hubert nhìn chiếc xe màu hồng dừng lại một cách nhẹ nhàng ở đầu phố Front và đậu ngay ở bến xe buýt. Hắn mỉm cười và xem đồng hồ tay.
Tám giờ hai mươi tám phút. Còn gần hai phút nữa, Lewie. Vào đúng giờ này, cũng tại chỗ này, mỗi buổi sáng, trừ ngày Chủ nhật. Lewie! Từ hôm nay đời mày kết thúc.
Shubert sửa lại đôi găng làm bằng da sơn dương đang mang trên tay, sau đó lấy trong ngăn đựng đồ trong xe ra một chiếc rìu phá băng nhỏ. Hắn cho chiếc rìu vào ống tay áo khoác. Hắn biết lúc này Lewie đang đóng cửa xe màu hồng và sắp đi ngang phố Front. Shubert cho xe của mình chạy một đoạn rồi đỗ lại và ra khỏi xe rồi cúi xuống nhìn mui che như để kiểm tra chiếc xe.
Đúng lúc Lewie đi phía sau hắn, hắn nhẹ nhàng xoay gót, giơ tay trái bịt chặt lấy miệng Lewie đồng thời dùng tay phải ấn sâu chiếc rìu phá băng vào lưng người này. Người mềm nhũn, Lewie ngã vào hắn. Hắn đặt xác người xuống vỉa hè và chạy nhanh về xe của mình.
Hắn nhìn thấy cô ta khi hắn đặt tay vào vô lăng.
Cô đứng bất động ở góc phố, cách hắn chừng năm mét, bên cái rãnh lề đường trên vỉa hè phía bên kia. Đầu đội mũ cảnh sát, một bộ mặt lạ lùng đang nhìn hắn. Những vòng tròn sặc sỡ xung quanh hai con mắt màu nâu và sáng rực. Mỗi bên má màu xanh có ba hình tam giác đỏ chói vây quanh mũi và miệng. Một vòng tròn trên mũi và một vòng nữa trên môi. Người cao khoảng một mét sáu mươi, mặc chiếc áo choàng nặng nề, màu xanh, chân mang đôi tất dài màu đỏ và đi đôi giày trượt tuyết rất lớn.
Cô kêu lên: “Trời!” rồi bỏ chạy, lưng quay về phía Shubert. Cái lưng ư? Tuy nhiên không. Cái lưng cũng có vẻ bí ẩn như bộ mặt. Shubert cố gắng xuống xe trong khi đó bóng người rẽ vào một phố nhỏ.
Hắn tự rủa thầm mình vì quá sợ hãi nên tay chân hắn đã gần như bị tê liệt. Rồi hắn chạy đến một góc phố. Đúng lúc ấy có những tiếng người làm hắn giật bắn mình lên. Những nhóm trẻ con miệng đang cười đùa, chân chạy đến góc phố đối diện. Hắn bối rối nhìn bọn trẻ một thoáng rồi chui vội vào trong xe của mình ra khỏi phố Front và phóng nhanh ra xa lộ.
- Trời! Trời! - Elaine Wrigley lẩm bẩm trong khi chạy dọc theo phố Venable.
Mặt đầy mồ hôi sau tấm mặt nạ đan bằng len của người đi xe trượt tuyết và đôi giày nặng nề làm cô khổ sở. Chiếc áo khoác cũng như sự sợ hãi làm cô vướng víu. Rồi cô vấp ngã. Cô cảm thấy hốt hoảng nhiều hơn là đau đớn. Cô lồm cồm đứng lên và đôi chân cô trượt dài. Cô phải bò trên đường như một con vật đang đi trên một bánh xe lăn. Bỗng cô thấy đôi cánh tay rắn chắc đỡ mình lên.
- Nào, Elaine Wrigley. Chúng ta có ba ngày để đón năm mới, đúng không? Đứng lên từ từ! Hoan hô!
Cô nhìn với vẻ biết ơn cặp mắt đầy lo lắng của ông Henri Landru và lẩm bẩm:
- Hắn đã giết Lewie. Thật kinh khủng. Hắn đã đâm chết. Tôi biết rõ cái đó. Ông Henri!
Cảnh sát trưởng Henri quàng lấy vai cô và đưa cô về đồn cảnh sát. Ông đặt cô ngồi bên bàn và mở ngăn kéo lấy ra một chai úych-ky và rót chừng hai đốt ngón tay vào một chiếc cốc bằng nhựa đưa cho Elaine.
- Nào uống đi. Uống thế này thì không đúng nội quy. Nhưng cháu chưa phải là một cảnh sát thực sự.
Ông nhìn cô vừa uống, vừa run rẩy. Ông thấy cần vài phút nữa để cô tỉnh trí lại. Bàn tay của người đàn bà trẻ gỡ chiếc mặt nạ của những người Inca [1] và đặt nó lên bàn. Ông Henri cao gần một mét chín mươi, tóc vàng, cắt ngắn tương phản với tóc của Elaine mà hung, rối bù. Cô cố gắng uống hết chỗ rượu rồi nhìn ông Henri.
- Hắn đã giết Lewie bằng một vật như chiếc rìu phá băng. Ngay trước cửa hàng của ông ta. Một việc làm nhơ bẩn. Tôi không phải là cảnh sát. Tôi không bao giờ đến ngã tư ấy nữa.
Ông Henri đặt chai rượu lên bàn.
- Hãy đợi ở đây, Elaine. Và không rời khỏi ghế cho đến khi ta quay về.
Ông ra khỏi cửa và lên xe đi về hướng phố Front.
Elaine rót thêm một chút úych-ky nữa và nhấp từng ngụm nhỏ. Cô nhắc lại là mình không thể làm nhân viên cảnh sát đứng gác ở ngã tư được. Cô không cần đến loại việc làm này, nhất là vì tiền công quá ít. Cô rất bối rối khi ra đứng ở đây, người cóng lên vì giá rét. Vì là mùa đông nên cô không thể rời chiếc áo khoác nặng nề của người anh trai và chiếc mặt nạ của những người trượt tuyết đan từ Ngày lễ Các Thánh từ hồi còn trên ghế nhà trường được. Nhưng sự khó chịu về mặt tinh thần vẫn dằn vặt cô.
Mỗi khi định xin thôi việc, cô lại nhớ đến lý do khiến cô xin vào ngành cảnh sát. Cô đã hoảng hốt khi biết tin người chồng bị bắt giam về tội ngộ sát. Chỉ có hai lần cô thấy Harold say rượu. Lần thứ nhất là ngày diễn lại cuộc đưa tang cuộc sống độc thân của anh. Lần sau là ngày diễn lại cảnh
Những tên cướp đánh thang Những tên Mẽo. Tối hôm ấy Harold say khướt lên xe trở về nhà. Học sinh lớp tám rời khỏi trường sau trận đầu bóng ném. Harold đã đâm sầm vào chúng làm chết một cậu bé mười ba tuổi và một cô bé mười bốn tuổi.
Ngay đêm hôm đó Harold đã treo cổ tự tử trong nhà giam và hai ngày sau đó đứa con mới sinh của cô qua đời. Cô đã sống trong tấn thảm kịch ấy mà không biết tại sao. Cô ngừng mọi hoạt động, người ta không làm thế nào để cô trở lại những buổi khiêu vũ hàng tuần nữa. Sau đó ông Henri nói cần phụ nữ đứng gác ở ngã tư. Ông nhấn mạnh đứng gác ở ngã tư là để bảo vệ trẻ con khi rời khỏi trường học. Đây cũng là một kiểu điều trị bệnh cho cô. Nhưng Elaine đã hiểu đứng gác ở ngã tư là thế nào rồi.
Việc nhớ lại kỷ niệm xưa làm cô quên đi sự sợ hãi trong vụ giết người, mà mỗi khi nhớ lại cô lại run rẩy cả tay chân. Cánh cửa nặng nề của đồn cảnh sát, nó càng nặng hơn vì những lớp sơn trên mình nó, bỗng bật mở và Paul, anh trai cô, bước vào. Ông Henri đi theo anh. Elaine chạy đến với Paul. Người anh ôm đầu người em gái trong khi cô ta đang khóc nức nở. Nhưng rồi cô quay về phía ông Henri.
- Lewie thế nào...
Cô không kịp hỏi hết câu.
- Ông ta chết rồi. Chết trước khi cháu chạy trốn, Elaine. Cháu đã chứng kiến công việc của kẻ đâm thuê, chém mướn là không bao giờ nửa chừng bỏ việc cả.
Ông ngồi xuống ghế bên bàn giấy. Hai người đều không hỏi câu “tại sao” vì họ cũng đang rất bối rối. Và sau đó ông Henri giải thích:
- Một bọn người tống tiền Lewie dưới chiêu bài chống lại sự độc quyền về đồ uống trong thành phố. Lewie đã báo tin cho cảnh sát về kẻ trung gian và nói rằng ông có thể thương lượng với bọn găng tơ với một số tiền ít hơn so với đòi hỏi của những kẻ tống tiền. Tuy thấy Lewie có thể gặp nguy hiểm nhưng người ta đã không kịp thời cho người đi theo để bảo vệ ông. Sẽ biết rõ hơn nếu chúng ta lấy tin của cảnh sát thành phố và của người vợ ông Lewie.
Nói xong ông Henri nhấc máy điện thoại lên.
Shubert thở dài vì đã được an ủi. Hắn đã ra đến xa lộ mà không bị bám theo và hắn biết rằng mình có thể lẩn vào đám xe cộ chạy trên đường được. Mẹ kiếp! Hắn tự nhủ. Tại sao ta không nghĩ đến dịp nghỉ lễ Nô-en kia chứ? Ta đã bỏ ra hơn một tuần lễ để quan sát đường phố ấy, nhưng ta đã không lường trước được thời gian chơi bóng của học sinh và việc có một nữ cảnh sát đang đứng gác ở ngã tư. Có trời mới biết con bé ấy là ai. Mày thất bại rồi, Shubert, mày thất bại rồi! Ta biết mỗi vỉa hè của đường phố ấy. Mỗi buổi sáng, vào lúc tám giờ hai mươi tám phút, ta thấy người đàn ông đỗ xe, đi qua đường và bước vào cửa hiệu của mình. Pháp luật yêu cầu mở cửa hàng trước chín giờ sáng. Người đàn ông ấy vào cửa hiệu và đúng chín giờ thì mở cửa. Trước chín giờ rưỡi, có khi mười giờ, thường không có khách. Trong suốt một tuần lễ, ta bỏ ra một tiếng đồng hồ để làm công việc quan sát ấy và thấy không có ai xung quanh ta cả...
- Có thể là chúng ta đã gặp may - Ông Henri nói - Thật không thể tưởng tượng nổi. Hắn đã đi bất cứ đâu trong các phố chính của chúng ta mà không ai để ý và cả Elaine cũng không nhìn rõ kẻ giết người. Các thầy cô giáo đang hỏi học sinh trong trường xem có ai nhìn thấy Lewie không. Chúng ta không nói với họ về Elaine, như cô ấy không đứng gác. Có thể học sinh cũng không chú ý đến cô ấy nữa.
- Nhưng kẻ giết người đã nhìn thấy tôi.
- Có thể là chúng ta không thấy hắn ở đâu nữa, Elaine. Có thể là hắn đã cách xa đây năm chục ki-lô-mét với ý định không trở lại đây nữa. Mong rằng cấp trên sẽ tha lỗi cho ta, ta muốn rằng hắn xa đây mãi mãi.
Cô hiểu ông già muốn nói gì, không chỉ với cách ông nhìn cô. Nhưng cô nghĩ: ta không còn là một nhân chứng nữa. Ta là mối đe dọa đối với hắn, làm cho hắn phải biến mất.
Ông Henri cũng bảo cô:
- Ta không có quyền tách khỏi cảnh sát thành phố. Nhưng ta không thể nói về Elaine với báo chí được. Của khỉ! Một người đứng gác ở ngã tư trước một trường học và một người gác đêm. Phải cần tới hai cảnh sát. Cần đặc biệt chú ý đến Elaine.
Nhưng Paul gợi ý:
- Cần vẽ chân dung hắn theo sự mô tả của Elaine rồi gửi cho các cơ quan trong thành phố. Chỉ có bảy phần trăm số kẻ giết người chạy thoát thôi.
Elaine nắm cánh tay người anh.
- Paul, bây giờ đưa em về nhà. Anh có muốn vậy không?
Ông Henri đến chỗ mắc áo.
- Mặc chiếc áo này vào, Elaine - Ông nói và đưa cho cô chiếc áo của mình thay vì chiếc áo nặng nề của Paul - Và Elaine, đừng bao giờ mang chiếc mặt nạ ấy nữa, dù cho giá lạnh đến như thế nào.
Khi cho tay vào chiếc áo khoác của ông Henri cô thấy ấm người lên, Còn ông Henri thì nghĩ: Tuy hơi chậm chạp nhưng anh ta cũng hiểu ra thôi.
- Tất nhiên! - Paul nói - Hắn không muốn thấy một nhân chứng đang sống. Do đó, ông không nên nói với Elaine về chuyện này.
Henri lên xe đi dự đám tang của Lewie. Ông ra lệnh cho Elaine không ra đứng gác cũng như không đi đưa ma. Ông cho rằng sẽ dễ nhận ra kẻ lạ mặt trong nghĩa trang. Nhưng thân nhân người qua đời và những kẻ tò mò tới đây quá đông mà không chú ý đến thời tiết. Ông quay về phố Front và tự hỏi có nên về nhà để dùng bữa hay là đến cửa hàng của ông Guido để ăn bánh mì kẹp thịt.
Nhưng khi cách ngã tư phố Venable chừng sáu chục mét, ông thấy một bóng người mặc chiếc áo khoác màu xanh - đây là áo mà Paul đã mua để trả lại cho ông Henri - chân đi đôi tất dài màu đỏ. Ông nhìn những thao tác của người cảnh sát khi ngăn đoàn xe cộ để tốp học sinh nhỏ qua đường. Đây có phải là một phụ nữ không? Ông tự hỏi.
Với vẻ mệt nhọc, ông nhìn những hàng xe đậu hai bên đường trên phố Front. Trước hết, rất nhanh, ông điểm từng chiếc một. Ông bỏ qua những chiếc mà ông đã biết rõ mà chú ý vào những xe có biển số lạ. Ông chú ý những hoạt động trong xe. Cuối cùng ông xuống xe tới bên người đứng gác ở ngã tư.
- Paul, tôi hy vọng rằng anh đã mặc áo chống đạn.
- Chào ông Henri. Ông yên tâm, tôi đã có khẩu súng này.
- Thì sao? Không đủ đâu.
Paul có mỉm cười không? Người ta không thể thấy mặt của anh ta sau chiếc mặt nạ ma quái này. Anh chỉ tay vào một vài em nhỏ học lớp mẫu giáo đi một cách lộn xộn.
- Xin tin tôi, ông Henri. Ông có thấy chiếc xe chở hoa đậu trước nhà hàng Monoprix kia không.
Ông Henri đã chú ý đến chiếc xe ấy. Đây là chiếc xe tải loại nhỏ đang đậu ở phố Front. Thùng xe dài hơn một mét, khác hẳn những chiếc xe khác.
- Ông Henri, một người em họ tôi đang theo dõi chiếc xe ấy - Paul giải thích - ông đã biết nó. Nó làm cảnh sát ở quận Milbank. Tôi đứng đây nhưng biết rõ những gì đang diễn ra ở xung quanh.
Ông Henri đi dạo ra vẻ làm cho người ấm lên nhưng thực ra ông đang quan sát xe cộ và người bộ hành qua lại. Trẻ con đã vào lớp. Thông thường thì chúng nghỉ học vào bữa ăn trưa. Một số ăn ngay ở trường, một số về nhà chúng rồi đi lang thang cho đến ba giờ chiều lại vào lớp.
- Về thôi, Paul. Không còn việc gì phải làm ở đây nữa. Ở lâu sẽ bị chú ý
- O.K. Tôi sẽ tới chiếc xe của người em họ, thằng Bud, ra hiệu cho nó rằng chúng ta đã trở về để đi ăn sáng.
Shubert nhìn người cảnh sát đeo chiếc huy hiệu màu vàng bước vào khách sạn rồi hắn nổ máy cho xe chạy. Hắn qua phố Front đến phố Venable. Xe đang đi theo hướng người cảnh sát vừa đi khỏi thì hắn chợt nhìn thấy con mồi bước tới chỗ hắn vừa bỏ đi.
Shubert mở chiếc hộp đựng găng tay trên xe lấy ra một khẩu súng tự động, ngắn nòng và lắp ống giảm thanh vào. Hắn hạ kính cửa xe để có thể quan sát ở mọi hướng. Một phụ nữ đang đi một mình từ phố Venable đến phố Front. Lần này thì không có nhân chứng nữa - Hắn tự nhủ. Ta mong con bé ấy đi qua đây.
Con bé mà Shubert nói không đi tiếp nữa. Cô ta dừng lại để nói chuyện với người đứng gác ở ngã tư. Cô nói chuyện một lúc khá lâu. (Một số bà mẹ không thích con gái mình làm cảnh sát. Mỗi khi các cô sang đường, con trai các bà phải đưa họ đi). Lúc này thì cô ta quàng tay người cảnh sát và cùng đến phố Venable. Shubert chửi thề một câu. Hắn rít lên một tiếng qua kẽ răng. Sau đó hắn cẩn thận đặt khẩu súng tự động vào hộp đựng găng tay.
Một cái bẫy! Với con mồi là một kẻ hèn hạ! Do đó tại sao báo chí không nói đến người làm chứng - Hắn tự nhủ. Con bé ấy không thể cho cảnh sát sự mô tả đầy đủ về ta được. Và họ muốn ta mắc vào cái bẫy đó.
Hắn định nổ máy nhưng bỗng nhiên lại thôi. Nhìn kỹ người phụ nữ và người cảnh sát một lần nữa. Đúng là con bé ấy rồi.
Lần đầu hắn thấy cô thì cô quay đi và bỏ chạy. Chỉ một vài giây đồng hồ hắn không kịp nhận ra tầm thước, khuôn mặt và những cử chỉ của cô được. Hắn lấy ra một tấm bản đồ đường bộ làm như đang đọc nhưng mắt vẫn theo dõi hai người trong kính chiếu hậu. Hắn thấy hai người đi vào một ngôi nhà cuối phố. Một tấm biển nhỏ gắn trên tường ghi: “24 Wrigley”.
Shubert cho xe chạy ra khỏi thành phố, miệng lẩm bẩm: “Bà Wrigley, số nhà hai mươi tư, phố Venable. Chúng ta sẽ gặp lại nhau”.
Ông Henri ra khỏi quán cà-phê với vẻ mệt mỏi. Có thể là kẻ giết người đang tiếp tục lẩn trốn. Ít nhất là chưa có một người nào tới báo tin cho cảnh sát. Có thể là hắn không nhìn thấy Paul khi anh này đi ngang phố. Paul mặc một bộ đồ màu xanh ô-liu.
- Tôi cho rằng anh có thể nghỉ gác đêm để ở bên Elaine, được không?
- Vâng. Nhưng người thay thế tôi đã gọi dây nói báo tin rằng anh ta đang ốm. Tôi cho rằng mình không nên ở đây khi đã có một cảnh sát của thành phố đang tiến hành điều tra vụ này.
- Cảnh sát thành phố!
- Đúng thế! Họ đã tới gặp Elaine và đưa cho nó xem một số bức ảnh. Họ kể lại như vậy. Nhưng... ông Henri, có chuyện gì vậy? - Anh ta hỏi lại với giọng ồm ồm.
Ông Henri lên xe và ngồi bên anh.
- Quay xe lại và chạy nhanh về nhà anh. Nào... Nhanh lên!... Bây giờ nói cho tôi nghe về cảnh sát thành phố.
Tốc độ nhanh làm bánh xe rít lên trong khi đó thì Paul giải thích:
- Theo tôi biết thì Elaine đã nhận được một cú điện thoại của ban Giám đốc cảnh sát thành phố nói họ sẽ tới cho nó xem một số tấm ảnh. Họ nói họ sẽ tới bằng xe dân sự.
- Ôi trời! Không! Elaine vẫn ở nhà khi anh ra đi ư?
- Vâng.
Elaine nghe thấy tiếng còi xe. Người ta đã báo trước sẽ có một cảnh sát mặc thường phục đi một chiếc xe dân sự tới đậu bên kia đường. Elaine có biết chiếc xe này không nhỉ? Không ư? Đây là một chiếc xe màu đen, có hai cửa và người cảnh sát ngồi trước vòng lái, gọi cô bằng những tiếng còi dồn dập. Họ không sợ kẻ giết người đang rình mò quanh đây, nhưng làm như vậy sẽ gây sự tò mò cho những người dân xung quanh.
Nhìn qua cửa sổ, Elaine thấy một chiếc xe màu đen đang đậu trước trường học. Cô thấy khói ở ống xả hơi. “Khói”, cô thường nói như vậy và thường bị Paul nói chữa lại là “hơi nước”. Dù sao đó cũng là do máy đang chạy. Cô không nhìn thấy mặt người lái xe, chỉ thấy cái đầu, tóc cắt ngắn. Cô mặc thêm chiếc áo khoác, tắt đèn và ra khỏi nhà.
Cô sang đường, đến bên cạnh chiếc xe và mở cửa xe. Do tính kiêu hãnh của phụ nữ, cô thất vọng vì không thấy người trên xe mở cửa giúp mình. Một tay giữ lấy mép chiếc áo khoác, cô nắm lấy cánh cửa bằng tay kia. Cô chỉ nhìn thấy một bên mặt của người lái xe. Chiếc mũ cát-két đội lệch hẳn sang bên phải, người ấy mặc một bộ thường phục. Elaine thấy trán anh ta có những giọt mồ hôi. Chậm chạp cô lùi chân lại và nhìn kỹ mặt của người ấy.
Bất chợt hắn trườn người ra khỏi ghế và nắm lấy cổ tay cô. Quá sợ hãi, cô không thể kêu lên được. Không buông tay ra, Shubert giơ lên trước mặt cô một con dao đi săn và nói bằng giọng lạnh lùng:
- Lưỡi dao này thì không gây ra tiếng động, chính cô là người quyết định việc tôi có dùng nó hay không. Ngoan ngoãn lên xe. Tôi muốn nói chuyện với cô.
Hắn bỏ cổ tay và nắm lấy cánh tay cô. Hắn đủ khỏe để lôi cô lên xe. Nhưng bất chợt cô kêu lên một tiếng vô nghĩa:
- Bước chân của Kentucky!
Nếu cô kêu “Cứu tôi với!” thì chắc hẳn Shubert đã cho cô một nhát dao rồi. Tiếng kêu lạ lùng ấy làm hắn ngạc nhiên. Hắn ngập ngừng. Trong lúc sự sợ hãi được thay thế bằng sự thách thức, kẻ đang nắm cánh tay cô nghĩ chắc hẳn có một cuộc đua ngựa nào đó, có con ngựa mang tên “Kentucky” tham gia. Elaine đã kêu một tiếng mà chẳng biết mình kêu cái gì.
Shubert đang lẩm bẩm một tiếng “Cái gì?” thì Elaine đã nắm lấy cánh tay hắn. Đáng lẽ cưỡng lại thì cô xông vào hắn, lấy gót giày của mình giẫm mạnh lên bàn chân hắn. Hắn kêu lên và đẩy chân cô ra. Cô lùi xuống và giật mạnh cánh tay mình khỏi bàn tay hắn. Shubert ngã sấp xuống ghế ngồi.
Nhưng nhanh hơn phản xạ của Elaine, hắn nhoài người ra khỏi cánh cửa trước khi cô lấy lại thăng bằng. Muộn rồi, hắn đã chắn mất đường. Nhìn sang bên kia đường, thấy cánh cổng trường học và cô chạy tới đó.
Những bậc lát bằng đá dẫn xuống nhiều cửa của các lớp học hình thành lối đi chính. Elaine biết cửa các lớp học đã khóa trái. Phía bên trái có những bậc dẫn xuống tầng hầm. Cô chạy đến trước cánh cửa độc nhất. Trời, miễn là người gác cổng chưa đi ăn trưa. Elaine nghĩ như vậy và nắm lấy quả nắm bằng đồng và mở cửa ra. Cửa mở một cách chậm chạp do hệ thống hơi nén của nó. Elaine chờ nghe thấy bước chân của hắn từng giây đồng hồ một và đã cảm thấy hơi lạnh của con dao của hắn. Tuy nhiên cánh cửa đã mở, cô bước và và đóng cửa lại, nhưng nó còn chạy chậm hơn. Cô chạy xuống tầng hầm trước khi cánh cửa hoàn toàn đóng kín.
Lúc ấy Shubert đứng giữa chiếc xe và cánh cổng trường học, còn đang lưỡng lự. Hắn quan sát. Cánh cổng chỉ được gài bằng một then ngang. Hắn châm một điếu thuốc, chắp hai tay ra sau lưng nhìn xung quanh. Được rồi, con bé, mày chọn con đường này là không tốt đâu! Hắn tự nhủ và lên xe, lấy khẩu súng tự động cắp dưới nách. Hắn khép hờ cánh cửa xe và nhìn phố Venable. Một thoáng sau, hắn chạy vội đến cổng trường học.
Chiếc xe của Paul chạy tới phố Venable. Ông Henri nhảy xuống trong khi nó chạy tiếp rồi đỗ bên vệ đường. Không ai nhìn sang bên kia đường cả. Ông Henri chạy lên cầu thang và đang lay cánh cửa đóng chặt thì Paul chạy đến và mở nó bằng một chiếc chìa khóa. Không có Elaine ở trong nhà.
Paul đi tìm cô khắp năm căn phòng còn ông Henri thì đứng tựa cửa gãi đầu. Ông chợt đến bên chiếc máy điện thoại gọi cho cảnh sát thành phố.
Ở phòng cảnh sát hình sự người ta tức điên lên khi biết được vụ này có một nhân chứng. Ông Henri hét lên:
- Được, tôi đã nhầm lẫn. Ngày mai tôi sẽ giải thích. Nhưng lúc này mới đáng kể. Phải cứu mạng nhân chứng. Cần phải chặn các ngả đường.
Paul đã lục soát trong nhà xong. Khi ông Henri gác máy nói, anh liếm môi rồi hỏi:
- Chúng ta không thể làm gì được ư?
- Có chứ? Chúng ta sẽ đi gõ cửa các nhà. Nếu có ai đó thấy Elaine trong xe hơi của kẻ giết người chúng ta sẽ biết rõ xe chạy theo hướng nào. Không mấy tác dụng nhưng đây là việc có thể làm lúc này. Anh bắt đầu từ phố Front còn tôi đi về phía này.
Ra khỏi nhà, Paul đi về bên phải, ông Henri bên trái.
Elaine chạy nhanh xuống từng bậc của tầng hầm. Trên đầu cô nhiều bóng điện yếu ớt chiếu xuống những cánh cửa mờ tối. Cô tự nhủ chắc hẳn ở đây phải có một nơi trú ẩn. Cô dừng lại trước cánh cửa thứ nhất. Đó là một lớp học chỉ có một cửa ra vào. Ta phải tìm một lớp có hai cửa. Cô dừng bước và lắng tai nghe. Không có tiếng chân đuổi theo. Cô đi rón rén trong hành lang. Bất chợt cô đứng sững lại: có tiếng động như người ta kéo một chiếc bàn. Hắn đã chặn đường thông ra phố... Cô tiếp tục đi trong hành lang. Ta cần cầm cự cho đến khi người gác cổng đến. Nếu ta có thể ở gần cánh cửa thông ra phố...
Cô dừng lại, tựa lưng vào tường để tháo giày ra. Cô đã hai lần vấp ngã, vả chăng đi giày thì dễ gây ra tiếng động. Nhìn về phía sau cô thấy bóng người ở đầu hành lang. Trên tay phải người ấy cầm một khẩu súng. Cô không dám kêu. Tay cầm giày cô chạy tới căn phòng có bảng ghi “Thư viện”. Cô nhớ thư viện có hai cửa. Ba năm trước cô đã tới đây. Đối diện với thư viện có một căn phòng đựng đồ cũ có hai cửa ra vào.
Cô chạy tới căn phòng này và đứng trước một bảng điện. Cô nhớ bảng điện này là bảng trung tâm của toàn bộ tầng hầm. Lần trước tới đây tham quan, Emili, một học sinh lớp ba, đã giải thích cho cô về bảng điện này. Và cô học trò ấy đã tắt điện tầng hầm trước sự ngạc nhiên của bà Wrigley và các quan khách tới thăm. Lần này Elaine cũng tắt điện như vậy.
Trong đêm tối, cô chạy đến Thư viện, đóng chặt cửa lại và lắng tai nghe. Có tiếng giày ở bên ngoài. Hắn đang ở giữa Thư viện và phòng chứa đồ cũ. Cô ném đôi giày vào căn phòng này.
Cô nghe thấy tiếng chân hắn dừng lại rồi lại đi tiếp. Hy vọng vào lúc này hắn không tìm thấy cánh cửa. Cô đi rón rén theo hành lang có bức tường của thư viện và hoảng hốt khi nhận ra rằng mình đã đến sát hắn tuy hai người đã cách nhau một bức tường. Nếu tiếng động của đôi giày kích thích hắn tiếp tục lùng sục thì cô phải nhanh chóng tới cánh cửa thông ra ngoài phố. Giữa đường, cô không nghe thấy tiếng động của hắn nữa. Có thể là tim cô đã đập quá mạnh.
Bất chợt cô bật khóc.
Ông Henri không hỏi được tin tức gì. Ông ra ngã tư nhìn xem có chiếc xe hơi nào mới chạy tới không. Cùng lúc ấy ông nhìn thấy ánh đèn nhấp nháy trong trường học. Đây có phải là đèn ở tầng hầm vừa bị tắt không? Cái nhìn của ông dừng lại ở chiếc xe đang đậu trước cổng trường. Ông tới nơi để nhìn biển số. Đây là xe của một hãng cho thuê ô tô. Ông lấy súng ra và chạy xuống tầng hầm. Ông mở cửa và vấp phải một vật ở bên trong.
Khi nghe thấy tiếng khóc, Shubert đứng lại. Hắn đang đứng trước ô cửa thứ nhất của thư viện và hiểu rằng tiếng khóc ở phía bên phải hắn. Hắn giơ tay lần theo bức tường để đi như đứa trẻ chơi trò bịt mắt bắt dê.
Bất chợt hắn thấy bàn tay mình sờ phải một vật nhẵn nhụi trên tường. Cái gì đây? Chắc chắn là một cánh cửa. Hắn tìm tay nắm và mở cửa ra thì bỗng nghe thấy chân người trong hành lang. Hắn giương súng và sẵn sàng nhả đạn vào nơi có tiếng động ấy. Nhưng hắn đã thay đổi ý kiến. Bắn thì chưa chắc đã trúng đích mà có thể gây tiếng động. Mắt hắn đã quen với đêm tối. Hắn thấy một cánh cửa khác phía bên kia hành lang.
Rồi hắn bỏ thư viện chạy đến trước cửa phòng chứa đồ cũ, mở cửa để vào phòng và đứng lại để nghe ngóng.
Bất chợt hắn nghe thấy tiếng thở của người nào đó nhưng không biết ở hướng nào. Hắn lấy trong túi ra một bao diêm và một tờ hóa đơn của khách sạn. Hắn châm lửa đốt tờ giấy ấy. Hắn đốt lửa bằng cách lấy răng cắn chặt khẩu súng trên miệng.
Hắn nhìn thấy bộ mặt ma quái ấy cách chỗ đứng chừng sáu mét. Con bé ấy, ngu xuẩn biết bao! Hắn ném mẩu giấy đang cháy dở đi và nã súng vào chiếc mặt nạ của những người trượt tuyết. Tiếng kính vỡ loảng xoảng. Shubert lại đốt lửa nhìn nơi hắn vừa nhả đạn. Bộ mặt ấy vẫn còn nguyên chỗ cũ. Hắn lại bắn một lần nữa. Bộ mặt ấy vẫn nhìn hắn. Trong lúc ấy có xe hơi chạy trên phố Venable. Đèn pha của xe chiếu loang loáng xuống tầng hầm, chiếu sáng căn phong đựng đồ cũ. Ở đâu cũng có bộ mặt ấy!
Shubert kêu lên một tiếng, vứt que diêm đi và bắn khắp nơi cho đến khi súng hết đạn. Rồi hắn bỏ chạy. Đây là một mưu kế! Hắn tự nhủ. Một mưu kế! Hắn va mạnh vào tường và ngã vào đống đồ cũ. Hắn đang cố hất những vật đó để đứng lên thì một ánh sáng chói lòa chĩa vào hắn.
Ông Henri và Paul đang đứng gần bảng điện, súng trên tay. Máu đang chảy trên miệng Shubert. Hắn lấy tay che mặt để tránh ánh sáng đèn. Ông Henri nhặt khẩu súng hết đạn. Shubert nhìn những thứ lộn xộn xung quanh mình và thấy bốn hình nộm tầm thước trung bình thể hiện những trẻ em hát thánh ca. Năm sáu hình nộm khác nằm rải rác trong phòng. Một số bị trúng đạn của hắn. Hình nộm đeo mặt nạ của những người trượt tuyết dùng trong lễ Nô-en.
- Cô có đủ can đảm để vào đây không, Elaine! Và để nhìn mặt con chim nhơ bẩn này - Paul nói to.
Elaine ngập ngừng bước vào. Đi theo cô có người gác cổng. Cô nhìn Shubert và gật đầu để nói cô đã nhận ra hắn. Và cô rùng mình.
- Bọn trẻ mới tinh nghịch làm sao! - Người gác cổng nói - Sau khi tan học chúng đã mang những hình nộm vào đây. Chắn hẳn chúng định dùng những thứ này cho ngày Lễ Các Thánh sắp tới của lớp sáu.
- Chúng ta chỉ có thể cảm ơn các cháu thôi. - Elaine lẩm bẩm.
Chú thích:[1] Một dân tộc ở Perou - ND.