Thường lệ, khi gặp nạn bất thần, người ta hay buột miệng kêu chết. Thậm chí cô gái ngây thơ dẫm nhằm con kiến cũng kêu chết. Vì vậy Văn Bình không nghĩ đến can thiệp thần tốc sau tiếng kêu thất thanh của cô gái thân hình nảy nở và khêu gợi tự nhận là nữ tỉ phú Sôphia. Sự trì chậm của chàng đã mang lại hậu quả tai hại. Một phát súng thứ hai nổ vang. Lần này, mọi người đã nghe quen tai nên tiếng nổ có vẻ nhỏ bé hơn lần trước. Song đối với điệp viên Z.28 nó lại kêu lớn lạ thường. Nó ngân dội trong óc chàng như thể bom chuỗi ghê rợn của pháo đài B-52 vừa rớt nổ ngay bên cạnh. Khỏi cần nhìn cô gái đang giãy giụa trên nền nhà, Văn Bình đã biết là viên đạn thứ hai này được giành riêng cho nàng. Phát thứ nhất mới xuyên bả vai nên nàng còn sống, phải chờ phát thứ hai - phát ân huệ - được bắn trúng ngực, nàng mới chịu buông xuôi hai tay, miệng há rộng cố đớp nuốt những phần tử dưỡng khí thần tiên, trước khi thở hắt ra một tiếng ngắn. Một gã hidờra mặc đồ trắng rộng thùng thình từ góc phòng hùng hổ chạy lại. Trên tay hắn, miệng súng còn bốc khói nghi ngút. Hắn chúc đầu súng xuống, nghiến răng bóp cò lần nữa. Khi ấy hắn đã ở gần Văn Bình. Chàng khoèo chân nhẹ là hung thủ bổ ngửa. Nhưng chàng không có phản ứng. Cô gái đội lốt Sophia đã chết, không phép lạ nào của loài người có thể cứu nàng sống lại. Chàng không có phản ứng vì muốn đợi xem đại tá Bani sẽ xử trí ra sao. Chàng thấy Bani luống cuống, bàn tay thọc vào túi quần rồi rút ra, sau cùng luồn dưới nách mới tìm thấy khẩu súng tùy thân. Tuy nhiên, có khí giới đàng hoàng trong tay mà Bani vẫn chưa hết luống cuống, khiến chàng có cảm tưởng hắn đang say mèm vì rượu khoái lạc bờ-han. Gã hidờra bắn phát thứ ba. Viên đạn bị hóc, hắn nổi xung, quăng khẩu súng vào cái đôn xứ kêu choang, rồi tay bưng đầu le te chạy ra ngoài. Văn Bình chặn hắn lại, nắm ngực hắn, giọng đe dọa: - Mày chạy đi đâu? Gã hidờra run cầm cập: - Tôi sợ quá, sợ quá! - Tại sao mày sợ? - Tôi lỡ giết người. - Ai cho phép mày bắn chết cô ta? Gã hidờra lắc đầu lia lịa: - Tôi không biết. Tôi không biết. Tự nhiên súng nổ... Đại tá Bani vừa lấy súng ra khỏi bao da đeo dưới nách lại trù trừ cất vào trong. Văn Bình quay lại hỏi: - Ông nghĩ sao? Bani đáp: - Theo tôi, thái độ của hắn không vô lý. Hắn là cận vệ thân tín của tôi, trong trường hợp tôi bị uy hiếp hắn có trách nhiệm tìm mọi cách cứu tôi. Vả lại, nếu hắn không nổ súng thì cô ấy cũng nổ súng. Nhưng dầu sao hắn chỉ nên bắn nàng bị thương thì hơn. - Hắn đã cố ý bắn chết. - Từ nãy đến giờ, tôi băn khoăn là vậy. Cô gái kia bị bắn chết, chúng ta mất đi một nhân chứng, một xuất xứ tin tức quan trọng. Sự chủ tâm của hắn bắt tôi phải nghi ngờ. Song ngược lại, nếu hắn không nổ súng, tôi lại cho hắn là kém trung thành. Văn Bình xô nhẹ, gã hidờra ngã chúi vào chân tường. Nạn nhân nằm mọp mấy phút mới dậy được. Không khí trong phòng có vẻ ngột ngạt. Gã hidờra lấm lét ngó đại tá Bani và Văn Bình rồi lủi thủi ra cửa. Trong phòng chỉ còn lại hai gã vệ sĩ hidờra phốp pháp, làn da đen thui như tượng đồng đen, Bani ngoắt tay đuổi hết ra ngoài. Văn Bình châm thuốc ngửa cổ thở một hơi, Bani cất tiếng phá màn im lặng ngột ngạt: - Một lần nữa tôi xin ông cảm phiền. Văn Bình nghiêm giọng: - Ông đã gặp cô Sophia chưa? Hắn đáp, giọng yếu xìu: -Thú thật là chưa. Trong khi tôi đi dự hội Lửa ở xa Bombay thì cô Sophia đến đây. Chẳng giấu gì ông, đời sống ở Ấn Độ luôn luôn phẳng lặng, chưa hề có chuyện lớn nên từ nhiều tháng nay tôi rất nhàn rỗi, và để giết thời giờ tôi phải uống rượu và chơi bời. Đàn ông chơi bời là thường, phải không ông? Tôi chỉ công nhận một nhược điểm, ấy là say sưa tối ngày. Về đến văn phòng tôi đang còn chếnh choáng, cho nên... - Ông sai đàn em giả làm ông để đón tiếp tôi? - Vâng. Thằng em sinh đôi của tôi thay mặt tôi rất thường. Nhiều khi nó về thủ đô Tân Đề Li nhóm họp với thượng cấp mà chẳng ai khám phá ra. Ông là người đầu tiên biết rõ bí mật. - Và em ông sai cô gái giả làm Sophia? - Thưa không. Tôi vừa chân ướt chân ráo về đến trụ sở, chưa kịp rửa mặt, thay đồ thì có điện thoại gọi cho tôi, người gọi xưng là Sophia. Thượng cấp dặn tôi phải nỗ lực giúp đỡ phái đoàn khoa học Anfa, và đặc biệt giành mọi sự dễ dãi riêng cho nữ tỉ phú Sophia, do đó, ngay sau khi nàng gọi dây nói tôi ra xe lái thẳng đến khách sạn để hội kiến với nàng. - Ông đã gặp nàng trong khách sạn? - Không. Nàng chờ tôi trong xe hơi, đậu phía trước. Nàng nói là không thể tiếp tôi trong khách sạn vì sợ địch bắt cóc nàng. Nàng cho biết là tính mạng nàng bị đe dọa trầm trọng, nàng cần tôi bảo vệ. - Sau đó nàng theo ông về văn phòng? - Vâng. Đúng ra, tôi mời nàng. Nàng vừa tới văn phòng tôi được một lát thì gặp ông. - Nàng chưa nói gì với ông? - Chưa. - Trước kia, ông đà liên lạc lần nào với cô Sophia chưa? - Chưa. Đây là lần thứ nhất. Tôi chưa hề giáp mặt. Cũng chưa có tấm hình nào của nàng. Vì vậy tôi đinh ninh cô gái gọi điện thoại và chờ tôi trước lữ quán là nữ tỉ phú Sophia. Khi về đến cửa phòng Văn Bình gặp lại Hồng Nương. Nàng bước rảo qua mặt chàng, dáng điệu bối rối và hấp tấp. Chàng không muốn chặn nàng lại mặc dầu lòng chàng chưa hết rạo rực. Chàng ngồi yên trong ghế, hút Salem liên miên. Mãi đến hai giờ sau đại tá Bani mới lò dò tới. Thuộc viên của hắn đã gọi điện thoại về trụ sở đoàn Quạ Đen báo cáo đầy đủ chi tiết, ngay sau khi án mạng xảy ra, song đại tá Bani đã biến dạng khỏi văn phòng. Chắc Bani bị mắc kẹt trong một ổ nhện nào đó; bằng chứng là khi hắn xuống xe tất tưởi xô cửa phòng khách của biệt thự, miệng hắn, quần áo hắn còn nồng nặc hơi men. Không phải hơi men dụi dàng mà là hơi men rượu bờ-han, nửa ly đủ đánh gục con bò mộng. - Đại tá Bani chẳng giải quyết được gì vì hai tên cận vệ xấu số của Sophia, ngoan ngoãn theo nàng từ Mỹ tới, đã được chở vào nhà xác: toán an ninh trong biệt thự đã lục soát từng tấc đất trên bãi biển, và từng góc nhỏ trong nhà mà không khám phá ra dấu vết cỏn con nào; mặc khác, nữ tỉ phú Sophia đã lên giường ngủ một cách phớt tỉnh. Chỉ còn lại Hồng Lang, nhưng hắn không thốt nửa lời, hắn ngồi thu gọn trong góc xa-lông, bầu bạn với chai rượu mới khui. Rượu là món quốc cấm ở Bombay, Bani lại là bợm nhậu có môn bài quốc tế nên rốt cuộc Bani xà lại, rồi cả hai thi đua uống huýt-ky. Dĩ nhiên Văn Bình không thể đứng ngoài vòng chiến, đóng vai bàng quan vô trách nhiệm. Phương chi Hồng Lang đã ân cần mời mọc. Và để chứng tỏ hắn không phải là tay mơ trong nghề... Lưu linh, hắn đã mở tủ lấy thêm mấy chai rượu mạnh nhập cảng. Ba người chén tạc chén thù với nhau cho đến gần sáng. Những vụ án mạng tàn bạo, những kẻ thù rình rập từng giờ từng phút, những công việc hệ trọng đang chờ tại cao nguyên Đề-căn mà kết quả có thể ảnh hưởng lớn đến thị trường quý kim trên thế giới... tất cả đã được bỏ quên... Văn Bình không còn nhớ đã uống bao nhiêu ly huýt-ky nữa. Đại tá Bani ngã vật xuống nền nhà khi Hồng Lang bắt đầu khui chai thứ hai. Hắn nằm dài trên tấm thảm Ba tư bằng len đắt tiền sặc sỡ và ngáy o o. Trong khi ấy Hồng Lang vẫn tỉnh. Sức chịu đựng bền bỉ của Hồng Lang làm Văn Bình vô cùng sửng sốt. Chàng đinh ninh bộ vó đẹp trai pha vẻ đàng điếm của hắn sẽ bắt hắn đầu hàng vô điều kiện. Chàng không ngờ càng uống hắn càng khỏe ra. Mặt hắn mỗi lúc một tái thêm, và đêm càng khuya hắn càng uống dữ. Văn Bình không bao giờ say, những khi chếnh choáng say là do sức lực chàng bị suy yếu bất ngờ, vậy mà gân cốt chàng cũng bắt đầu run. Cũng may Hồng Lang đã hết rượu, nếu trong tủ đang còn một chai, chỉ một chai nhỏ thôi, là Văn Bình đã theo đại tá Bani đo ván hoặc ít ra cũng đứng ngồi không vững. Hồng Lang cười rú như bị ai thọc lét rồi lấy tay gạt đống vỏ chai và ly pha lê đổ vỡ loảng xoảng. Dường như hắn có thói quen đập bể mỗi lần uống rượu, chứ không phải vì hơi men đã làm hắn mất trí khôn. Hắn thản nhiên ngắm hàng chục, hàng trăm mảnh thủy tinh lớn nhỏ đủ cỡ, và xanh đỏ đủ màu vung vãi khắp phòng, rồi thản nhiên nằm quay lơ trên đi-văng. Phút chốc giấc ngủ đã xâm chiếm cơ thể Hồng Lang. Văn Bình phải vục đầu vào thau đầy nước lạnh một hồi lâu mới hết mỏi mệt. Tòa nhà rộng mênh mông tinh không một tiếng động, ngoại trừ tiếng gió và tiếng sóng ngoài biển tạt vào. Chàng kéo ghế xa-lông lại gần Hồng Lang và bắt chước hắn kéo luôn một giấc. Chàng tiếp tục ngủ mê mệt, tiếp tục say đứ đừ cho đến khi đoàn hộ tống Quạ Đen đưa chàng cùng phái đoàn Anfa ra phi trường, bay đến một địa điểm kín đáo được mệnh danh bằng mật ngữ trên bản đồ là A-5, A tức là Anfa, trong vùng cao nguyên Đề-căn, nơi đã xảy ra những vụ ám sát và biệt tích kỳ lạ.
*
° 24 giờ đồng hồ sau. Khác với 24 giờ đồng hồ đầu tiên của điệp viên Văn Bình trên đất Bombay chứa đầy tai nạn hiểm nghèo, tính mạng luôn luôn bị đe dọa, với những xác chết còn nóng hổi mà thủ phạm lại biến mất như có siêu pháp thuật, 24 giờ đồng hồ sau đã trôi qua trong bầu không khí tương đối phẳng lặng. Ngoại trừ một vài biến chuyển bất thần khiến Văn Bình phải tỉnh táo, kỳ dư chuyến bay từ trung tâm Bombay đến vùng cao nguyên hoang liêu chẳng có gì đáng nói. Theo chương trình định trước, đoàn xe Rolls Royce dài ngoằng và cao lênh khênh đến rước phái đoàn Anfa đúng 7 giờ sáng. Nhưng đến 7 giờ rưỡi, đại tá Bani, chỉ huy cơ quan Quạ Đen, còn ngủ li bì, một thuộc viên liều mạng bước vào phòng đánh thức, hắn mới chịu mở mắt. Và Bani xúc miệng bằng một ly bờ-han đầy ắp trước khi vươn vai, đeo lại dây lưng da lủng lẳng khẩu súng lục Luger bì đạn còn 4 viên đã tuột ra ngoài. May phước đêm trước đại tá Bani không dùng súng, vì trong nòng không còn viên đạn nào cả. Đoàn xe Rolls bóng loáng có thể soi giương để nhổ râu đậu thành hàng dài ngoài sân, xe nào cũng có tài xế mặc đồng phục mới giặt ủi thẳng nếp, và có nhân viên an ninh võ trang súng tự động, xe riêng giành cho nữ tỉ phú Sophia có riềm che kín mít, hai bên lại có mô-tô hộ tống. Sự thức giấc trong biệt thự phù hợp với đẳng cấp xã hội, Sophia là bà chủ lớn nhất nên dậy muộn nhất, nữ tỳ đánh thức nhiều lần nàng mới ra khỏi phòng ngủ. Hồng Nương dậy cùng một lúc với các khoa học gia của phái đoàn Anfa. Tuy uống thật nhiều rượu mạnh, Hồng Lang lại dậy thật sớm. Văn Bình còn hơi nhức đầu, Hồng Lang lại tỉnh như sáo sậu. Hắn tỉnh đến nỗi Văn Bình có cảm tưởng hắn không hề uống giọt rượu nào đêm qua, và đêm qua hắn đã lên giường ngủ rất sớm. Chàng lắc đầu le lưỡi khi nhớ lại Hồng Lang đã vật ngã một đống chai huýt-hy, và chỉ được chợp mắt vào lúc gà gáy sáng te te. Điều này chứng tỏ Hồng Lang có một nội lực thâm hậu, hắn không yếu mềm như chàng lầm tưởng. Gần 9 giờ sáng, mọi người trong biệt thự mới dậy đủ. Phải hơn giờ rưỡi đồng hồ nữa, vị chi đến non 11 giờ trưa, phái đoàn mới khệnh khà khệnh khạng ra xe, và tài xế khệnh khà khệnh khạng lái lên phi trường. Lộ trình đã được nghiên cứu đàng hoàng, đại tá Bani ra lệnh cho đoàn xe né tránh những trục giao thông đông đúc hầu tài xế có thể phóng hết tốc lực, nhưng... mưu sự tại nhân, thành sự tại... phong tục, công voa xe Rolls tượng trưng cho tiến bộ sang trọng của thế kỷ 20 đã đầu hàng vô điều kiện trước công voa... bò, tiêu biểu cho phong tục tập quán địa phương. Những nàng bò cái nghênh ngang du hành trên đường nhựa, bất chấp luật giao thông. Tài xế không dám bóp kèn, phải chạy rì rì như người rước rượu, đến khi các nữ thần bò rẽ vào một con đường tắt mới dám tiếp tục ấn ga xăng. Và trên đường ra sân bay có phải bò thần chỉ xuất hiện mỗi một lần thôi đâu? Ba, bốn lần là ít. Và lần nào cũng làm đoàn xe kẹt lại 10, 15 phút đồng hồ. Bò thần mới là một trong những nguyên nhân cản trở đoàn công-voa. Dọc đường Văn Bình còn thấy nhiều đám đông dân chúng gồm đủ hạng người, già trẻ lớn bé, đàn bà, đàn ông, tụ tập đen ngòm. Lệ thường, đám đông ở trên lề, nhưng ở nhiều nơi thường không có lề, hoặc nếu có lề hẳn hòi thì dân chúng lại tràn ra giữa lộ một cách phớt đời, khiến tài xế lại phải đạp thắng, và ấn kèn đinh tai điếc óc. Xe hơi phải chạy qua xóm yên hoa trước khi ra thấu phi trường. Xóm yên hoa có khác, quang cảnh nhà cửa nhợt nhạt như khuôn mặt đàn bà bự phấn thức trắng đêm, làm Văn Bình lờm lợm ở cuống họng. Sau cùng, tài xế phải trổ tài đến toát bồ hôi, suýt gây ra tai nạn, vì đám đông gần phi trường tụm đen tụm đỏ chung quanh một sam-oan-la, bóp kèn mấy cũng không chịu tản mác. Sam-oan-la, cũng như gái điếm thần linh, là một trong những đặc trưng độc nhất vô nhị của Ấn độ. Tiếng Ấn sam-oan-la là nhà phù thủy có biệt tài điều khiển rắn độc bằng ống tiêu. Giới thổi sáo thôi miên mãng xà này hành nghề đông nhung nhúc ở Bombay, ngoài cửa lữ quán nào cũng có, phần nhiều là mua vui cho ngoại nhân đến Ấn để thưởng thức của lạ. Trong chuyến đầu tiên ghé thăm Ấn độ, Văn Bình phục lăn các sam-oan-la. Theo tiếng sáo trầm bổng, con rắn độc nhe răng, lè lưỡi đỏ hỏn, thở phì phì, chồm dậy, uốn khúc làm rợn xương sống. Văn Bình đinh ninh tiếng sáo có bí quyết mê hoặc loài rắn. Thời gian trôi qua, trong những chuyến viếng thăm sau này, chàng mới biết đó là bịp bợm. Vì loài rắn điếc tai, không nghe được tiếng sáo. Chẳng qua con rắn cử động theo những cử động của ống tiêu. Hầu hết rắn độc đều được nhổ răng nhọn và lấy bỏ nọc độc. Tuy vậy, giới sam-oan-la vẫn tiếp tục làm trò phù thủy láo khoét để đánh lừa du khách và dân chúng địa phương chất phác. Gã sam-oan-la ở gần trường bay đứng giữa bầy rắn đủ màu, đủ cỡ, khi thấy đoàn xe sang trọng vọt qua và Văn Bình hạ cửa kiếng để nghe rõ tiếng tiêu, gã đột ngột gỡ kéo những con rắn đang bám trên vai ném xuống đất, đồng thời quay trở đầu ống sáo về phía chàng. Xe hơi vào đến phi trường Văn Bình mới khám phá ra là chàng vừa hút chết. Và hung thủ là gã sam-oan-la râu ria sồm soàm đầu quấn khăn trắng bẩn thỉu, mặc sa-rông lôi thôi lếch thếch, da dẻ sù sì, mốc meo và đen đủi như đồng hun. Thừa cơ Văn Bình lò đầu ra, gã sam-oan-la đã thổi tên độc với mục đích ám hại chàng. Mũi tên bằng nhom nhỏ xíu cắm ngập đến chuôi vào cái loa âm thanh nổi bằng chất lát-tích cứng ở sau lưng Văn Bình. Đối với lát-tích cứng như sắt, nó còn xuyên thấu, không hiểu nó sẽ đâm sâu đến đâu nếu nó bắn trúng thân thể của chàng. Chàng lầm lì xuống xe, không thốt nửa lời. Đối phương quả có nhiều sáng kiến và tài nghệ. Họ đã bố trí đám đông dầy đặc để chặn đoàn xe ngừng lại, và dùng tên độc giết chàng. Hai cận vệ của Sophia bị hạ sát bằng tên độc. Loại tên Shakespeare bằng nhom đặc biệt. Mũi tên suýt bắn thủng ngực chàng cũng là tên Shakespeare... Chàng không rút mũi tên ra khỏi đệm xe và cũng không báo tin cho mọi người. Đại tá Bani ngồi bên không hay biết gì hết. Chàng thản nhiên trèo lên phi cơ. Chuyến bay hoàn toàn tốt đẹp, viên phi công có khuôn mặt hãm tài và xấu kinh khủng, quỷ dạ xoa cũng khó thể tỏ cảm tình, thoạt đầu Văn Bình lo ngay ngay, nhưng phi cơ đã dứt khỏi sân bê-tông thật nhẹ nhàng, nhẹ nhàng như thể chiếc vận tải cơ to lớn nặng nề này chỉ là trực thăng bé nhỏ. Dọc đường phi công tiếp tục lái êm ru, hắn đáp xuống địa điểm A-5 cũng êm ru một cách khác thường. Địa điểm A-5 là một phi trường hạng trung bình, dường như trước kia là phi trường quân sự, sau bị bỏ phế, một phần bãi đáp đã lún và được trải vỉ thép mắt cáo, và nếu không thấy ngôi nhà trơ trọi làm đài kiểm soát và đám ngươi chạy lăng xăng bên dưới Văn Bình có thể lầm tưởng là phi công đã hạ cánh xuống một xó xỉnh tiền sử hoang liêu. Trời nắng rát mặt, mọi người hối hả lên xe, rời địa điểm A-5, chạy qua những sườn đồi thoai thoải lượn ngoằn ngoèo như rắn bò đến nơi cắm trại. Lục địa Ấn là một trong những khu vực có hệ thống công lộ nghèo nàn nhất thế giới, cao nguyên Đề-căn lại đứng cuối sổ của Ấn nên tài xế và xe hơi phải thuộc loại thượng thặng mới khỏi gây tai nạn. Vì tai nạn có thể xẩy ra bất cứ ở đâu, và bất cứ lúc nào. Khi đoàn công-voa bắt đầu leo lên đồi là thần Chết đã thủ sẵn lưỡi hái chờ đón. Con đường đang rộng tênh hênh bỗng thót nhỏ lại, xe díp phải luồn thật khéo mới không lọt xuống vực sâu, hoặc một tượng đá khổng lồ chắn ngang như bức thành, một giãy ổ gà sâu như hồ tắm. Hoặc con đường đột ngột bị cắt đôi, bởi những giòng suối chảy xiết. Trời nắng chang chang, vậy mà người ngồi trong xe lại không nhìn thấy cảnh vật, bụi đường phủ kín khiếng chắn gió, người ta đổ nước và mở quạt nước sành sạch lớp bụi hỗn xược này vẫn không chịu rút lui, khiến tài xế chỉ dám gài số 1, ì à ì ạch. Chỉ thấy toàn đồi là đồi, tưởng như vùng cao nguyên không còn gì nữa ngoài những giãy đồi trùng trùng điệp điệp. Mãi đến chạng vạng tối Văn Bình mới thấy cây cối xanh um, đó là một khu rừng già trải rộng đến tận chân trời, và tiếp giáp khu rừng già là rặng núi hùng vĩ cao ngất, nơi phái đoàn Anfa đóng trại lần trước, và cũng là nơi xảy ra một loạt vụ án mạng và mất tích kỳ lạ. Công-voa đậu lại, ai nấy đều mệt nhoài. Dĩ nhiên Văn Bình vẫn khỏe như không mặc dầu phải ngồi bó gối suốt 6 tiếng đồng hồ dài giằng dặc trên xe díp nhảy tâng tâng trên những ổ gà sâu hoắm. Sophia cũng thơ thới như chàng sau cuộc hành trình kéo dài. Lý do sự thơ thới này rất giản dị, xe díp của nàng được gắn ống nhún đầu kiểu DS-21, thân xe lại được đóng kín và không khí bên trong được điều hòa, khiến nàng không phải thở hơi nóng và hít bụi cát đỏ, và nhất là không khát cháy cuống họng dưới ánh mặt trời xiên khoai. Nàng ngồi xe díp mà êm như ngồi xa-lông, xe díp còn có cả tủ lạnh đựng đủ thứ nước uống. Cùng đi xe với nàng trên xe díp đặc biệt có Hồng Lang, và dĩ nhiên là Hồng Nương. Trong khi đó, nhân viên phái đoàn Anfa đều phải ngồi xe díp mui vải, chất đông như cá mòi đóng hộp. Xe hơi chở đại tá Bani và Văn Bình có phần thoải mái hơn, nhưng nó cũng chỉ thoải mái ở chổ Bani mang theo mấy chai rượu bờ-han và huýt-ky, và một giỏ đồ nhậu. Dọc đường, Bani uống tì tì, và ăn tì tì, thoạt đầu hắn đon đả mời chàng, song chàng lắc đầu, hắn bèn đánh chén một mình. Đoàn xe dừng lại thì bụng hắn đã phưỡn ra, hắn khệnh khạng vịn sườn xe trèo xuống đất. Hắn không dám co chân nhảy như Văn Bình, và như mọi người đàn ông khác trong công-voa, có lẽ vì sợ nứt vỡ bao tử. Trước mặt mọi người mở rộng một cái hang ong ánh thạch nhũ. Đồ đoàn, dụng cụ được dỡ xuống và khiêng vào trong động. Trong chốc lát, máy phát điện chạy rì rầm, thạch động tối om vụt sáng chưng, đèn điện được lắp treo khắp nơi. Sau đó, bữa cơm tối thịnh soạn được dọn ra, thức ăn đều bằng đồ hộp và đồ đông lạnh. Nhân viên Quạ Đen thuộc quyền đại tá Bani chia nhau thành nhiều toán canh gác bên ngoài thạch động. Cách hang đá trăm mét là một bốt gác khác. Đại tá Bani chạy lăng xăng từ toán gác này đến toán gác khác, xong xuôi hắn trở vào thạch động, và công việc đầu tiên của hắn là lục ba-lô lấy thêm chai rượu bờ-han và... cái đùi cừu béo ngậy vàng rộm. Sự phân biệt nếp sống đã hiện ra rõ rệt giữa nữ tỉ phú Sophia và phái đoàn. Hang đá khá lớn được chia thành nhiều khu, có những vách thạch nhũ thiên nhiên ngăn cách nên nam nữ khỏi phải sống chung chạ, tiện nghi tương đối đầy đủ, mọi người chỉ thiếu máy lạnh hoặc điện thoại, chứ không thiếu giường nệm êm lưng và món ăn thức uống thịnh soạn. Khu giành riêng cho Sophia được treo một tấm bạt dầy, bên trong có phòng tắm, phòng ngủ đàng hoàng, thậm chí có cả quạt máy chạy vù vù suốt ngày đêm, và có cả đèn đêm nê-ông mát dịu đặt trên đầu giường nữa. Văn Bình tiếp tục lắc đầu quầy quậy trước chai rượu bờ-han và dùi cừu nướng thơm phức của đại tá Bani. Bụng chàng đã chứa quá nhiều thực phẩm chàng có linh cảm là nhiều biến cố toát bồ hôi lạnh sắp xảy ra trong đêm, nên chàng cần bao tử được nhẹ nhõm để có thể đối phó hữu hiệu. Chàng đứng dậy, bước ra cửa hang. Không khí trong thạch động rất thoải mái, song chàng vẫn thích thở hút không khí rừng núi, nhất là không khí rừng núi ban đêm. Và chàng gặp Bill. Hồi ở Bombay. Hồng Nương đã giới thiệu Bill với chàng. Nhưng chỉ giới thiệu xuông, chứ chàng chưa hề gặp hắn. Chàng định giáp mặt hắn song trên chuyến bay từ Bombay đi cao nguyên hắn ngồi ở hàng ghế phía trước gần phòng phi hành, chàng ngồi nơi đuôi với đại tá Bani, trong công-voa xe hơi hắn lại ngồi chung với nhân viên địa chất, thành thử ra chàng chỉ thoáng thấy hắn một vài lần. Chàng bỗng có ý nghĩ là Bill cố tình tránh mặt. Vạn bất đắc dĩ, chạm trán chàng ngay ngoài cửa hang đá hắn mới chịu lên tiếng. Hắn nhanh nhẩu chào: - Hân hạnh được quen đại tá. Văn Bình bắt tay hắn: - Tôi là Văn Bình, chúng mình nên xưng hô với nhau một cách thân mật, tốt hơn. Cô Hồng Nương đã nói nhiều về anh, mãi đến lúc này tôi mới được cơ hội trò chuyện với anh. Quang cảnh rừng đêm đen thui, nếu không có ánh đèn từ trong hang chiếu ra thì đứng sát Bill chàng cũng không hy vọng nhìn được rõ mặt hắn. Chàng đã biết tâm địa hắn mặc dầu mới quen và mới trao đổi một câu chào hỏi xã giao vô thưởng vô phạt. Chi tiết tướng mạo đập vào mắt chàng ngay sau khi chàng bắt tay hắn là đôi tai nhỏ teo, không những nhỏ teo lại còn méo sệch, rái tai nhọn hoắt như ngòi bút nguyên tử. Đó là tai chuột. Loại người có tai thử-nhĩ này khó thể là chính nhân quân tử. Ngược lại, mặt mũi hắn lại rất đều đặn, mắt hơi nhỏ nhưng sáng choang, mũi thẳng và đầy đặn nhân trung cao, nghĩa là hắn có diện mạo của người chính nhân quân tử. Sự tương phản kỳ quặc này chẳng lợi gì cho hắn, vì theo khoa tướng mạo á-đông hắn sẽ khó thoát khỏi chết yểu. Tội nghiệp, Bill cao, to, hơn chàng nửa cái đầu, về sức nặng chàng phải thua kém hắn từ 15 đến 20 kí, bộ vó khôi ngô, bắp thịt nở nang, đàn bà đẹp không thể không rung động, con trai tràn trề nhựa sống như hắn mà chết non thì không thương sót sao được! Tuy vậy, sau khi bắt tay Bill, chàng đâm ra băn khoăn. Bàn tay hắn dầy mà cứng, như thể được đúc trong khối bê-tông, chứng tỏ hắn là con nhà võ, không phải con nhà võ thông thường, mà là bậc huynh trưởng trong ngành ngạnh công, một trong những môn luyện công khó nhất của nền võ thuật Trung quốc. Với bàn tay tường đồng vách sắt này, Bill khó thể là cái mồi ngon trong những cuộc tỉ thí quyền cước. Và hắn khó thể đoản mệnh. Chàng toan nói thì hắn đã chặn trước: - Chà, anh có bàn tay cứng ghê! Chàng vội đáp: - Bàn tay anh cũng vậy, tôi đã quen nhiều người song ít thấy ai có bàn tay như anh. Hắn cười nửa miệng: - Tôi đã sống hơn 10 năm ở miệt Hoa-Bắc và 4 năm ở Đông-kinh, phần lớn thời giờ đều giành cho việc trau giồi võ thuật. Tôi đã thụ giáo nhiều bậc võ sư, tôi lại đã thượng!!!15999_4.htm!!! Đã xem 139619 lần.http://eTruyen.com