lười biếng và bẩn thỉu. Cái nhẫn cưới bằng vàng tây nằm chềnh ềnh trên làn da mềm nhũn, vết tròn in hằn vào thịt, chứng tỏ Pít đã tăng nhiều cân thịt từ ngày lấy vợ, và chắc chắn chàng chưa hề có can đảm tháo nhẫn cưới ra giấu giếm trong túi, để nói dối giai nhân ngoài phố là chàng chưa vợ. Bắt gặp đôi mắt tò mò của Văn Bình, Pít đỏ mặt: -Dạo này, phải ở lì trong văn phòng, không được đi đâu nên tôi mập quá! Rổi đổi giọng: -Chẳng bù với anh, quanh năm suốt tháng được tự do bay nhảy, không bị ai dòm ngó, ngăn cấm. Văn Bình đỡ ly hýt-ky do bạn vừa rót đầy: -Tại sao anh biết tôi ở Doarê? ông Sì-mít hay ông Hoàng? Đại tá Pít đáp: -Cả hai. -Ông Hoàng muốn tôi tạm thời hợp tác với các anh? -Phải. -Mật cụ liên lạc? Mỗi lần Văn Bình xuất ngoại vì công việc hoặc vì du hí, ông Hoàng đều không quên dặn chàng mang theo một vật dụng tùy thân, hoặc là nửa cái mu-xoa, cái cà-vạt, hoặc cái quẹt máy, trọng trường hợp người nào xuất trình mật cụ định sẵn thì chàng được quyền hợp tác trong khi chờ đợi sự xác nhận bằng điện tín của ông Hoàng. Đại tá Pít rút cái quẹt máy Rôn-sơn trong túi ra, bật cho lửa cháy rồi tắt. Chàng bật tắt như vậy 3 lần. Văn Bình cười: -Cám ơn anh. Xin anh tha lỗi. Bạn là bạn, nhưng công việc là công việc. Giờ đây, ông Sì-mít muốn tôi làm gì? Ám sát ông đại sứ Liên Sô tại Mễ-tây-cơ? Lẻn vào phòng riêng ông tổng thơ ký u Thant để chụp trộm bức thư cho Chu Ân Lai vừa gởi đến liên hệ đến cuộc chiến Đông Dương? Bảo anh biết, tôi chán đấm đá, chán bắn súng lắm rồi, nếu ông Sì-mít chỉ cần một võ sĩ nhu đạo, một tay bắn giỏi thì tôi xin kiếu. Văn Bình cười ha hả. Tiếng cười ngạo nghễ của chàng làm tửu khách trong nhà hàng giật mình quay lại nhìn. Chàng tưởng Pít khó chịu, vì cười to để mọi người lưu ý là điều cấm kỵ trong nghề, nhất là mỗi khi hoạt động ở nước ngoài, và không biết vì cố ý đùa nghịch hay vì lây bệnh cười bất chấp thiên hạ của Văn Bình mà chàng phá lên cười một tràng dài. Rồi như tuân theo một lệnh vô hình, mọi người trong quán rượu đêm đua nhau cười ha hả. Thấy lạ, Văn Bình đột nín cười. Song đại tá Pít đã xua tay: -Cười nữa đi. Cứ cười tự do, đừng sợ gi cả. Văn Bình ghé miệng sát tai bạn: -Tôi chẳng hiểu gì hết. Tại sao mọi người lại cười một loạt như vậy? Pịt bụm miệng: -Vì họ thấy tôi cười. -Tại sao? -Vì nhà hàng này là một trạm của C.I.A.. Tửu khách đều là nhân viên dưới quyền tôi. Họ sợ tiếng cười của anh làm nhân viên của địch núp bên ngoài chú ý nên họ rủ nhau cười để che lấp. -Có nhân viên của địch núp bên ngoài? -Dĩ nhiên. Nhà hàng này nằm trên lộ trình điệp viên cộng sản trà trộn vào Mỹ. -Tại sao anh không đưa tôi đến nơi khác an toàn hơn, lại chúi mũi vào xó xỉnh bất tiện này? -Vì tôi cần kiểm soát lại xem anh có bị GRU hoặc Tình Báo sở bám sát hay không? Đối với họ, anh là chai mật. Ruổi thấy mật tất bu lại. Trong khi chúng mình trò chuyện và cười đùa ở đây, một số nhân viên C.I.A. khác đang túc trực kín đáo bên ngoài. Địch nghe tiếng cười xán tới, nhân viên của tôi sẽ xập còng sắt vào tay chúng. Từ mấy ngày nay, chúng tôi đã phải áp dụng biện pháp an ninh tối đa. Và lệnh báo động số 3 đã được ban hành cho nhân viên C.I.A. trên toàn nước Mỹ kể từ sáng qua. -Kể từ sáng qua? -Phải. Từ đúng 8g25' sáng qua, ngay sau khi ông Sì-mít mất liên lạc với căn cứ 4Q. -Căn cứ hỏa tiễn liên lục địa. -Không phải. 4Q là một căn cứ dọc biên giới hai quốc gia Nam-Mỹ, Côlômi và Êquatơ. -Hừ... trong đầu anh có những gì anh hãy tuôn hết ra cho tôi nghe. Tôi chẳng hiểu mô tê gì cả. Hai quốc gia nhỏ như lỗ mũi ơ châu Mỹ la-tinh kia có liên quan gì đến ông Sì-mít, và C.I.A. mà các anh phải báo động, nhất là lệnh báo động số 3, chỉ dành riêng cho những trường hợp nguy nan gia trọng? -Vâng, tình hình đang nguy nan đến mực độ gia trọng nên ông Sì-mít mới vời đến tài ba đặc biệt của anh. Chắc anh cũng biết là C.I.A. đã ký nhiều thỏa ước bảo vệ an ninh bí mật với một số quốc gia Nam-Mỹ, trong số đó có Côlômbi và cộng hòa Equatơ. Những mật ước này gồm nhiều điều khoản khác nhau, tùy theo nhu cầu địa phương và mức độ liên hệ với C.I.A., nhưng đại để đều nhằm loại trừ ảnh hưởng cộng sản, nhất là loại trừ các bộ đội du kích do Cuba tổ chức với sự yểm trợ kỹ thuật và tài chánh của GRU Sô Viết và Quốc Tế Tình Báo sở Trung Quốc. Căn cứ 4Q trên giấy tờ là một trung tâm khí tượng vì nó được thiết lập trên vùng đồi núi cao nhất Nam-Mỹ, với nhiệm vụ cung cấp mọi tin tức và dữ kiện thiên văn học cho các quốc gia trong khu vực. Nhưng tôi đã nói với anh, tính cách thăm dò khí tượng của căn cứ 4Q chỉ là hình thức ngụy trang, trên thực tế, nó chính là đài quan sát điệp báo của C.I.A. tại miền duyên hải tây bộ Thái Bình Dương, liên quan đến các quốc gia ven biển là Vênêduêla, Côlômbi, Equatơ, Pêru, Bôlivi, Trí Lợi và Á-căn-đình, trong thời gian gần đây, đài nghe ngóng 4Q đã khám phá ra một sự kiện thập phần quan trọng, một số tiềm thủy đỉnh Trung Cộng ghé bờ và đổ bộ nhân sự cũng như dụng cụ lên những vùng bỏ hoang dọc bờ biển. Nói cho đúng, sự đổ bộ lén lút của tàu ngầm Trung Cộng vào miền duyên hải hiểm trở và vắng vẻ này không phải là chuyện hãn hữu: trong quá khứ, du kích thân cộng dịa phương đã bị bắt, võ khí bị tịch thu khá nhiều, sở dĩ từ mấy ngày nay Trung Ương C.I.A. quan tâm đặc biệt là vì được tin dường như Trung Cộng vừa cho đổ bộ hỏa tiễn cỡ trung tầm với đầu đạn nguyên tử. -Anh vừa dùng danh từ "dường như". "Dường như" nghĩa là chưa có gì chắc chắn, mà trong nghề tình báo thì không nên hoảng hốt khi còn thiếu tin tức chắc chắn. -Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, nhưng nếu đây chỉ là tin tức thông thường như đánh cắp tài liệu mật, hoặc mưu đồ ám sát yếu nhân chính phủ, hoặc đảo chính chế độ thì không đáng quan tâm quá mức. Đằng này là hỏa tiễn nguyên tử, trong trường hợp Tình Báo sở thiết lập được một giàn tên đạn trên miền núi tây bộ Nam-Mỹ thì cán cân quyền lực ở tây bán cầu sẽ thay đổi toàn diện... vả lại, tôi dùng danh từ "dường như" song trên thực tế, tin tức này do một nhân viên đúng đắn và tin cậy cung cấp. Theo sự sắp xếp với Trung Ương C.I.A., nhân viên này sẽ đệ trình lên ông Sì-mít một bản phúc trình kết thúc với đầy đủ bằng chứng cụ thể. Nhưng một trận động đất kèm theo núi lửa thức dậy đã xảy ra.... Như anh đã đọc trên báo chí, một phần khu vực duyên hải Thái Bình Dương đã bị tàn phá dữ dội trong trận động đất. Sự tàn phá gia tăng vì hỏa diệm sơn cùng phun lửa đổng loạt. Vùng đất bị tàn phá nặng nhất lại là vùng biên giới Côlômbi và Equatơ. -Trong phạm vì căn cứ 4Q? -Phải, căn cứ 4Q chẳng may lọt vào trung tâm của cuộc địa chấn ác liệt này. Tụy nhiên, chúng tôi chỉ có thể nói như vậy chứ chưa thể xác định mực độ tàn phá tại 4Q là bao nhiêu, tàn phá một phần hay tàn phá toàn bộ, có bao nhiêu thương vong, và trong số thương vong có Doarê hay không? -Anh vừa nhắc đến Doarê.... -Vâng. Doarê, Anbe Doarê. -Hắn là nhân viên tin cậy của ông Sì-mít? -Nói cho đúng, Doarê chưa hẳn là nhân viên C.I.A. nếu anh quan niệm nhân viên nghĩa là ăn lương tháng, hoặc ăn lương từng vụ, và chịu mạng lệnh của Trung Ương C.I.A.. Doarê thuộc vào thành phần đặc biệt, chúng tôi gọi là "nhân viên lý tưởng". Hắn không lãnh lương, hắn không đòi hỏi chúng tôi phải trả hắn bao nhiêu tiền mặc dầu từ nhiều tháng nay hắn giúp đỡ chúng tôi tận tình và đắc lực. Dĩ nhiên chúng tôi đã mở cho hắn một trương mục tại một ngân hàng Mỹ và bỏ tiền vào đó phòng xa sau này hắn cần đến. Tôi không hiểu rõ Doarê cộng tác với C.I.A. trong hoàn cảnh nào, chỉ biết là sau khi di cư qua Mỹ trong những ngày cuối cùng của chế độ Quốc Dân Đảng tại Hoa-lục. -Quốc tịch Mỹ? -Không. Khác đa số người Tàu tị nạn cộng sản, Doarê không mày mò xin gia nhập quốc tịch Mỹ. Hắn sống trên đất Mỹ một thời gian rổi xuống miền Nam bán cầu, hắn có nhiều thông hành, nhiều quốc tịch, hiện nay, hắn theo quốc tịch Equatơ, cho nên chính phủ Equatơ cử hắn làm chuyên gia cao cấp tại trung tâm 4Q. Trước khi cuộc động đất xảy ra, Doarê là phó giám đốc kỹ thuật căn cứ 4Q. -Như vậy, Doarê phải là kỹ sư hoặc toán học gia. -Kỹ sư điện tử. về phương diện ghề nghiệp, hắn được liệt vào danh sách hai trăm chuyên gia điện tử truyền tin nổi danh trên thế giới. Nói thế để anh có thể hiểu rằng hắn không phải là kẻ cần tiền. Với số lương phó giám đốc và kỹ sư cao cấp, hắn dư sống một cuộc đời sang trọng. -Hừ, anh lý luận sai bét... Tôi đã từng liên lạc với những đại chuyên gia ở bên này và bên kia bức màn sắt, lương tháng của họ tương đương với hai, ba chục ngàn mỹ kim một tháng, vậy mà họ vẫn thiếu trước, hụt sau. Bằng chứng cụ thể là anh chàng trưởng ban nghiên cứu nhân chủng học ở Luân Đôn, hàng tháng được lãnh gần bốn ngàn mỹ kim, song chỉ đến ngày mùng 10 là trong bót-phơi không còn một xu teng. Tiền bạc là một vấn đề khó thẩm định, ít cũng đủ, đôi khi nhiều lại thiếu. Nếu đa mang á phiện, hoặc đèo bồng thêm một mớ gái đẹp thì giầu đến như tỉ phú Hy-lạp ô-nát-sít cũng suýt-xoa,nữa là cái hạng bác học mấy ngàn đô-la mỗi tháng... Vì thế tôi cần biết Doarê rõ hơn nữa. Tại sao hắn lại lấy tên Doarê? Phần lớn người Tàu nhập cảnh lậu vào Hoa-kỳ đều dùng đường biên giới Mễ-tây-cơ, qua thị trấn dạ lạc Doarê. Hắn cũng mượn đường Mễ-tây cơ phải không? -Phải, anh tài thật. Hắn sống mấy tuần lễ ở Doarê, khoái khí hậu và đàn bà tại đó nên đặt tên Mỹ là Doarê để làm kỷ niệm. -Nghĩa là hắn cũng hảo ngọt như... tôi? -Được hảo ngọt bằng anh không phải dễ. Hai chục năm trước, hắn có cảm tình đắm đuối với giống cái, nhưng bây giờ thì hết rồi. -Hắn muốn giữ lòng chung thủy với người cũ? -Ngược lại. Hắn sinh ra ghét đàn bà vì đàn bà đã chơi xấu hắn. Nguyên do như sau: hắn lìa bỏ Hoa-lục với một cô gái học cùng lớp, hắn nai lưng làm việc để cung phụng cho nàng sung sướng, nhưng nàng đã bỏ hắn một cách tàn nhẫn, vô cùng tàn nhẫn, từ đó lòng hắn trở nên hoàn toàn nguội lạnh, và hắn dồn hết tâm trí vào toán số và điện học. Hắn hợp tác với C.I.A. có lẽ vì hai lý do: thứ nhất, hắn phải bỏ nước ra đi, phần lớn giám đốc hắn còn kẹt lại sau bức màn tre, thân nhân hắn bị ít nhiều tố khổ trong cuộc cách mạng ruộng đất, ngoài ra, chú ruột hắn, và anh ruột hắn đã bị quân đội giải phóng giết chết, hắn hợp tác với tình báo Mỹ là để báo thù, giống như hàng trăm người Trung Hoa khác hiện lãnh lương của C.I.A., lý do thứ hai là vì đàn bà. -Tôi đoán ra rồi. Người yêu trong mộng của hắn đã cắm sừng với một cán bộ cộng sản. -Đúng. Trong thời gian sống lây lất ở Hoa-lục, nàng đã rớt vào vòng tay của một thanh niên cường tráng và khôi ngô, sinh viên thạc sĩ tại đại học đường nổi tiếng M.I.T. Gã đàn ông đẹp trai này đã cuỗm luôn người đẹp mang về Hoa-lục. Hiện cặp tình nhân đã thành vợ chồng, người chồng là một trong các nhà khoa học lỗi lạc phụ trách chương trình thí nghiệm và chế tạo hỏa tiễn nguyên tử tại căn cứ Lobnor Trung Cộng. -Cám ơn anh. Tôi sẽ đến căn cứ 4Q để tiếp xúc với Doarê phải không? -Phải. Ông Sì-mít đặc biệt nghĩ đến anh vì trong tổng hành doanh không có nhân viên giỏi tiếng Tàu, giỏi võ nghệ, giỏi mưu lược như anh. ông Sì-mít cho rằng tình hình rất khó khăn, ông có cảm tượng là địch đã có mặt tại biên giới Equatơ sau khi được tin Doarê nắm được các bằng chứng cụ thể về kế hoạch thiết lập giàn hỏa tiễn của họ. Doarê vẫn liên lạc với Sì-mít bằng thể thức "hộp thư" chỉ trong trường hợp bất khả kháng mới xử dụng vô tuyến điện. Ngay khi động đất xảy ra, liên lạc đường bộ bị gián đoạn, ông Sì-mít đã gửi mật điện cho Doarê và Doarê đã phúc đáp. Doarê hẹn đến 8g25' sáng qua sẽ cho ông Sì-mít biết đầy đủ chi tiết liên lạc với hắn để lấy bản phúc trình tối hậu. Nhưng điện đài của Doarê đã câm lặng. -Hệ thống truyền tin bị hư hỏng? -Có lẽ thế. Nhưng tôi không tin, ông Sì-mít cũng không tin. Doarê là kỹ sư điện tử lỗi lạc, hỏng điện đài này hắn có đủ kinh nghiệm và tài ba để ráp điện đài khác, phương chi hắn không thiếu phương tiện cơ khí trong tay. ông Sì-mít suy luận là có thể hắn đã bị địch bắt giữ, hoặc bị hạ sát cũng nên. -Chừng nào máy bay cất cánh? -Ngaỵ bây giờ. Tôi lái xe đưa anh đến phi trường riêng của C.I.A., cách đây 50 dậm về phía Nam. Hoa tiêu sẽ chở anh đến thủ đô xứ Côlômbi. -Còn từ Côlômbi đến căn cứ 4Q? -Anh sẽ dùng đường bộ. -Trời đất! Đường bộ toàn là đổi núi hiểm trở, dùng máy bay trực thăng không tiện hơn ư? -Nếu đi bằng trực thăng được thì còn ngôn gì nữa? ông Sì-mít đã huy động toàn bộ nhân viên ưới quyền ở các quốc gia kế cận Côlômbi và Pêru lái phi cơ và trực thăng đến căn cứ 4Q, nhưng họ chỉ bay được hai phần ba đường rổi phải quay về; vì sương mù dày đặc như bức tường bê-tông, mặt khác, trận động đất đã thay đổi địa hình địa vật, phi công khó thể nhận diện được bên dưới, vả lại, dầu sương mù bớt dầy đặc, dầu địa hình địa vật ít thay đổi, vấn đề di chuyển bằng máy bay cũng không thể được đặt ra nữa vì các phi công đã bị "teo". -Bị teo. -Xin lỗi anh, "teo" là tiếng lóng có nghĩa là "sợ". Phi công Nam-Mỹ thường ưa nhàn hạ, thích đớp hít, chứ không gan cùng mình, đêm cũng lái, bão táp cũng lái, nơi nào cũng lái, như phi công nước anh đâu (khoái chưa, không riêng Văn Bình, toàn thể chúng ta đều phổng mũi hãnh diện vì Mỹ phải khen) khi ông Sì-mít vời đến, họ đã xêm mình, thái độ khảng tảng, tuy vậy họ vẫn lên đường vì tiền thưởng khá lớn. Nhưng giờ đây có trả 10 ngàn đô-la một chuyến, kèm thêm 50 ngàn bảo hiểm nhân thọ, họ cũng không dám. Vì trong vòng một ngày đã xảy ra 4 tai nạn trực thăng liên tiếp. -Đâm vào núi? -Vâng. Song cũng không chắc. Vùng biên giới gổm nhiều đỉnh núi cao nên có thể hoa tiêu lạc đường đã đụng nhằm vách đá. -Ông Sì-mít chưa nhận được tin tức chính xác về số phận 4 trực thăng lâm nạn? -Chưa. Nội sáng qua có cả thảy 30 phi cơ trực thăng và máỵ bay nhẹ cất cánh từ nội địa Côlômbi và Equatơ đến khu vực tàn phá. Hai trực thăng đã mất tích. Người ta chỉ biết là trực thăng còn an toàn khi bay cách căn cứ 4Q khoảng 20 cây số về hướng tây-nam. Sau đó họ hoàn toàn mù tịt.... -Trực thăng không liên lạc vô tuyến được ư? -Vào đến vùng sa mù vây quanh căn cứ 4Q thì máy truyền tin vô tuyến không hoạt động được nữa. Dường như trong sa mù có một hóa chất kỳ lạ có tác dụng phá tuyến. Các phi cơ và trực thăng không bị nạn được lệnh quay lại tìm kiếm nhưng đến khi bay hết xăng họ bắt buộc trở về phi trường. Đến chiều, lại 30 chuyến phi cơ lớn nhỏ khác cất cánh, và cũng như buổi sáng, 4 trực thăng lạc đường trong sa mù. -Phi công tử thương? -Có lẽ thế. Sau 4 tai nạn liên tiếp, không phi công nào dám bay nữa. Vì vậy, anh phải dùng đường bộ, đến Côlômbi anh sẽ gặp một nhân viên dẫn đường, tên hắn là Buru, hắn thuộc lòng đường xá biên giới, anh có thể tin cậy hắn, riêng vấn đề an ninh, anh phải đích thân lo liệu. Từ thủ đô Côlômbi xuống biên giới phía Nam không có gì đáng lo vì lộ trình hiểm trở nhưng không bị sương mù che khuất, hoạt động của du kích cộng sản chống chính phủ lại yếu kém. Xuống đến biên giới là bắt đầu khu vực nguy hiểm. Hẳn anh cũng biết từ ít năm nay, vùng biên giới Côlômbi đột nhiên trở thành con gà đẻ trứng vàng, các công ty khai khoáng quốc tế khám phá ra nhiều mỏ dầu quan trọng, và quan trọng hơn hết, là những mỏ quặng uy-ra-ni-om, thứ uy-ra-ni-om này rất tốt, chỉ phải đãi lọc rất ít, khai thác lại dễ dàng, cho nên chất lượng đã tốt, giá thành lại quá hạ. Côlômbi đầu hôm sớm mai trở thành giầu có. Nhiều dân tứ chiếng kéo đến vùng biên giới, chính phủ bản xứ đã hạn chế mọi sự đi lại vì tính cách quốc phòng của quặng mỏ uy-ra-ni-om, song ngăn chặn được bọn anh chị chuyên nghiệp, đặc biệt là bọn gián điệp địch là việc rất khó khăn đối với một quốc gia nhỏ xíu, lực lượng an ninh lèo tèo mấy trăm mống như Côlômbi. Bởi vậy, nhân viên địch có thể đang rình sẵn để làm thịt anh. -Thịt tôi dai lắm, anh ơi, họ ăn không nổi đâu! -Hừ, giá như thịt anh cứng như bê-tông, họ cũng nghiền nát, chứ đừng nói là dai như cao-su nữa. 15 tháng trước, ông Sì-mít bắt được một số tài liệu của GRU tại Bôlivi, trong đó có bản cẩm nang hành động cho toàn thể nhân viên tại châu Mỹ la-tinh. về khoảng "đối phó với điệp vụ địch", bản cẩm nang dặn dò nhân viên GRU phải gián đoạn mọi hoạt động trong trường hợp chạm trán z.28, và phải điện về trung ương để xin chỉ thị khẩn cấp". Bản cẩm nang, còn nói thêm là nếu gặp hoàn cảnh thuận tiện phải hạ thủ z.28, kẻ nào thành công sẽ được đặc biệt thăng ba cấp và ân thưởng bằng hiện kim. Chỉ thị nói trên mang số SD-42 của Trung Ương Quốc Tế Tình Báo sở gởi cho các nhân viên ở châu Mỹ la-tinh tháng ba năm nay còn dứt khoát và dữ dằn hơn nữa: họ dành gần nửa trang giấy đánh máy để mô tả tướng mạo anh, và nửa trang còn lại về cách thức bắt cóc, hạ sát.... Xuyên qua bản cẩm nang đặc biệt và chỉ thị tối mật này, tôi không tin là địch làm thinh cho anh tung hoành tại vùng biên giới Côlômbi, phương chi anh lại có nhiệm vụ siết hầu, chặn họng kế hoạch thâm nhập, và khống chế bằng hỏa tiễn nguyên tử của họ. -Cho dẫu họ đổ bộ được hỏa tiễn lên miền rừng núi, tôi vẫn không tin là họ dám châm ngòi nổ. -Chưa chắc. Giới lãnh tụ Bắc Kinh ngày nay đã uống phải thứ thuốc liều hạng nặng nên bất cứ chuyện gì họ cũng có thể làm được. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia nhóm tại Bạch Cung dưới quyền chủ tọa của tổng thống Mỹ, và có sự hiện diện của ông Sì-mít đã nghiên cứu cặn kẽ những cập lụy của việc này. Hội đồng cũng nghĩ như anh, nghĩa là Tình Báo sở không dám bắn ẩu, song họ vẫn có thể không cần bắn hỏa tiễn mà đạt được mục đích xâm lược ngon lành đúng theo phương châm "bất chiến tự nhiên thành". Thế này nhé, sau khi thiết lập giàn hỏa tiễn, họ bèn dùng để gây áp lực, buộc Hoa-Kỳ phải rút lui khỏi tổ chức an ninh chung Liên-Mỹ, đổng thời giải tán phăng tổ chức này. Sau khi Mỹ bị hất khỏi châu Mỹ la-tinh, bọn quân nhân và chính khách khuynh tả được du kích thân Cộng hỗ trợ sẽ nổi dậy cướp chính quyền hàng loạt, trong vòng ba, bốn tháng, toàn châu Mỹ la-tinh sẽ biến thành một Cuba khổng lồ.... Anh đừng quên điều quan trọng sau đây: một khi bị săng-ta, người Mỹ sẽ vô phương chống đỡ, vì Nam-Mỹ toàn là rừng rậm và núi cao, nhiều vùng chưa có người đặt chân tới, đâu có dụng cụ tối tân. Mỹ cũng không thể tìm ra nơi đặt giàn hỏa tiễn, mà dầu tìm ra cũng khó thể triệt tiêu, vì phải oanh tạc bằng bom nguyên tử cỡ lớn mới phá sập được những rặng núi trùng trùng điệp điệp -Tóm lại, tôi phải thập cổ cho bằng được thằng cha chuyên viên điện tử có cái tên điếm đàng là Doarê, và từ đây cho đến căn cứ 4Q, tôi phải mở mắt thật rộng, mở hai tai thật lớn, đề phòng bị mấy cha nội GRU và Tình Báo sở xin tí huyết! -Thưa ngài, vâng. Ngài cần hỏi han điều gì nữa không, đệ xin giải thích. -Không. Hỏi thật anh nhé, trong cái vụ phải gió này liệu có bóng hồng tha thướt nào không? -Lúc nào anh cũng tơ tưởng đến đàn bà.... Thú thật với anh là tôi không biết. Tuy nhiên, chỗ anh em với nhau, tôi xin nói rằng phụ nữ Equatơ ngon lành lắm, xứ nóng có khác, họ chuyên ăn ớt cay, và nhất là phó-mát bằng sữa dê là đủ anh hiểu tính tình họ ra sao. Sữa dê là thứ sữa tối kị đối với đàn bà khỏe mạnh, vì uống vào máu chạy rần rần như muốn kéo đứt phăng động mạch, dê của xứ Equatơ được hấp thụ đầy ắp tinh hoa của vùng xích đạo nên có một cường lực độc nhất vô nhị, không tin anh xài thử xem, anh chỉ nhậu phó-mát sữa dê một vài tuần lễ là.... Văn Bình ngắt lời bạn: -Cám ơn anh, tôi đã đớp phó-mát sữa dê rắc ớt bột hàng tháng trường mà tay chân vẫn lạnh ngắt. Văn Bình nói khoác. Thật ra, chàng đã có dịp thưởng thức loại phó-mát đặc biệt ở điểm người ta trải lên trên một lớp ớt cay chảy nước mắt; tùy xứ, người ta dùng nhiều ít hoặc nhiều ớt, song đại để, dân Nam-Mỹ đều khoái ớt như dân Việt khoái nước mắm. sở dĩ chàng nói khoác vì chàng biết đại tá Pít phóng đại sự thật, đành rằng khí hậu Nam-Mỹ hợp với phép nuôi "dê béo" nhưng.... Đại tá Pít ngắt lời chàng để trả thù: -Nói chơi đấy, vùng biên giới Equatơ nóng như thiêu, trận động đất lại tàn phá ác liệt, anh sẽ không gặp bóng hồng tha thướt nào đâu. Nếu có thì chỉ gặp xác chết la liệt, mùi hôi thối nồng nặc, anh nên mang theo một két huýt-ky. Pít bỗng thở dài: -Rượu huýt-ky làm tôi nhớ đến Vích-ky. Mãi đấu láo, tôi quên nói về nhiệm vụ của Vích-ky. Hắn là bạn tôi. Bảo bạn thân e không đúng, thật ra hắn là bạn tốt. Hắn là một trong những thằng phù rể trong đám cưới của tôi. -Vích-ky liên hệ gì đến điệp vụ mà ông Sì-mít trao cho tôi tại căn cứ 4Q? -Liên hệ rất chặt chẽ. Anh tha lỗi cho tôi nhé. Từ ngày lấy vợ, có con, tôi bỗng sinh ra đãng trí và đần độn, không khéo tôi phải vào dưỡng trí viện mất. Vích-ky là nhân viên C.I.A. tín cẩn được ông Sì-mít đặc phái đến 4Q để tiếp xúc với Anbe Doarê. Hắn rời Hoa-thịnh-đốn ngay sau khi động đất xảy ra. -Và hắn đã biệt tích? -Có lẽ. Tôi nói "có lẽ" vì cho đến phút này, trung ượng C.I.A. cũng chưa có tin tức đích xác. Sợ đối phương nghe trộm liên lạc vô tuyến nên Vích-ky được lệnh hạn chế tối thiểu việc xử dụng điện đài. Khi đến gần căn cứ, hắn đã gửi điện về báo cáo an toàn. Theo dự liệu, hắn phải gửi tiếp một bức điện khác, song hắn đã im bặt. Vì vậy, tôi mới nói là "có lẽ" hắn biệt tích. -Yêu cầu anh cho biết một vài chi tiết điển hình về Vích-ky. -Hắn được 34 tuổi, 12 năm trong nghề, khá nhiều kinh nghiệm. Hắn đã phục vụ tại những nhiệm sở hải ngoại nguy hiểm như Hán Thành, Bá Linh. Hắn lùn hơn anh nửa cái đầu, thân thể mập hơn, tuy vậy hắn lại nhanh nhẹn như con nhái bén. -Hắn là dân Mỹ mà lùn kể cũng hơi lạ. -À, tôi quên, Vích-ky không phải là người Mỹ chính cống. Phần lớn người Mỹ hiện thời đều từ Âu châu di cư tới, hắn thuộc gốc gác Âu châu, nhưng trong huyết quản lại có giòng máu Viễn Đông. Mẹ hắn là con cháu Thái Dương thần nữ, hắn sinh trưởng trên đất Tàu nên nói tiếng Tàu đúng mẹo luật và đúng giọng. Vì giỏi tiếng Tàu, hắn được ông Sì- mít tuyển chọn để đi gặp Anbe Doarê. -Năng lực kỹ thuật? -Khá giỏi võ. Không dám sánh với anh, vì thú thật trong số yên hùng điệp báo quốc tế, chưa ai trèo đến trình độ thượng thừa như anh: tuy nhiên, nếu đọ với cán bộ hành động của C.I.A., thì Vích-ky cũng thuộc vào hạng đàn anh. Hắn rất giỏi nhu đạo, dường như đai đen đệ tam đẳng còn về tài tác xạ thi tồi ra cũng 8 điểm trên 10. -Như vậy, hắn cũng đâu đến nỗi xoàng. Tại sao anh lại nói là hắn bị đối phương làm thịt? -Tôi không hề nói là Vích-ky bị địch giết. Tôi chỉ nói là hắn biệt tích. Trong trường hợp hắn còn sống, anh có thể đặt tin tưởng hoàn toàn nơi hắn về mức độ trung thành. Gặp hắn, khỏi cần mật khẩu, anh vẫn có thể nhận ra liền. Song để công việc của anh được dễ dàng, tôi xin lưu ý anh đến một vài thói quen hơi trái đời của hắn. Giống như đàn bà làm đỏm, hắn chuyên đeo một nắm vòng sơ-men trên cổ tay. -Loại vòng gồm 8 cái, mỗi ngày đeo một cái, chẳng hạn thứ hai đeo hai vòng, thứ ba đeo ba vòng phải không? -Phải, đàn ông chơi vòng sơ-men đã là ngược đời, lối đeo vủa Vích-ky còn ngược đời hơn nữa: thứ hai, hắn lại đeo 4 vòng, thứ ba đeo 6 vòng. -Trời đất, như vậy là thứ bẩy hắn phải đeo lòng thòng nơi cườm tay đúng 14 vòng: Hắn biến cườm tay thành nhà hàng kim hoàn rổi còn gì nữa! -Tôi cũng nghĩ như anh. Vòng sơ-men của hắn toàn bằng bạch kim nhỏ xíu. Và hắn chỉ đeo trên cổ tay trái, vào chỗ thường đeo đồng hồ. -Hừ... đeo vòng cách ấy khác nào vỗ ngực khoe khoang với thiên hạ rằng hắn là Vích-ky, nhân viên C.I.A -Đúng thế. Tôi khuyên hắn nhiều lần mà hắn một mực không nghe. Hắn đáp là còn lâu người ta mới "chơi" được hắn. Vả lại, từ nhiều năm nay, hắn chỉ thắng chớ chưa khi nào thua, hắn kiêu căng cũng có lý, phải không anh? Văn Bình chưa kịp tán thành hoặc phản đối thì có tiếng súng nổ đoàng ngoài cửa. Tiếp theo là tiếng giầy chạy rầm rập. Đại tá Pít liếc nhìn Văn Bình. Chàng vẫn phớt tỉnh, ly huýt-kỵ vừa uống cạn - không còn nhớ là ly thứ mấy nữa - được chàng khoan thai đặt nhẹ xuống mặt bàn trơn bóng. Pít biết là bạn đã nghe tiếng súng và tiếng ổn song không thèm quan tâm, hoặc đã chuẩn bị đối phó một cách kín đáo mà cặp mắt quan sát của người thường không phân biệt nổi. Pít nghển cổ hỏi: -Bắt được chưa? Pít muốn hỏi hai gã đàn ông lực lưỡng ngồi lầm lì từ nãy đến giờ ở bàn bên. Họ là vệ sĩ đặc biệt của C.I.A.. Song một tiếng quát ồm oàm đã cất lên: -Tất cả không được cựa quậy. Bàn tay đặt thẳng trên mặt bàn. Tiếng quát phát ra từ sau lưng Văn Bình. Người quát có giọng nói lơ lớ không phải của người Mỹ chính cống. Chắc hắn vừa từ bên ngoài xô cửa vào. Trong cảnh im phăng phắc của nhà hàng ban đêm, Van Bình bình thản theo dõi nét mặt của đại ta Pít. Chàng thấỵ rõ sự lo sợ pha lẫn sửng sốt trong khi Pít nặng nề đứng lên. Mọi người trong quán rượu C.I.A., từ thực khách đến nhân viên nhà hàng đều là C.I.A. từ chân răng đến kẽ tóc, lục tục đứng dậy. Tiếng quát hồi nãy lại vang lên: -Còn thằng kia, sao chưa đứng dậy? Mày muốn ăn kẹo đồng hả, đồ khốn? Văn Bình vốn ghét kẻ nói tục. Dầu sa vào hoàn cảnh tiến thoái chàng vẫn không tha thứ kẻ nói tục. Chết thì thôi, chàng quyết cho đối phương lỗ mãng một bài học đắt giá. Đại tá Pít nhìn chàng bằng cặp mắt cầu khẩn. Không hiểu Pít yêu cầu chàng giơ tay đầu hàng như mọi nhân viên C.I.A. trong nhà hàng hay là yêu cầu chàng trổ tài chuyển bại thành thắng.... Văn Bình khệnh khạng đưa hai cánh tay lên khỏi đầu. Sự việc không ai ngờ tới xảy ra nhanh như chớp xẹt. Chỉ một tiếng đoàng ngắn ngủi, khô khan vang lên, tiếp theo tiếng ối thảm thiết rổi tiếng cây thịt rớt phịch xuống đất. Thì ra trong khi đứng dậy, Văn Bình đã có đủ thời giờ rút súng đeo dưới nách ra, bắn ngược về phía sau. Rút súng đã là việc khó, bắn ngược về phía sau vào một mục tiêu không nhận thấy lại là việc khó hơn nhiều, trên đời giờ chỉ một số rất ít người làm nổi. Vậy mà viên đạn của Văn Bình đã bắn trúng cánh tay người cầm súng. Khẩu tiểu liên rời khỏi tay hắn, nhưng chưa rớt xuống đất. Nó nằm gọn trên cái ghế đệm gắn lò so rún rẩy nên không tạo ra tiếng động. Sức mạnh của viên đạn xô nạn nhân dộng đầu vào tường trước khi sóng soài trên đất. Nạn nhân là một thanh niên mặt đầy vết thẹo, mặc áo bờ lu dông bằng da bóng của dân híp-pi, ống quần chân voi rộng thùng thình. Sự can thiệp hữu hiệu của Văn Bình như liều thuốc khỏe làm toàn thể mọi người tỉnh cơn mê. Mô số nhân viên C.I.A. nhảy xổ về phía nạn nhân mặc dầu vết thượng đã làm hắn không còn nguy hiểm nữa. Một chú C.I.A. to con hùng hổ cưỡi lên ngực nạn nhân, sức nặng của hắn đủ làm nạn nhân ngạt thở mà chết, khỏi cần thượng cẳng chận hạ cẳng tay, phô trương trái thôi sơn lớn như trái bưởi Biên Hòa nện xuống đồm độp. Một số khác ùa lại, vây kín lấy Văn Bình, ôm lấy chàng, nắm vạt áo chàng, sờ mó da thịt chàng, như để kiểm soát xem chàng là ma hay người chàng là giả hay thật. Đến khi biết chàng là người hẳn hoi, họ đều reo lên đồng loạt, và ghé vai lại công kênh chàng lên vai, chạy phăng phăng khắp nhà hàng. Tình cờ Văn Bình trở thành nhà vô địch túc cầu quốc tế được kẻ mộ điệu hoan nghênh trên sân cỏ. Đại tá Pít la hét gần đứt cuống họng Văn Bình mới được buông tha. Pít rẽ đám đông lại gần chàng, hôn má rồi nắm bàn tay chàng lắc đi lắc lại khiến chàng muốn trẹo gân. Tài bắn súng của chàng đã cứu đại tá Pít và nhóm nhân viên C.I.A. thoát khỏi một cuộc bắt cóc và tàn sát. Đại tá Pít dặn thuộc viên đề phòng gián điệp địch, không ngờ địch khôn ngoan hơn, và táo bạo hơn đã cải trang làm ông bự C.I.A. đột nhập quán rượu, với khẩu tiểụ liên và ý định hốt một mẻ lớn. Viên đạn kết thúc của Văn Bình làm bọn đồng lõa chờ sẵn ngoài vườn phải bỏ chạy trối chết. Đại tá Pít thét mang một két rượu huýt-ky ra uống ăn mừng. Hoạt động dọc biên giới Mễ-tây-cơ, biên giới dạ lạc có khác, đàn ông chỉ nghĩ đến đường cong núi lửa và rượu: Văn Bình nốc thêm một bụng huýt-ky "sếch" nữa trước khi ra xe. Đám vệ sĩ đều say mềm. Tài xế đút chìa khóa vào đề-ma-rơ, loay hoay mãi không lọt, và loay hoay mãi động cơ cũng không chịu nổ. Xe chạy được một quãng thì tay lái lại gục gặc, tài xế suýt đưa luôn xuống ruộng. Đại tá Pít phải giằng lấy vô-lăng. Hai gã vệ sĩ nặng trên dưới một tạ xương thịt có nhiệm vụ đưa Văn Bình còn nguyên vẹn đến phi trường cũng đã dựa vai vào nhau trên băng sau, miệng phà hơi men nổng nặc, mắt lim dim, nửa mê nửa tỉnh, khi tài xế lạc tay bánh thì một gã bị mất thăng bằng té lăn cù xuống vệ đường. Rốt cuộc Văn Bình phải đóng vai vệ sĩ và hộ tống viên cho toán đặc vụ C.I.A. trên đường ra sân bay. Chàng thường nghe nói châu Mỹ la-tinh là nơi có nhiều chuyện lỉnh kỉnh. Nhưng chàng nghĩ rằng sự lỉnh kỉnh ở biên giới Mễ-tây-cơ đã quá đủ. Ngờ đâu chân ướt chân ráo đển Côlômbi chàng lại gặp gã Buru lỉnh kỉnh. Để rồi đến cây cầu gẫy trên giòng sông nước xiết, một cuộc tao ngộ lỉnh kỉnh khác lại xẩy ra, với một cô gái diễm lệ, mặc đồ săn bị bọn mọi đánh võ Tàu bắt giữ, xưng là bạn của Doarê, anh chàng người Tàu, đầu mối của hàng chục chuyện lỉnh kỉnh. -------------------- 1. Xin theo dõi điệp vụ kỳ thú này trong bộ tuyển truyện "Huệ trắng phiêu linh", tức "kẻ cắp bà già", đã phát hành tháng 12 - 1970.