Người Giarai Mthur thuộc một nhóm người Giarai vừa khá lớn vừa khá đặc biệt của dân tộc Giarai. Địa bàn cư trú chính của người Giarai Mthur là huyện Krông Pa và phía nam huyện Ayun Pa (xã Ia Rbol) của tỉnh Gia Lai.Nếu nhìn trên bản đồ, chúng ta sẽ thấy, người Giarai Mthur sống ở phía đông nam của tỉnh Gia Lai và cũng thuộc phía đông nam địa bàn cư trú của người Giarai. Nơi cư trú của người Giarai Mthur nằm gọn trong khu vực giáp ranh với hai nhóm dân tộc lớn cùng thuộc ngữ hệ Malayô - pôlinêdiêng; người Chăm ở phía đông. Điều khá đặc biệt là, cái tên Mthur (nghĩa là nghèo nàn) không chỉ là cái tên để chỉ một nhánh của người Giarai mà cũng là cái tên chỉ một nhánh người Êđê phía đông - người Êđê Mthur. Còn người Giarai Mthur ở giáp với người Chăm (như ở xã Đắc Bằng, huyện Krông Pa, tỉnh Gia Lai) lại tự gọi mình là người Chăm Hroi.Ngoài người Êđê Mthur ra, người Êđê Ktul, Êđê Mã Laiô và Êđê Kđrắc đều có rất nhiều nét tương đồng về văn hóa với người Giarai Mthur. Do đó, có thể nói, trong văn hóa truyền thống của người Giarai Mthur có nhiều sắc thái chung cho cả người Êđê và người Chăm Hroi. Ngay trong tang ma nói chung và lễ bỏ mả nói riêng của người Giarai Mthur, theo những kết quả điều tra nghiên cứu của chúng tôi, có không ít những yếu tố gần với người Êđê. Theo quan niệm của người Giarai Mthur ở Đắc Bằng và Ia Rto, khi người ta chết thì hồn người chết (m'ngắt dêi) biến thành ma (atầu). Sau khi làm lễ bỏ mả, hồn ma của người chết mới được đi tới thế giới của bà Jung, các hồn ma sinh sống và làm việc như những người sống, nghĩa là cùng ăn uống, lấy vợ, lấy chồng, ốm đau và chết. Sau khi chết, hồn ma biến thành con nhện (vak vai). Bà Jung thả con nhện lên mặt đất. Khi chết, nhện biến thành giọt sương (ia ngom) rồi tan vào đất. Bà Jung lấy đất có thấm giọt sương đó làm ra người - rồi cho nhập vào những người phụ nữ có chửa. Khi người phụ nữ sinh con thì hồn ma lại trở về với kiếp người.Người Ê Đê cũng có những truyền thuyết và quan niệm tương tự về buôn làng tổ tiên (buôn Atao) do vợ chồng thần Băng Bơ Dung, Băng Bơ Đai cai quản. Vì thế, để cho hồn ma của người chết đến được với buôn làng của tổ tiên, người Giarai Mthur và các nhóm người Êđê phía đông đều có tục làm lễ bỏ mả cho người chết. Tập tục này đã có từ lâu và còn tồn tại cho đến tận hôm nay. Ngay trong các trường ca (khan) của người Giarai Mthur và người Êđê, có những đoạn nói về lễ bỏ mả thật sinh động. Ví dụ, trường ca Xing Nhã của người Êđê và Giarai mô tả việc Xing Nhã làm lễ bỏ mả cho cha mình như sau:"Mãn mùa lúa. Vào một buổi sáng đẹp trời, sương trốn nắng. Xing Nhã sai nô lệ vào rừng chặt cây kơnia, chặt những cây gòn to nhất để dựng nhà mồ cho cha là Giarơ Kốt ở gần núi Bơlô. Tin ấy truyền đi buôn phía đông. Tin ấy lan sang làng phía tây. Từ người Bi Kơrông sống dọc bờ sông, tối người Mơnông cắm lông chim trên đầu ở bên bờ suối; tất cả đều nô nức mang rượu,thịt, chiêng trống đến mừng chàng Xing Nhã dựng nhà mồ cho cha".Còn lễ bỏ mả cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp được trường ca Xinh Chơ Niếp mô tả: "Về phần Chiêm Tơ Mun, thì sau mấy mùa trăng lặn, trăng lên, sức khỏe của mẹ chàng đã phục, làn da đã trở lại như xưa. Một buổi tối đầy sao, nhiều gió, chàng gọi Chiên Mơ Nga tới nhà bàn việc làm lễ bỏ mả cho Đăm Bi và Xinh Chơ Niếp. Sau đấy, họ đem rượu ra uống suốt mấy ngày liên tiếp bên đồi Lơ Mui. Mả Xinh Chơ Niếp và Đăm Bi làm chung một chỗ, xây chung một hướng. Cây nêu cao tận trời, khắc chạm tận gốc. Bốn phía mồ đều đẽo tượng gỗ lớn. Tượng ngồi, tượng đứng, trông rất linh thiêng. Trai gái ở buôn gần dắt bò, ở buôn xa đem rượu tới ăn lễ. Chiêng trống không ngừng, nhảy múa không ngớt. Âm vang, chấn động cả vách núi, lưng trời". Mặc dầu không còn những lễ bỏ mả lớn của các tù trưởng lớn mà các trường ca mô tả, nhưng người Giarai hôm nay vẫn làm cho người chết những ngôi nhà mồ kút (bơxát kut hay nok kut). Đồ sộ uy nghi và tổ chức lễ bỏ mả trọng thể, đông vui.Như các nhóm Giarai khác, người Giarai Mthur vẫn giữ tục chôn chung và bỏ mả chung. Do đó, để tổ chức được lễ bỏ mả, trước đó cả tháng trời, các gia đình có người chết cùng dân làng đã phải bắt tay vào chuẩn bị. Mọi người phải lên rừng chặt gỗ đem về đẽo các cột kút, kơlao, chạm khắc tượng người, tượng thú, phải chuẩn bị rượu, thịt, gạo nước cho lễ bỏ mả. Chỉ sau khi mọi thứ đã làm xong, lễ bỏ mả mới có thể tổ chức được.Người Giarai Mthur thường chọn những ngày trăng sáng nhất (tuần thứ hai tức tuần trăng tròn của tháng) để bắt đầu làm lễ bỏ mả hay ăn bỏ mả (hoă lui bơxát) như người Giarai thường gọi. Khi vầng trăng của ngày 14 đã nhô lên treo lơ lửng trên đỉnh các cây cột kút và klao của nhà mả (tức khoảng 10-11 giờ đêm) các gia đình có người thân phải làm lễ bỏ mả cùng cả dân làng tấp nập đi ra khu nhà mồ đã được dọn dẹp sạch sẽ để bắt đầu lễ hội bỏ mả của làng. Vì thế mà người Giarai Mthur gọi hôm đầu tiên của lễ bỏ mả là ngày vào nhà mả (mưt bơxát).Trước khi cuộc vui của lễ hội bùng lên, người chủ của lễ (người đại diện cho gia đình có người chết được chôn đầu tiên ở khu nhà mả) đến bên ngôi nhà mồ mới, xụp trước bàn thờ (P'nang) đã bầy sẵn rượu, thịt cúng và đọc bài cúng với những lời mở đầu như sau: lễ bỏ mả đến ngay sau lưng rồi. Từ nay, người sống ăn cơm trắng, còn ma thì ăn cơm đỏ, ăn hoa tím, hoa đỏ của các thần... Sau đấy, người chủ lễ mới bày tỏ tâm tư và nguyện vọng của những người sống: "xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu nữa. Từ nay, chúng tôi sẽ không còn mang cơm, sẽ không còn mang nước cho ma nữa. Nếu muốn ăn thịt gì, xin ma hãy hỏi thần Trăng; nếu muốn ăn cá, ăn thịt, xin may hãy hỏi thần trên trời. Thôi, từ nay, thế là hết, như lá m'nang đã lìa cành như lá m'tư đã tàn úa".Khi tế cúng vừa xong, thì lập tức, trong ánh lửa bập bùng của hàng chục đống lửa và dưới ánh trăng mát dịu, tiếng cồng chiêng rộn rã nổi lên. Theo nhịp âm thanh cồng chiêng mọi người hòa vào đoàn múa diễu quanh ngôi nhà mồ nhấp nhô huyền ảo trong đêm. Tiếng nhạc cồng chiêng của đêm bỏ mả, như một sức hút diệu kỳ, kéo tất cả dân làng, kéo bà con họ hàng ở buôn gần, buôn xa tới. Càng về khuya, tiếng cồng chiêng càng rộn rã, thôi thúc, các đống lửa càng bùng to hơn, nhịp chân múa nhảy càng rộn rã hơn. Hầu như suốt cả đêm cho đến sáng, cả làng quây quần bên ngôi nhà mồ: ai múa nhảy cứ múa nhảy, ai đánh cồng chiêng cứ đánh; ai uống rượu cứ uống, ai mệt thì ngủ ngay bên những đống lửa ấm áp để sáng hôm sau bước vào ngày hội chính của lễ bỏ mả - ngày vỡ (p'chăh) hay ngày ăn lớn (hoă prong).Sáng hôm hoă prong, vào khoảng 6, 7 giờ sáng, các gia đình cùng chung làm lễ bỏ mả dắt trâu hoặc bò đến buộc quanh ngôi nhà mả; đem những ché rượu tới cột thành từng hàng dài bên nhà mả. Sau đấy, những con vật bị giết đem thui và làm thịt. Thịt, xương trâu bò được chế biến ra thành nhiều loại thức ăn, nhiều món thức ăn: có loại dành riêng để chia cho những người chết được gọi là thịt tế lễ (m'nong dưm), có loại để chia cho những người tới dự (chơnút m'nong). Khi thức ăn đã được chế biến xong, các bà, các chị nổi lửa đun nấu thức ăn rồi chia ra những chiếc mâm lá chuối được bày la liệt quanh ngôi nhà mồ.Trong khi dân làng lo chuẩn bị cho bữa ăn lớn hay bữa cơm bỏ mả (hoă sơi bơxat), thì các gia đình có người chết đem mía (phun tbou) và chuối (phun a'tơi) đến trồng bên cạnh nấm mộ, đem gói cơm và gói thịt cùng ché rượu và con gà nhỏ (ană mnu) đặt lên mộ rồi ngồi khóc lần cuối vĩnh biệt người chết. Để không khí hôm bỏ mả đỡ buồn, dân làng và khách các nơi tới đánh cồng chiêng, múa nhảy thành đoàn đi quanh nhà mả. Đến quá trưa, cả khu nhà mả thật sự đã thành một bữa ăn cộng cảm lớn. Từng tốp, từng tốp ngồi quây quần bên các mâm cơm (mâm bằng lá chuối) cạnh những ché rượu cần vừa ăn uống vừa trò chuyện vui vẻ. Các bà, các cô cũng đem phần cơm, thịt và rượu vào nhà mả để những người trong các gia đình có người chết ăn uống và tâm sự lần cuối với người thân đã khuất của gia đình mình.Lúc bữa cơm cộng cảm kết thúc cũng là lúc người chủ lễ đến bên bàn thờ đọc lời cúng bỏ mả với nội dung như sau: "Xin ma đừng gọi, đừng lại gần, đừng thương yêu con cháu của ma nữa. Chúng tôi đã làm nhà mồ rồi, đã tạc những cột kút, cột klao, đã vẽ những hình vẽ bằng máu trâu, máu bò rồi. Ché rượu cúng đã đặt xuống mà rồi, con gà con đã được thả rồi. Chúng tôi đã bỏ ma rồi". Đợi cho người chủ lễ đọc lời khấn xong, mọi người vào nhà mả đưa những người góa ra sông tắm, chải đầu, mặc áo váy, khố mới cho họ rồi đưa họ về khu nhà mồ đang rộn ràng tiếng cồng chiêng và nhịp chân múa nhảy. Ai nấy đều vui vẻ, hồ hởi mời, kéo những người góa vào vòng múa của dân làng.Lúc này, những người góa không còn xõa tóc, không còn mặc khố, váy bẩn rách của thời kỳ để tang nữa. Lúc này họ đã mặc lên người những bộ quần áo lễ hội mới, đã nở nụ cười trên môi. Khi những người góa nhập vào đoạn nhảy múa của dân làng là lúc họ đã được giải phóng, đã không còn phải ràng buộc gì với người đã chết nữa. Từ nay, họ được sống cuộc sống bình thường như mọi người, nghĩa là được đi ăn uống vui chơi ở các lễ hội, được quyền tái giá nếu họ muốn. Nước sông đã rửa sạch những năm tháng chịu tang trên người họ, lễ cúng cuối cùng đã cắt đứt mọi quan hệ giữa họ và những người chết. Còn những hồn ma của người chết thì, sau lễ cũng cuối cùng, đã được con gà con đưa về buôn làng tổ tiên bắt đầu một cuộc sống mới - cuộc sống của những hồn ma để chu kỳ tiếp theo sẽ lại trở về làm người.Sau những vòng múa tưng bừng sôi nổi giữa dân làng và những người góa, lễ bỏ mả coi như đã kết thúc và mọi người ai nấy về nhà nấy, bỏ lại phía sau ngôi nhà mả xinh đẹp mà mình vừa làm xong cho thời gian và thiên nhiên hủy hoại. Trước khi ra về, mọi người bốc thóc ném lên mái nhà mồ rồi tranh nhau cướp lấy một số hạt thóc từ mái nhà mồ rơi xuống đem về để được phúc và để mùa tới làm ăn thịnh vượng. Khi mọi người ném thóc lên mái nhà mồ, ông chủ lễ nói lời cuối cùng tuyên bố (p'thao) bỏ mả: Thế là xong hết tất cả rồi. Gia đình và dân làng đã bỏ mả rồi. Từ nay chúng tôi không còn dính líu gì với nhà mả nữa. Từ nay, nếu xảy ra chuyện gì không hay, không tốt với nhà mả thì cũng đành vậy thôi vì chúng tôi không còn gì dính líu nữa.Mặc dầu các nghi lễ đã chấm dứt, ngôi nhà mồ đã bị bỏ và các hồn ma đã ra đi, những hội lễ bỏ mả còn tiếp tục thêm một ngày nữa tại các gia đình của những người chết vào ngày hôm sau. Hôm đó, bà con họ hàng tới thăm hỏi, ăn uống, vui chơi cùng các gia đình tại nhà họ chứ không ra nhà mả nữa. Thức ăn còn gì, gia chủ đem hết ra đãi khách. Vì thế ngày cuối cùng này của lễ bỏ mả được gọi là ngày rửa nồi (săch go).