Vào chuyện

ở Bát-đa, dưới triều vua Ha-run-an Rát-xít có một người phu khuân vác đáng mến vì sự thông minh và tính tình vui vẻ của mình.
Một buổi sáng kia, anh ta đang đứng chờ xem có ai nhờ anh giúp việc có ai giúp việc không thì có một phu nhân còn rất trẻ, đeo một chàng mạng lớn bằng the tới nơi và hỏi anh bằng giọng êm ái:
- Nghe đây, anh khuân vác, cầm lấy cái thúng và đi theo ta!
Người phu khuân vác rất lấy làm vinh hạnh đôi thúng lên đầu, đi theo người phụ nữ và nói:
- Ôi một ngày sung sướng, ôi một ngày có cuộc gặp gỡ tốt đẹp!
Sau khi mua những thức ăn ngon lành, một khối lượng rất lớn khiến người phu khuân vác phải còng lưng để mang chiếc thúng trên vai, người phu nhân trẻ tuổi ấy tới trước một ngôi nhà sang trọng, mặt trước có những cây cột rất đẹp, một bộ cửa bằng ngà trên đó có một tấm biển mang hàng chữ vàng: "Ai nói những chuyện không liên quan gì tới mình sẽ nghe được những lời không hài lòng". Họ dừng lại, người phụ nữ gõ lên cánh cửa mấy tiếng nhẹ nhàng. Một phu nhân khác ra mở cửa, và người khuân vác, khi nhìn thấy người phụ nữ này, đã suýt để rơi chiếc thúng với tất cả những gì đựng bên trong. Sự xuất hiện ấy quá bất chợt: anh chưa bao giờ thấy một sắc đẹp tương tự như người đứng trước mặt mình.
Hai người mời anh vào nhà, sau khi đi qua một phòng xép tới một cái sân rộng thông với nhiều phòng ngang nhau. ở cuối sân có một bộ bàn ghế sô-pha rất đẹp, ở giữa có một cây cột bằng gỗ mun gắn những viên ngọc kim cương sáng lấp lánh. Người khuân vác trao hàng và nín thở trước quang cảnh lộng lẫy ấy.
Nhưng cái làm anh chú ý hơn cả là sự xuất hiện của phu nhân thứ ba, đẹp hơn cả người thứ hai mà anh vừa nhìn thấy.
Qua cách xưng hô của hai người kia với phu nhân này, anh cho đây là người chủ chính, anh đã không nhầm. Người ấy tên là Zô-bê-ít; người ra mở cửa là Xa-phi; và A-min là người đi chợ mua thức ăn. Trong khi A-min và Xa-phi đi lấy thức ăn trong thúng ra thì Zô-bê-ít hiền lành lấy tiền trả cho người phu khuân vác rất hậu.
Người này rõ ràng đã rât thoả mãn nhưng còn chần chừ chưa chịu đi khi thấy ba sắc đẹp ấy đang tập trung tại đây.
- Anh còn đợi gì nữa? - Nàng Zô-bê-ít hỏi - Anh chưa được trả đủ tiền công hay sao?
- Thưa bà - Người phu khuân vác nói - Không phải cái đó giữ tôi lại, tôi đã được trả công nhiều hơn sự khó nhọc của mình; tôi chỉ ngạc nhiên không thấy một người nam giới nào giữa ba phu nhân sắc đẹp hiếm có. Tha lỗi cho tôi về sự không kín đáo này.
Anh ta đọc luôn một câu ca dao của những người ở Bát-đa, nói rằng bàn ăn không đủ bốn người thì không tốt, và kết luận râừng các bà có ba người, tất nhiên các bà cần một người thứ tư. Các phu nhân không những không bực mình mà còn bật cười với câu nói của anh.
- Anh bạn - Nàng Zô-bê-ít bảo anh - Anh đã đi xa hơn sự thiếu kín đáo đấy, nhưng tôi muốn cho anh biết rằng chúng tôi là ba chị em ruột, chúng tôi sinh sống một cách bí mật mà mọi người không biết tí gì. Chúng tôi rất muốn mời anh ở lại dùng bữa, vì thấy anh là người thật thà, nhưng với điều kiện anh không được hỏi chúng tôi điều gì, anh phải giữ đúng phép lịch sự và tính trung thực.
Người phu khuân vác long trọng cam kết và cúi mình trước ba vị phu nhân để cám ơn đã cho cái vinh dự ấy với một người thuộc tầng lớp anh. Sau đó A-min mang thức ăn đặt trên bàn; và sau khi nàng đã thắp sáng nhiều ngọn nến làm bằng nhựa cây lô hội và hổ phách xám toả ra mùi hương dễ chịu và ánh sáng mát dịu, nàng ngồi xuống cùng với các chị và anh phu khuân vác. Họ bắt đầu ăn, uống, hát và ngâm thơ. Các phu nhân muốn làm cho anh say dưới lý do mời anh uống để mừng cho sức khoẻ của họ. Những lời nói tốt được thốt ra một cách hào hứng. Cuối cùng họ thấy mình là người vui vẻ nhất trên đời thì có tiếng gõ cửa.
Xa-phi chạy ra cửa sau đó quay lại.
- Thưa các chị- Nàng nói - Đây là dịp tốt để làm cho buổi tối của chúng ta thêm vui vẻ. Trước cửa nhà chúng ta có ba nhà sư khất thực; trông cách ăn vận có vẻ là người như thế. Nhưng cái sẽ làm chúng ta ngạc nhiên là cả ba đều chột một mắt bên phải, râu, tóc và lông mày cạo nhẵn. Họ nói là mình vừa tới Bát-đa lạ lẫm và trời tối, họ không biết sẽ nghỉ ở đâu nên gõ cửa nhà chúng ta yêu cầu vì tình thương của Thượng đế nhân đức cho họ tạm trú lại. Họ rất trẻ và tỏ ra lễ phép; hình như rất thông minh nữa. Em không thể không buồn cười về những bộ mặt ngộ nghĩnh và giống nhau của họ. Các chị có cho họ vào nhà không?
- Cho họ vào - Zô-bê-ít nói - Nhưng phải nhớ căn dặn họ không được nói những gì không liên quan đến họ, bảo họ đọc kỹ hàng chữ trên tấm biển trước cửa.
Nghe vậy, Xa-phi chạy ra mở cửa, và ngay sau đó, nàng trở vào mang the oba nhà sư khất thực khiêm tốn cúi chào họ trước khi vào trong phòng. Khi họ đã ngồi vào bàn, các phu nhân mang thức ăn ra cho họ. Họ ăn uống giữ gìn ý tứ, không nói một lời nào, nhưng đến cuối bữa, họ đề nghị với các phu nhân cho họ được hoà nhạc nếu nhà có nhạc cụ. Nàng Xa-phi xinh đẹp mang ra cho họ một cây sáo dân tộc, một cây sáo Ba-tư và một cái trống xứ Ba-xcơ. Mỗi người nhận ở tay nàng một nhạc cụ ưa dùng, họ bắt đầu chơi một giai điệu. Các phu nhân biết phần lời hát theo. Tiếng nhạc, tiếng hát càng ngày càng lớn và đang lúc náo nhiệt thì có tiếng gõ cửa. Xa-phi ngừng hát chạy ra.
Cần phải biết thêm nay vua Ha-run an Rát-xít theo thói quen của mình, đi vi hành từ chập tối, theo sau có quan thủ hiến Gia-pha và viên tổng quản Mét-rua. Cả ba dều cải trang thành lái buôn. Khi đi qua chỗ này, tiếng cười lớn, quay lại nói với quan thủ hiến:
- Gõ cửa nhà này, họ làm gì mà ầm ỹ lên như vậy; chúng ta phải vào xem sao.
Và quan thủ hiến đã gõ cửa nhà các phu nhân theo lệnh của nhà vua. Xa-phi mở cửa, dưới ánh sáng của cây nến quan thủ hiến thấy đây là một phụ nữ rất đẹp. Ngài làm đúng vai trò của mình, cung kính cúi chào và lễ phép nói:
- Thưa phu nhân, chúng tôi là ba lái buôn ở Mu-xun mới tới đây chừng mươi ngày. Tối nay chúng tôi tới chơi nhà một bạn hàng ở Bát-đa theo lời mời của ông ta. Vì không thuộc đường đi, khi trở về chúng tôi bị lạc, không thể tìm ra nơi tạm trú của mình được. Chúng tôi xin các phu nhân làm ơn cho nghỉ lại đây trong một pohòng xép nào đó, được không?
Xa-phi quay ra xin ý kiến các chị; họ đồng ý cho ba người lái buôn vào nhà. Nhà vua, quan thủ hiến và viên tổng quản được Xa-phi dẫn vào chào các phu nhân, các nhà sư khất thực và anh phu khuân vác một cách lịch thiệp.
- Các vị là những vị khách nồng hậu - Zô-bê-ít nói với họ - Nhưng trước hết, chắc các vị không phiền lòng khi tôi yêu cầu một ân huệ.
- Ân huệ nào thưa bà? - Người thủ hiến lại hỏi - Liệu người ta có thể từ chối một điều gì đó với các phu nhân xinh đẹp không? Zô-bê-ít nói tiếp:
- ở đây chỉ cần mắt chứ không cần lưỡi, các vị không được nói đến những gì không liên quan tới các vị, vì sợ rằng các vị đã phải nghe những lời không mấy hài lòng.
- Chúng tôi vâng lời bà - Ngài thủ hiến đáp - Chúng tôi không phải là những người thóc mách, cũng không phải là những người tò mò.
Nói xong mọi người ngồi xuống và người ta uống chúc mừng những vị khách mới tới. Trong khi ngài thủ hiến tiếp chuyện các phu nhân thì đức vua vẫn ngắm nhìn những sắc đẹp khác thường, sự vui vẻ và trí thông minh của các bà. Mặt khác nhà vua cũng rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy ba nhà sư khất thực đều chột mắt bên phải cả. Chuyện này cũng dễ hỏi, nhưng người ta đã cấm không được nói. Và còn rất nhiều điều đáng ngạc nhiên trong tối nay.
Lúc này, Zô-bê-ít đứng lên, thở dài và bước ra khỏi phòng nói:
- Bây giờ chúng ta phải làm bổn phận của mình...
Nàng vào phòng bên, một lát sau bước ra, tay cầm hai sợi dây buộc cổ hai con chó đen đi theo. Tay kia nàng lấy một chiếc roi đánh hai con chó rất đau mặc cho chúng kêu rền rĩ rất đáng thương. Xong việc, nàng ôm lấy những con vật khốn khổ và cùng khóc với chúng sau đó lại nhốt chúng vào phòng cũ.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua cũng như những người đi theo, người phu khuân vác đều ngạc nhiên về hình phạt này, nhưng vì đã cam kết ngậm miệng nên họ không thể đặt ra câu hỏi được. Zô-bê-ít đứng lặng một lúc giữa nhà cho đỡ mệt.
- Chị thân mến - Nàng Xa-phi xinh đẹp nói- Xin mời chị về chỗ để em làm bổn phận của em, được chứ?
- Phải - Zô-bê-ít trả lời và ngồi vào chỗ.
Xa-phi cầm lấy cây lư cầm dạo một vài nốt sau đó cất tiếng hát có đàn đệm theo. Nàng hát một bài hát về sự đau khổ của nỗi cách xa một cách rất tình cảm khiến mọi người thích thú. Nàng hát và chơi đàn rất lâu. Sau đó đến lượt A-min thay phiên cầm lấy đàn hát tiếp cùng với đề tài ấy, cuối cùng vì quá cảm động nàng ngất đi. Khi ngã xuống thảm, vai áo nàng bị rách để lộ ra một vết ghê sợ đối với các vị khách.
Trong khi Zô-bê-ít và Xa-phi chăm sóc người bị ngất thì một trong số nhà sư khất thực không thể nén nổi nữa buột miệng nói:- Thà rằng ngủ ngoài trời còn hơn là vào nhà này nếu chúng ta biết trước là sẽ có những cảnh tượng ấy.
Nghe thấy vậy nhà vua quay sang và nhà sư khất thực và phu khuân vác.
- Thế là thế nào? - Ngài hỏi họ.
- Trời ơi, chúng tôi cũng không hiểu gì hơn ông.
- Sao, các vị không là người trong nhà này ư? Các vị không biết gì về hai con chó cái đen và về người phụ nữ có những vết sẹo trên vai ư?
- Trời ơi- Các nhà sư khất thực lại nói - Cả đời chúng tôi chưa bước chân vào đây, chúng tôi tới đây trước các ông một lúc thôi.
Việc đó càng làm cho nhà vua ngạc nhiên hơn.
- Nghe đây - Nhà vua nói với mọi người - ở đây có bảy người đàn ông mà chỉ có ba phụ nữ, chúng ta sẽ buộc họ phải nói rõ những điều chúng ta muốn biết. Nếu họ từ chối thì chúng ta sẽ cưỡng bức họ.
Khi trở lại chỗ ngồi, Zô-bê-ít đã nghe thấy những lời cuối cùng ấy và nàng trở nên rất giận dữ, vỗ mạnh tay ba cái, nàng kêu to:
- Ra đây mau!
Ngay lập tức, một cánh cửa bật mở và bảy tên nô lệ da đen, lực lưỡng, kiếm trên tay, xông vào, mỗi tên túm lấy một người, quật xuống đất và lôi ra giữa nhà. Nhà vua khốn khổ, ngài thủ hiến, viên tổng quản, ba nhà sư khất thực và anh phu khuân vác thấy mình sắp phải trả giá bằng mạng sống cho sự tò mò ấy, nhưng trước khi nhận được phát kiếm chết người thì một trong những tên nô lệ nói với Zô-bê-ít và các cô em:
- Kính thưa các chủ nhân đáng kính, các ngài ra lệnh cho chúng tôi chặt đầu họ chứ?
- Khoan - Zô-bê-ít trả lời - Ta cần thẩm vấn họ trước đó.
Và quay sang các vị khách:
- Trả lời cho chúng ta rõ các người là ai, nếu không các người chỉ còn một thời gian ngắn để sống thôi. Ta đã tưởng các ngươi thật thà cũng như những người thật thà cũng như những người chức dịch ở đất nước này. Các người đã không giữ lời, đã muốn biết những bí mật của chúng ta.
Trước hết nàng hỏi ba vị nhà sư khất thực, thấy họ đều chột một mắt nàng hỏi họ có phải là anh em không.
- Không, thưa phu nhân - Người thứ ba nói - Cũng có thể nói ngay với bà rằng chúng tôi không phải là thường dân mà là con những vị vua có danh tiếng trên thế gian này.
Nghe tới đây Zô-bê-ít bớt giận:
- Để họ được tự do - Nàng nói với những tên nô lệ - Nhưng các người hãy hãy cứ ngồi đấy. Người nào kể rõ câu chuyện mình và nói rõ những lý do đến ngôi nhà này thì không bị xử tội và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ta sẽ không tha cho người nào từ chối chúng ta sự thoả mãn ấy.
Ba nhà sư khất thực, nhà vua, quan thủ hiến, viên tổng quản và anh phu khuân vác ngồi trên thảm giữa nhà trước mặt ba phu nhân ngồi trên ghế sô-pha và các nô lệ của họ.
Anh phu khuân vác lên tiếng đầu tiên:
- Thưa phu nhân - Anh nói - Bà đã biết câu chuyện của tôi và lý do tôi đến ngôi nhà này. Em gái bà đã thuê tôi mang hàng cho bà ấy, tôi đã đi theo bà ấy từ cửa hàng này sang cửa hàng khác, sau đó tôi tới nhà bà và bà đã có lòng tốt đón tiếp tôi. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn này.
Khi người phu khuân vác nói xong, Zô-bê-ít hài lòng nói:
- Thôi anh đi ngay để chúng ta không bao giờ nhìn thấy anh nữa.
- Thưa bà- Người phu khuân vác nói- Xin bà cho tôi ngồi lại. Thật là không công bằng là sau khi đã kể chuyện mình mà tôi lại không được nghe chuyện các vị kia.
Zô-bê-ít chấp nhận điều này, anh phu khuân vác tới ngồi bên mép ghế sô-pha, vui mừng vì thoát khỏi vòng nguy hiểm. Sau anh ta, một trong ba nhà sư khuất phục bắt đầu kể chuyện mình.