Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần QuânHán xưa Lữ hậu thanh xuânCòn vua Cao tổ mấy dừng Dị KyÐường xưa Võ hậu thiệt gìDi Tông khi trẻ, Tam Tư lúc già Cứ trong sách vở nói raMột đời sung sướng cũng qua một đờiAi ai cũng ở trong đờiChính chuyên, trắc nết chết thời cũng maNgười ta chẳng lấy người taNgười ta đâu lấy những là tượng nhânCho nên tiếc phận hồng nhanHọc đòi Như ý vẽ chàng Văn QuâNguyệt Nga biết đứa tiểu nhânLàm thinh toan chước thoát thân cho rồiBùi ông ngon ngọt trau dồiDỗ nàng cho đặng sánh đôi con mìnhLàm người chấp nhất sao đànhHễ là lịch sự, có kinh có quyềnTới đây duyên đã bén duyênTrăng thanh gió mát cắm thuyền đợi aiNhớ câu: Xuân bất tái laiNgày nay hoa nở, e mai hoa tànLàm chi thiệt phận hồng nhanNăm canh gối phụng màn loan lạnh lùng Vọng phu xưa cũng trông chồngNgày xanh mòn mỏi má hồng phôi phaThôi thôi khuyên chớ thở raVầy cùng con lão một nhà cho xuôiNguyệt Nga giả dạng mừng vuiThưa rằng:Người có công nuôi bấy chầyTôi xin dám gửi lời nàyHãy tua chậm chậm sẽ vầy nhân duyênTôi xin lạy tạ Vân TiênLàm chay bảy bữa cho tuyền thủy chungCha con nghe nói mừng thầmDọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuêChiếu hoa gối sách bốn bềCỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng raXẩy vừa tới lúc canh baNguyệt Nga lấy bút đề vài câu thơDán trên vách phấn một tờVai mang bức tượng kịp giờ ra điHai bên bờ bụi rậm rìÐêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ Lạ chừng đường sá bơ vơCó bầy đom đóm sáng nhờ đi theoQua truông rồi lại lên đèoDế kêu giăng giỏi, sương gieo lạnh lùngGiầy sành đạp sỏi thẳng xôngVừa may trời đã vừng đông ló đầuNguyệt Nga đi đặng hồi lâuTìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chânNgười ngay trời phật cũng vưngLão bà chống gậy trong rừng bước raHỏi rằng: Nàng phải Nguyệt NgaKhá tua gắng gượng về nhà cùng taKhi đêm nằm thất Phật bàNgười đà mách bảo nên đà tới đâyNguyệt Nga bán tín bán nghiÐành liều nhắm mắt theo đi về nhàBước vào thấy những đàn bàLàm nghề bô vải lụa là mà thôiNguyệt Nga đành dạ ở rồiTừ đây mới hết nổi trôi chốn nào Hỏi thăm qua chốn Ô sàoQuan san mấy dặm đi vào tới nơiÐoạn này tới thứ ra đờiVân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiềnNửa đêm nằm thấy ông tiênÐem cho linh dược mắt liền sáng raKể từ nhuốm bệnh đường xaTháng ngày thấm thoát kể đà sáu nămTuổi cha rầy đã năm lămChạnh lòng nhớ tới đầm đầm châu saVân Tiên trở lại quê nhàHớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đườngTiên rằng: Ta lại hồi hươngƠn nhau sau gặp khoa trường sẽ hayMinh rằng: Em chẳng vốn mayNgày xưa mắc phải án đày chốn điDám đâu bày mặt ra thiÐã đành hai chữ qui y chùa nàyTiên rằng: Phước gặp khoa nàySao sao cũng tính sum vầy, cùng nhau Mấy năm hẩm hút tương rauKhó nghèo nỡ phụ, sang giàu đâu quênLúc hư còn có lúc nênKhuyên người giữ dạ cho bền thảo ngayHớn Minh trở lại am mâyVân Tiên về một tháng chầy tới nơiLục ông nước mắt tuôn rơiAi dè con sống trên đời thấy chaXóm giềng cô bác gần xaÐều mừng chạy tới chật nhà hỏi thămÔng rằng: Kể đã mấy nămCon mang tật bệnh ăn nằm nơi nàoTiên rằng: Hoạn nạn xiết baoMẹ tôi phần mộ, nơi nào viếng anÐặt bày lễ vật nghiêm trang Ðọc bài văn tế trước bàn minh sinhSuối vàng hồn mẹ có linhChứng cho con trẻ lòng thành ngày nayTưởng bề nguồn nước cội câyCông cao ngàn trượng, ngãi dày chín trăng Suy trang nằm giá khóc măngHai mươi bốn thảo chẳng bằng thời xưaVân Tiên nước mắt như mưaTế rồi hỏi việc khi xưa ở nhàÔng rằng: Có nàng Nguyệt NgaBạc vàng mang giúp, cửa nhà đặng xuê.Nhờ nàng nên mới ra bềChẳng chi khó đói bỏ quê đi rồiVân Tiên nghe nói hỡi ơiChạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâuHỏi rằng nàng ấy ở đâu Ðặng con đến đó đáp câu ân tìnhLục ông thuật việc triều đìnhÐầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng TiênKiều công rày ở Tây-xuyênCũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi raTiên rằng: Cám nghĩa Nguyệt NgaTôi xin qua đó thăm cha nàng cùngTây-Xuyên ngàn dặm thẳng xôngÐến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền Nguyệt Nga rày ở Tây phiênBiết sao cho đặng đoàn viên cùng chàngMấy thu Hồ Việt đôi phangCũng vì máy tạo, én nhàn rẽ nhauThấy chàng dạ lại thêm đauÐất trời bao nỡ chia bâu cho đànhHẹp hòi đặng chút nữ sinhTrông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơnNói rồi lụy nhỏ đòi cơnCũng vì một sự oán hờn nên gây Thôi con ở lại bên nàyHôm mai thấy mặt cho khuây lòng giàVân Tiên từ đấy lân laÔn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kỳNăm sau lệnh mở khoa thiVân Tiên vào tạ xin đi tựu trườngTrở về thưa với xuân đườngKinh sư ngàn dặm một đường thẳng raVân Tiên dự trúng khôi khoa Hẳn suy nhâm tí thiệt là năm nay Nhớ lời thầy nói thật hayBắc phương gặp chuột con rày nên danhVân Tiên vào tạ triều đìnhLệnh ban y mão hiển vinh về nhàXẩy nghe tin giặc Ô-quaPhủ vây quan ải binh ba bốn ngànSở vương phán trước ngai vàngChỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ongTrạng nguyên tấu trước bệ rồng:Xin dâng một tướng anh hùng đề binhCó người họ Hớn tên MinhSức đương Hạng Vũ, mạnh kình Trương PhiNgàn xưa mắc án trốn điPhải về nương náu từ bi ẩn mìnhChỉ sai tha tội Hớn Minh đòi vềSắc phong phó tướng bình diTiên, Minh tương hội xiết gì mừng vuiNhất thinh phấn phát oai lôiTiên phong hậu tập trống hồi tấn binh Quan sơn ngàn dặm đăng trìnhLãnh cờ binh tặc phá thành Ô quaLàm trai ơn nước nợ nhàThảo cha ngay chúa mới là tài danhPhút đâu binh đáo quan thànhÔ-qua xem thấy xuất thành cự đangTướng phiên hai gã đường đườngMột chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần LongLại thêm Cốt Ðột nguyên nhungMắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùngHớn Minh ra sức tiên phongÐánh cùng Hỏa Hổ, Thần Long một hồiHớn Minh đánh xuống một roiHai chàng đều bị một hồi mạng vongNguyên nhung Cốt Ðột nổi xungHai tay xách búa đánh cùng Hớn MinhHớn Minh sức chẳng dám kinhThấy chàng hóa phép thoát mình trở luiVân Tiên đầu đội kim khôiTay cầm siêu bạc, mình ngồi ngựa ô Một mình nhắm trận xông vôThấy người Cốt Ðột biến đồ yêu maVội vàng trở ngựa lui raTruyền đem máu chó đều thoa ngọn cờBa quân gươm giáo đẳu giơYêu ma xem thấy một giờ vỡ tanSa cơ Cốt Ðột chạy hoangVân Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theoÐuổi qua khỏi đặng bảy đàoKhá thương Cốt Ðột vận nghèo nài baoChạy qua ngang núi Ô-sàoPhút đâu con ngựa sa hào thương ôiVân Tiên chém Cốt Ðột rồiÐầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quânÔi thôi bốn phía đều rừngChú thích:3.Doãn Phủ: hai chữ này nghi có sách chép sai. Hạ Cơ thông tình với Nghi Hành Phủ và lấy Liên Doãn Tương Lão, vậy hai chữ này phải là Hành Phủ, vì theo nghĩa của câu văn, dưới đặt chữ Trần Quân (vua Trần, tức Linh công), thì trên nên đặt là Hành Phủ, hai người cùng thông tình, mà lại đồng thời.4.Lữ hậu: Lã hậu (chữ Lã chính âm là Lữ), tức Lã Trĩ, vợ Hán Cao Tổ (Lưu Bang). Lã Hậu tư thông với Thẩm Dị Ky, người này trước là quan hậu cận Lã hậu, sau có công đánh giặc, được phong tước hầu, khi Cao Tổ chết, Lã hậu thường giấu giếm Dị Ky ở nơi cung cấm và yêu đương tin dùng, cử làm Thừa Tướng.5.Võ hậu: xem chú thích ở câu 800. Khi Vũ hậu làm vua, tin dùng bọn gian nịnh và thông tình với anh em Trương Xương Tông và Trương Dịch Chi, hai người cùng đẹp trai, nguyên trước cử vào hầu hạ trong cung, sau được Vũ hậu yêu đương cho làm quan chức ở triều.6.Di Tông, Tam Tư: bốn chữ này ghi cũng chép sai. Theo Ðường sử. Vũ hậu thông tình với Xương Tông và Dịch Chi, chứ không với Tam Tư, tức Vũ Tam Tư, cháu gọi Vũ hậu là cô.7.Trắc nết: hư nết, xấu nết. Câu này phỏng theo câu ca dao: "Chính chuyên chết cũng ra ma, lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng".8.Như Ý: một nhân vật chính trong một vở tuồng Tả Sự gặp gỡ của Như Ý và Văn Quân. Như Ý giúp Văn Quân, một chàng thanh niên tài giỏi, trốn tránh được khỏi tay quân thù. Về sau hai người lấy nhau.9.Chấp nhất: câu nệ, khăng khăng giữ một10.Lịch sự: chính nghĩa là trải (thông thạo) việc đời. Ta thường dùng để chỉ những tác phong, cử chỉ, ăn nói, ăn mặc có tính cách chững chạc, trang nhã, chỉnh tề, đẹp đẽ.11.Xuân bất tái lai: xuân không trở lại lần nữa. nói: một tuổi một già đi.12.Vọng phu: trông chồng. Ðây là một tích cũ đã phổ biến ở Trung-quốc cũng như ở Việt-nam. Hai câu này nói: tội gì mà làm người vọng phu cho uổng một đời người trẻ đẹp.13.Thở ra: cũng như nói ra.14.Tua: nên, phải. Do chữ Hán tu nói chệch ra.15.Thủy chung: trước sau như một.16.Ðộng phòng: có hai nghĩa: 1) căn phòng sâu kín nói chung; 2) căn phòng dành cho việc tân hôn của đôi vợ chồng. Ðây dùng nghĩa thứ hai.17.Gối sách: gối gấp như chồng sách.18.Bát bửu: (Bát bảo): tám thứ vật quí. Cỗ đồ bát bửu đây là các thứ gươm, giáo, chùy, búa... làm bằng đồng, bạc để bày trong nhà sách cho sang trọng.19.Vách phấn: tường vôi20.Trăng lờ: trăng tối, tức là không có trăng, vì đêm tối không trăng nên dưới nói đi nhớ ánh sáng đom đóm.21.Truông: vùng đất bỏ hoang, cây cỏ mọc thành bụi thấp.22.Bàn thạch: tảng đá lớn và phẳng.23.Vưng: bảo hộ, phủ trì.24.Bô vải: bô do chữ bố và vải. Bô vải như nói vải sồi.25.Quan san: cửa ải và núi non. Chỉ những nơi cách trở xa xôi.26.Thứ ra đời: lớp chuyện kể một nhân vật đang sống ẩn mình nay "ra đời" hoạt động. Ðây nói Lục Vân Tiên "ra đời"27.Linh dược: thuốc màu nhiệm, chỉ thuốc tiên.28.Qui y: đi tu, quy là hướng theo, y là nương tựa, nói đem cả thân thể, tâm chí hướng tựa vào đạo Phật.29.Hư, nên: như nói có khi cùng khốn nhưng cũng có lúc vinh quang.30.Phần mộ: mồ mả. Viếng an: do chữ Hán vấn an, thăm viếng xem có được bình an mạnh khoẻ không. ở đây là đi viếng mộ.31.Minh sinh: minh tinh, tức mảnh lụa hay vải dài có viết họ tên, chức tước của người chết để rước đi lúc đưa ma. ở đây treo lên bàn ở chỗ cúng.32.Nguồn nước cội cây: nguồn của nước, cội (gốc) của cây. Ðây dùng chỉ cha mẹ.33.Chín trăng: chín tháng. nói mang thai chín tháng.34.Nằm giá: Vương Tường đời Tấn, khi mùa Ðông, nước đóng thành băng, mẹ già thèm ăn cá, ông ra nằm trên băng để tìm kiếm, băng tan, hai con có chép nhảy lên, ông bắt về dâng mẹ. Khóc măng: Mạnh Tông người nước Ngô đời Tam quốc, mẹ già thèm ăn măng, nhưng mùa Ðông không có, ông vào rừng tre khóc lóc cầu khẩn, rồi được măng mọc đưa về. Ðây là hai sự tích trong sách "Nhị thập tứ hiếu" của Quách Cư Nghiệp (có sách là Quách Cư Kinh) đời Nguyên.35.Ra bề: ra bề thế.36.Biếm quyền: hạ quyền xuống, giáng chức quan. Nói Kiều công vì bọn nịnh thần mà bị tước quyền đuổi về.37.Ðoàn viên: chỉ sự tụ họp sum vầy của vợ chồng hay gia đình, thân thuộc.38.Hồ Việt: danh từ này thường dùng để chỉ sự xa cách nhau, mỗi người một nơi, như hai nước Hồ Việt, một ở tận phương Bắc, một ở tận phương Nam.39.én nhàn: én nhạn.40.Chia bâu: chia rẽ, phân ly.41.Nữ sinh: con gái, cũng như nói "nữ nhi" (khác với "nữ sinh" là học sinh con gái).42.Ôn nhuần: ôn tập lại cho thấm nhuần thêm.43.ứng kỳ: theo kỳ thi mà đi thi.44.Kinh sư: kinh đô.45.Khôi khoa: đỗ đầu khoa, ở đây là đỗ trạng nguyên.46.Y mão (mạo): áo mũ của vua ban.47.Hiển vinh về nhà: lệ thi thời xưa, những người thi đỗ tiến sĩ, sau khi đỗ, nhà vua có ban mũ, áo, cờ và tấm biển khắc bốn chữ "Ân tứ vinh qui", nghĩa là ơn vua cho được vẻ vang trở về.48.Quan ải: cửa ải nước nọ sang nước kia.49.Chỉ: lệnh của vua.50.Quốc trạng: trạng nguyên của cả nước.51.Dẹp loàn: dẹp loạn52.Ðề binh: đem binh đi đánh giặc.53.Kình: đối địch lại (kình địch). Trương Phi: một danh tướng đời Tam quốc, có sức mạnh, giỏi đánh trận, kết nghĩa anh em với Lưu Bị.54.Từ bi: yêu đương và thương xót người, tiêu biểu của đạo Phật. Ở đây là cửa Phật55.Tương hội: gặp nhau, sum họp cùng nhau.56.Nhất thinh (thanh) phấn phát oai lôi: lôi là sấm, một tiếng truyền lệnh, oai hùng như sấm, làm phấn khởi mọi người.57.Tiên phong: toán quân xông trận ở mặt nước. Hậu tập: toán quân tiếp ứng và đánh bọc phía sau. Tấn binh: tiến binh (chữ tiến chính âm là tấn). Nói các toán quân tiên phong hậu tập nghe lệnh truyền trống đánh, đều phấn khởi mà tiến lên.58.Binh tặc: dẹp giặc.59.Binh đáo quan thành: binh đến trước thành cửa quan.60.Cự đang (đương): chống địch lại.61.Nguyên nhung: nguyên soái chỉ huy toàn quân.62.Hóa phép: dùng phép yêu quái để đánh trận. Hai câu này nói: Hớn Minh thấy Cốt Ðột hóa phủp, sức không địch được, phải thoát mìy nóy63.Kim khôi: khôi là thứ mũ dùng khi ra trận, đời cổ chế bằng da, đời sau chế bằng sắt, và cũng chế bằng đồng hay dát vàng gọi là kim khôi.64.Phản hồi bổn quân: trở về toán quân của mình