vangeline Moon (tiếng Anh, moon có nghĩa là mặt trăng - ND) cảm thấy mình như là tù nhân trong vũng lầy của sự sợ hãi. Bà thấy ngực trống rỗng, trái tim đã thoát ra ngoài cơ thể, đang phồng to lên và đập liên hồi. Đôi chân gầy nhỏ bé càng gầy gò hơn ngày thường: chúng như những mẩu cao su bị a-xít gậm nhấm. Trí óc của bà đang đi lang thang, chăm chú vào những chuyện đâu đâu. Thân hình của bà chẳng hạn: theo thời gian, người bà nặng lên vì mỡ còn chân tay thì nhỏ xíu như thời còn là đứa trẻ. Nước da, niềm kiêu hãnh ngày xưa, bây giờ đã tàn phai, nhạt nhẽo một cách đáng thương.
Và hàng triệu người ở khắp nơi đang nhìn ngó bà. Họ ngắm bà trong tình trạng này: một bà già kỳ cục. Ánh sáng của những cây đèn chiếu tràn ngập mọi nơi, những chiếc ca-mê-ra ghi con người tồi tàn này và truyền đi khắp thiên hạ. Bây giờ thì chẳng còn việc gì để làm nữa. Đã từ lâu, mọi người bảo bà là chẳng còn việc gì để làm nữa: không còn việc chữa bệnh, không phải theo chế độ sinh hoạt nào. Da giãn ra: nếu con người gầy đi thì bộ da chẳng khác gì bộ quần áo rộng thùng thình bao bọc cơ thể. Cả lúc này nữa, tuy đã cao tuổi, bà vẫn không từ bỏ nó. Bà không thể chịu đựng được ý nghĩ là mình rất xấu xí.
- Tôi cho rằng bà có thể loan tin rằng chúng ta đã thắng những người Nga ít nhất là trên mặt trăng... - tiếng một chàng trai tóc bạch kim, râu cằm lún phún đang ngồi gần đó.
Một vài tiếng lễ phép nổi lên.
- Thưa bà Evangeline, tôi muốn đặt ra một câu hỏi rất cá nhân... Liệu bà có khó chịu khi chúng tôi gọi bà là Phúc Âm không?
(Evangile là Kinh Phúc âm của đạo Tin Lành - ND).Trên màn hình, người điều khiển cuộc chơi - rất giống với hình ảnh trên máy thu hình ở nhà bà - đang nở một nụ cười. Và bà cảm thấy bộ mặt của mình quá ngốc nghếch. Bà bắt đầu tiến hành phân loại trong mớ khán giả hỗn độn này. Họ đang cười, cả họ nữa. Nhiều người cười với vẻ thân mật. Có phải là họ đang cười không? Một số người khác cười với vẻ chế nhạo hoặc nhìn đi chỗ khác. Bất chợt bà thấy căm ghét bọn họ, căm ghét tất cả bọn họ.
Người dẫn chương trình nói:
- Bà bao nhiêu tuổi rồi, bà Evangeline?
Bà thấy không có trở ngại gì khi trả lời anh ta. Bà hãnh diện về tuổi tác của mình.
- Bảy mươi ba - Bà tuyên bố. - Tôi đã đến cái tuổi bắt đầu có lý trí. (Đúng ra, tuổi bắt đầu có lý trí là bảy tuổi. Bà Evangeline nói với vẻ khôi hài - ND).
Một loạt tiếng cười rộ trong khán giả: đây là những người đứng về phía bà. Sự e dè tan biến như bơ sữa dưới ánh mặt trời.
- Bà đã kết hôn chưa, bà Evangeline?
- Ông có thể nói tôi là Mặt trăng chưa được khai thác, ông July. Không, tôi chưa kết hôn.
Trong trận bùng nổ của những tiếng cười, bà Evangeline thấy khuôn mặt của Benny hiện lên, Benny ngày xưa với cặp mắt đen sắc lẻm và đôi tay rắn chắc thường ôm ghì lấy bà. Bà xóa nhòa cái kỷ niệm ấy đi. Không có sự hối tiếc nào trong việc sữa trở thành chua này.
Bóng đèn đỏ trên ca-mê-ra nhấp nháy với bà: Evangeline tập trung sự chú ý vào những câu hỏi của July. Tiền là rất quan trọng đối với bà. Những tờ giấy bạc màu trắng, màu xanh và màu nâu... Bà hình dung ra những tệp tiền, những đống tiền trên đôi tay run rẩy của mình. Không còn phải chịu những lời chế giễu của mụ Felix, vẻ kênh kiệu của mụ Turner, kể cả thức ăn quá đạm bạc trong nhà dưỡng lão: thịt bò thái to mặn chát hai lần mỗi tuần. Bà liếm đôi môi khô khốc. Thời gian gần đây, lúc nào bà cũng đói.
- Tôi cho rằng bà đã biết những quy định của cuộc chơi rồi, đúng không, bà Evangeline? - July hỏi bà.
Đúng đây là một anh chàng đẹp trai, còn đẹp hơn so với anh ta trên máy thu hình bốn mươi xăng-ti-mét ở nhà dưỡng lão. Bà thấy ngay thắng lợi: mọi người đang nhìn ta, mụ Felix với chiếc áo lưới vận cẩn thận, mụ Turner với bộ mặt béo phị vì sô-cô-la, lão Jackson với chiếc tẩu thường trực trên hàm răng. Và tất cả những người khác nữa. Họ đang nhìn lên màn hình theo dõi cuộc thi “Được ăn cả, ngã về không” này. Họ đang nói với nhau “Mụ Evangeline kìa!” và “Đúng là mụ Evangeline rồi!”
- Chuyện môn của bà là gì, bà Evangeline?
Không cần đọc tờ giấy mang theo. Bà là một chuyện gia, một chuyên gia duy nhất. Trên sân khấu, bà làm ra vẻ nhìn vào giấy.
- Những vụ giết người nổi tiếng, trong lịch sử cũng như trong viễn tưởng.
Có những tiềng thì thào trong cử tọa. Đó là một chuyên gia hiếm thấy. Evangeline lại thấy mình không e dè nữa. Bà đang ở nhà mình với những người bạn cũ.
- Xin lỗi cho phép tôi được nói như thế này: đây là một chuyên ngành hiếm thấy đối với một phụ nữ. Bà đã từng làm việc trong ngành cảnh sát chưa? Hoạt động của bà có quan hệ gì với ngành tòa án không?
Bà lắc đầu ý nói là “không”.
- Đối với tôi đây chỉ là một sự tiêu khiển. Tôi đã đọc rất nhiều truyện trinh thám.
Đúng thế. Bà đã đọc rất nhiều. Và bà cũng nhớ rất nhiều. Bây giờ bà chú ý đến những cử chỉ của July đang lấy từng tấm phiếu với những ngón tay thành thạo. Sự e dè muốn trở lại nhưng bà xua nó đi.
- Tốt lắm, bà Evangeline! Chúng ta bắt đầu! Câu hỏi thứ nhất, một trăm đô-la. Bà đã sẵn sàng chưa?
Bà lại gật đầu một lần nữa và cảm thấy cái kẹp tóc vừa rơi xuống gáy. Tóc bà vẫn còn đen và mụ Turner cho rằng bà đã nhuộm tóc còn bà thì nói đây là trường hợp đặc biệt vào cái tuổi này. Cũng là đặc biệt khi bà béo lên. Đặc biệt, thực tế là đặc biệt.
- Vào tháng Chạp, năm 1922, xác của một người đàn ông và của một phụ nữ được phát hiện ra dưới một gốc táo dại gần một trang trại vùng New Byunswick thuộc tiểu bang New Jersey. Vụ này được đưa ra trước công chúng với cái tên nào?Mặt của Ralph July gần sát mặt bà. Bà Evangeline ngập ngừng một chút trước khi trả lời.
- Các nạn nhân là mục sư Edward Hall và bà Eleanor Mills. Vụ án được mang cái tên Vụ Hall-Mills.July cười và công chúng vỗ tay. Trong khi July giải thích câu hỏi tiếp theo được thưởng hai trăm năm mươi đô-la, những ngón tay của bà Evangeline đang vò nhàu chiếc khăn tay trắng mà bà đã mang theo để dùng khi cần. Một phụ nữ thì bao giờ cũng phải mang theo một chiếc khăn tay trắng: đó là một trong những lời khuyên của bà thân sinh khốn khổ của bà thường nhắc đi nhắc lại. Bà cụ còn nói thêm như vậy mới là một phụ nữ được dạy dỗ tốt. Nhưng Evangeline, con gái cụ, ngay sau đó đã nhận ra chiếc chiếc khăn tay trắng không thể làm cho một phụ nữ trở thành người được dạy dỗ tốt được...
Người dẫn chương trình tiếp tục nói:
- Ngày mười chín, tháng ba, năm 1927, một người đàn ông và một phụ nữ bị tố cáo là đã giết người chồng của người phụ nữ này trong một căn hộ ở New York. Vụ giết người được thực hiện nhờ vào quả đối trọng của một cửa sổ. Các thủ phạm bị kết tội lên máy chém và làm ngạt hơi bằng clô-rô-phoóc. Người đàn ông và người phụ nữ ấy là ai?Bà Evangeline vội vàng trả lời:
- Đó là vụ Snyder-Gray. Ruth Snyder và Henri Julid Gray. Cả hai đều bị hành hình vào ngày mười ba, tháng giêng, năm 1928 về tội đã giết ông Albert Snyder.Lần này có nhiều tiếng vỗ tay hơn: những tiếng vỗ tay chân thành hơn. Evangeline đưa chiếc khăn tay lên miệng với bàn tay hơi run run.
- Và bây giờ, bà Evangeline, chúng ta đến câu hỏi được thưởng năm trăm đô-la. Khác với các câu khác, bà phải trả lời thật chính xác thì mới được số tiền thưởng nói trên. Dù cuộc thi kết thúc ra sao bà cũng phải bảo đảm trả lời đúng.
Bà Evangeline nín thở. Trước kia, đối với bà, năm trăm đô-la chỉ là tiền tiêu vặt; nhưng bây giờ khi về nhà dưỡng lão tối tăm và bẩn thỉu nó sẽ là một vị khách nồng hậu.
- Thời gian: ngày bốn, tháng một, năm 1928 - July đọc trên mảnh giấy
- Nạn nhân: một người đầu cơ chừng khoán ở New York. Bị cáo: một người đầu cơ chứng khoán khác đã giết địch thủ của mình bằng một phát súng lục. Trả lời: tên nạn nhân, tên bị cáo và tên của ông chánh án đã xếp hồ sơ vị này lại bằng một quyết định là không phạm tội.Bà Evangeline cảm thấy tim mình như ngừng đập, Bà nuốt nước bọt, tim lại đập.
- Xin ông nhắc lại câu hỏi.
Mặt của Juli trở nên vô cảm. Anh ta cao giọng đọc lại câu hỏi.
Bà Evangeline trả lời tiếp đó:
- Nạn nhân: Arnold Rotlistein. Người bị buộc tội: George MacManus, ông chánh án...Bà Evangeline nghe thấy câu trả lời của mình trong khi óc bà đang quay tròn. Ông chánh án ư? Thời ấy bà đã đọc tin tức về vụ này rồi. Mấy ngày trước đây, để khơi dậy trí nhớ, bà đã xem lại những bài báo cắt ra cùng những tấm ảnh của chúng. Vụ này cách đây đã năm chục năm. Bà đã đọc tên và xem ảnh ông chánh án này. Nếu bà có thể xua tan đám mây mù này. “Tên ông chánh án...” Xem nào, xem nào... “Năm trăm đô-la” bà nghĩ. “A! Đây rồi” rõ ràng như trên một bản đánh máy...
- Ông chánh án tên là Charles Nott! - Bà nói tiếp.
Công chúng thở dài như được an ủi sau đó là những tràng vỗ tay kéo dài của sáu trăm bàn tay. Một đoạn nhạc nổi lên và tiếng nói của July chế ngự những tiếng ồn ào đó.
- Rất đúng, bà Evangeline. Chúng tôi công nhận năm trăm đô-la đó thuộc về bà. Bà vẫn tiếp tục chơi chứ?
Câu ngạn ngữ nói thế nào nhỉ? Benny thường nhắc lại. “Khi bị Quỷ kéo một bên và bị Thiên thần kéo bên kia thì ta phải có quyết định!” Cử tọa thúc giục và bà Evangeline thấy mình phải nói to hơn. Bà lấy làm chán: đây quả là một gánh nặng so với lứa tuổi của bà. Bà cần coi thường tất cả: có những chuyện người ta không thể nói trước ống nói được.
Dù sao thì khoản tiền thưởng cũng đã tăng lên nhanh chóng và những câu hỏi thì như đang trong một trận bão tố. Bà chỉ muốn mình ngồi trong một phòng nhỏ, chỉ nhìn thấy July và chỉ nghe những gì cần nghe. Trời nóng làm bà khó chịu.
Năm ngàn đô-la.
- Tôi muốn biết tên các thám tử và tên các nhà văn đã tạo ra họ: một người Anh chơi vĩ cầm và đội chiếc mũ cát-két kẻ ô, một người Bỉ dùng chất xám của mình, một người Mỹ trồng hoa lan, một luật sư người Mỹ, chuyên gia về các công việc ở tòa án, người yêu cô nữ thư ký của mình - một nhà quý tộc người Anh chuyên theo đuổi những vụ đặc biệt khó khăn.Bà Evangeline kể tên những người này bằng cách đếm trên những ngón tay của mình:
- Đó là: Sherlock Holmes của Sir Arthur Conan Doyle, là Hercule Poirot của Agatha Christie, là Nero Wolfe của Rex Stout, là Perry Mason của Erle Stanley Gardner, là Sir Henry Merrivale của John Dickson Can, ông này còn một tên khác là Carter Dickson nữa.
Mười ngàn đô-la.
Trong một thoáng bà Evangeline nhìn thấy những bộ mặt căng thẳng của những người đang ngồi trước máy thu hình trong nhà dưỡng lão.
- Xin hãy nói tên những vị sau đây: một thám tử tư tóc hung từ Miami tới, một nhà tâm lý học ở New York đã giúp đã rất nhiều cho cảnh sát, một thám tử nhỏ bé làm việc cho một phụ nữ to béo, một linh mục Thiên Chúa giáo và một cảnh sát người Do Thái, một cảnh sát Trung Quốc có gánh nặng gia đình, một cảnh sát Nhật rất kiên trì... Tất cả những câu này là mười ngàn đô-la.Bà Evangeline trả lời:
-
Đó là Mike Shayne, Brett Haliday. Giáo sư Basil Willing, Helen McCloy, Donald làm việc cho Bertha Cool, AA Fair lúc này mang tên là Erle Stanley Gardner (đọc tên lần thứ hai...),
Đức cha Joseph Shanley và thám tử Sammy Golden, Jack Webb, Charlie Chan, Reol Derr Bigger. Ông Môt, John P. Marquant.Nói đến đây thì lần đầu tiên bà Evangeline cảm thấy đau đớn. Đau nhói ở phía dưới tim. Hai bàn tay vặn chặt chiếc khăn tay. Bà rất cần bình tĩnh: bà không thể đột quỵ khi đang ở giữa chương trình như thế này. Bác sĩ đã dặn bà phải tránh mọi sự xúc động, tuy nhiên bà đã tới đây. Tiền... bà đang rất cần tiền. Bà thường tính tiền đến từng xu một. Bà phải thắng. Bà không còn cách nào để thoát ra khỏi...
- Câu hỏi sau đây trị giá hai mươi nhăm ngàn đô-la.
Bà nhìn những câu nói trên môi Ralph July. Cái đau phía dưới tim lại nổi lên. Bà thở mạnh, bớt đau hơn. Bà đang chờ.
- Bà đã có mười ngàn đô la. Bà sẽ làm gì với số tiền ấy, bà Evangeline?
Mặt của Ralph July hình như mờ đi sau đám sương mù. Bà Evangeline chớp mắt.
- Tôi có một dự án (bà chợt thấy giọng nói của mình rất nhỏ) nhưng tôi mới có ít tiền quá. Tôi còn cần rất nhiều tiền...
Hình như công chúng cũng đang ở rất xa. Bà Evangeline cảm thấy sợ nếu bị ngã gục. Có thể bà không sống cho đến khi kết thúc chương trình này. Câu hỏi tiếp sau đây có giải thưởng là hai mươi nhăm ngàn đô-la: bà phải có số tiền đó. Như vậy bà còn phải trả lời hai câu hỏi nữa.
Bà văng vẳng nghe thấy tiếng của Benny: “Em có thể chiến thắng, em yêu. Em có thể chiến thắng bất cứ điều gì. Hãy làm việc đó vì anh”. Đây là một lời nói trong quá khứ xa xôi và như chính Benny trả lời câu hỏi.
-
Cuốn “sách bán chạy nhất” đầu tiên trong loại tiểu thuyết trinh thám ở Mỹ được xuất bản vào năm 1878. Trong sách viết về một người phụ nữ. Hãy cho biết tựa đề cuốn sách và tác giả của nó. Sau đó cho biết tên một cuốn sách của những tác giả sau đây: Dashiell Hammett, Agtha Christie, Erle Stanley Gavdner, Brett Haitiday, Arthur Conan Doyle, Wilkie Collin, Meredith Nicholson, Marary Robert Richard, E. Phillip Oppenheim, S.S Van Dine và Louis J.Vance.Có một thoáng hoàn toàn yên lặng, bà không nhìn thấy gì nữa.
- Tôi nhắc lại câu hỏi. - July nói.
“Benny, Benny - Bà Evangeline nghĩ. Cứu em với”. Và bất chợt trong đám mây mù trí nhớ một guồng máy đã bắt đầu hoạt động.
- Cuốn sách bán chạy nhất vào năm 1878 là “Vụ án Leavenyvortli”, tác giả của nó là Anna Katharine Green, Tiếp theo Dashieli Hammett có cuốn “Kẻ không thể tìm thấy”, Agatha Christie có cuốn “Vụ giết hại ông Roger Ackroyd”, Erle Stanley Gardner có cuốn nói về cuộc điều tra đầu tiên của Perry Mason là “Vuốt nhung”, Brett Haliday có cuốn “Nước mắt cho người đàn bà tóc vàng quá cố”, Arthur Conan Doyle có cuốn “Con chó của nhà Baskerville”, Wilkie Collin... Wilkie Collin... Tôi sẽ nói sau về tác giả này được không? (July nói: “Nếu bà muốn như vậy” và bà nói tiếp;)
Meredith Nicholson có cuốn “Bến cảng của những người mất tích”, Robert Rinehart có cuốn “Người ở trục cuối cùng”, Phillips Oppenheim có cuốn “Tài khoản của cửa hàng”, S.S Van Dine có cuốn “Vụ giết hại Gracie Allen”, Louis J.Vance có cuốn “Chiếc bát bằng đồng” Còn Wilkie Collins... có cuốn... có cuốn “Tảng đá trên mặt trăng”.Và bà đã nghe thấy những tiếng vỗ tay như sấm nổ.
Nét mặt của Ralph July trở nên rạng rỡ.
- Bà đã được thưởng hai mươi nhăm ngàn đô-la, bà Evangeline. Bà có hai lựa chọn: hoặc đến tuần sau tiếp tục cuộc thi để lĩnh trọn một triệu đô-la. (Anh ta mỉm cười, hai hàm răng rất trắng), hoặc trả lời câu hỏi cuối cùng vào ngay tối hôm nay để có chắc chắn hai mươi nhăm ngàn đô-la. Bà quyết định thế nào, bà Evangeline? Bà muốn kết thúc ngay tối nay ư?
“Ta không thể có được phần thưởng cao nhất được - Bà Evangeline nghĩ - Ta không thể bước tiếp vào một cuộc thử thách mới được. Ta phải hài lòng với hai mươi nhăm ngàn đô-la thôi”. Bà đặt hai tay lên bàn và định cất tiếng nhưng bà như đã nghe thấy lòng mong muốn của cử tọa: “Chơi tiếp đi! Chơi tiếp đi!”.
- Tôi đã cao tuổi, rất khó khăn để chế ngự những xúc động, ông Ralph July. Tôi xin cố gắng để đạt được phần thưởng cao nhất ngay trong tối nay.
Lúc này bà không nghe thấy gì cả, trừ sự yên lặng trong phòng. Bà mơ hồ nhìn thấy từ xa, những bộ mặt hình thành nên đám cử tọa và những bàn tay đập vào nhau.
Ralph July mở một chiếc phong bì và lấy trong đó ra một tờ giấy nữa. Bà Evangeline nhắm mắt và cầu kinh.
Gian phòng hình như hẹp lại. Các bức tường như tiến sát lại bà và bà cảm thấy kinh hoàng như phổi bà đang bị thiếu không khí. Ralph July nói tiếp:
- Chúng ta bỏ qua sự viễn tưởng để trở lại với những sự kiện lịch sử. Năm 1911 đã xảy ra một tội ác ghê tởm. Một vụ bắt cóc tiếp theo là vụ giết người. Một khoản tiền lớn vào thời kỳ ấy được đưa ra thử thách. Có hai người bị tố cáo trong vụ này... Tôi muốn bà cho biết tên của đứa trẻ bị bắt cóc, nơi xảy ra vụ này, số tiền lớn mà bọn cướp nêu ra, tên những kẻ trong bọn cướp ấy và kết quả của việc điều tra. Bà có mười lăm giây để suy nghĩ.Bà Evangeline thấy mình còn có thể ngồi vững trên ghế. Bà thấy mình có thể có được hai mươi nhăm ngàn ấy. Lúc này thì càng tin chắc. Trong mọi câu hỏi thì câu này là dễ nhất. Bà nghe thấy chính tiếng nói của mình. Vừa nói bà vừa nhìn thấy sự việc diễn biến một cách thật rõ ràng. Bà nhìn rõ những lỗ thủng cách âm trên tường. Bà nhìn rõ những vết nhăn trên mặt của Ralph July, những đường gân xanh trên tay anh ta. Bà trả lời một cách rành mạch:
- Đứa trẻ bị bắt cóc tên là Peter Pearsons. Nó bị bắt cóc ngay tại nhà mình ở phố thứ năm của New York. Tiền chuộc được định là hai mươi nhăm ngàn đô-la. Henri Bennington là kẻ làm việc này cùng với một tên đồng lõa khác là Claire de Lune (tiếng Pháp, có thể dịch là Ánh Nguyệt - ND)
là người trông trẻ cho gia đình đứa bé. Tiền chuộc được trao nhưng xác đứa trẻ thì được tìm thấy trong một cái ao ở Connecticut. Vụ này không được điều tra ra. Sau này người ta thấy xác của Henri Bennington trong một khách sạn nhỏ ở ngoại ở New York, trên ngực có ba phát đạn súng lục. Còn mụ Claire de Lune thì tuyệt vô âm tín.Thế là bà giành được thắng lợi. Bà đã làm mọi việc có thể. Nếu không được như vậy thì người ta cũng tha thứ cho bà.
Cái nhìn của bà bắt đầu quay cuồng, tối sầm, mọi vật lùi xa dần. Cơn đau trở nên dữ dội hơn. Bà còn ngồi được, nhưng cả việc này cũng chẳng ích gì nữa. Bà có cảm giác tim bà ngày càng đập yếu đi, nó sắp ngừng đập. Không phải lúc này nhưng rồi sẽ đến. Cũng không quan trọng.
Lá thư đang trong túi xách tay của bà. Rất dễ tìm.
Lá thư được viết như thế này: “Tên tôi là Evangeline Moon. Tôi tới New York từ hồi còn rất trẻ. Ý định của tôi là hoạt động sân khấu.Khốn thay tôi không có tài năng nào. Tôi không thể cống hiến mọi người chỉ bằng sắc đẹp của mình. Tôi buộc phải làm việc, làm nhiều việc khác nhau, thường là những việc hèn hạ. Ví dụ như làm kẻ ăn người ở trong nhà, điều mà tôi thấy mất phẩm giá.Tôi đã chọn một cái tên có vẻ nghệ sĩ: Claire de Lune. Tôi đã tìm được một chàng trai, một thanh niên không sống bằng lao động tay chân mà bằng những sản phẩm theo sáng kiến của mình, trong giới hạn thành thật. Tên anh ta là Henri Bennington.Tôi yêu say đắm Benny. Về một mặt nào đó tôi không tán thành ý định bắt cóc đứa trẻ, con trai chủ nhà nơi tôi làm việc, và dùng tôi làm đồng lõa. Nhờ tôi, anh ta vào nhà nuôi trẻ mang đứa bé đến một trang trại nhỏ ở Connecticut nơi chúng tôi giữ nó cho đến khi có tiền chuộc.Không may đứa trẻ bị cảm lạnh rồi chuyển thành sưng phổi. Benny và tôi không biết làm gì ngoài việc chờ đợi tiền chuộc, và sau đó đứa trẻ qua đời.Khi mọi việc xong xuôi, tức là khi chúng tôi nhận được tiền chuộc và ném xác chết xuống ao, tôi hối hận và căm ghét bản thân. Sự hối hận gậm nhấm tôi như là bệnh hủi.Tôi không thể tha thứ cho bạn trai tôi đã đưa tôi đến hành động tội ác. Nhưng tôi không thể làm gì được anh ta vì chính tôi cũng là thủ phạm như anh. Chúng tôi đã cãi nhau dữ dội; chúng tôi ném vào mặt nhau những lời cay độc và cuối cùng anh ta quyết định rời bỏ tôi. Chính tôi là người đã giết Benny bằng khẩu súng của anh, nhưng tôi không biết anh giấu tiền ở đâu. Không ai tìm ra được số tiền ấy.Từ đó tôi sống buồn tẻ và nặng nề. Tôi trở về cái tên cũ của mình: Evangeline Moon. Tôi đã làm con ở, người nội trợ gia đình, người phục vụ trong khách sạn. Tôi chỉ có một ham muốn: hoàn trả cho gia đình nhà Pearsons số tiền mà chúng tôi đã chiếm đoạt của họ. Tôi không thể trả đứa trẻ cho họ được...Nếu ông hoặc bà nào đọc được lá thư này, và nếu tôi kiếm được số tiền mong muốn, thì xin ông hoặc bà giúp tôi làm mọi việc cần thiết để trả cho gia đình nhà Pearsons hoặc người thừa kế, số tiền hai mươi nhăm ngàn đô-la ấy. Tôi muốn được chôn bên cạnh bạn trai tôi là Henri Bennington. Đó là ý nguyện duy nhất của tôi. Số tiền còn lại của tôi xin phân chia cho những người trong nhà dưỡng lão nơi tôi đang cư trú.Evangeline Moon”Chữ Evangeline Moon được ký rất rõ. Và bây giờ bà đã có tiền. Bà đã kiếm được số tiền này nhờ vào tội ác của mình. Vì đã phạm phải tội ác ấy nên bà lưu tâm đến những vụ án giết người. Vì quan tâm đến những vụ án ấy nên bà đã kiếm được số tiền.Đầu óc bà quay cuồng. Một làn sương mù xám xịt bao vây lấy bà và sự ồn ào xâm chiếm trí não bà. Bà buông xuôi. Bà đã hoàn thành việc mà bà đã thề thốt: một sự may mắn đã giúp đỡ bà, một sự may mắn không thể tưởng tượng được.Bà chỉ có một mong muốn: có được sự tha thứ của Benny. Bây giờ bà có thể chuyện trò cùng anh, nói với anh những điều có lý, có tình để làm dịu cơn giận của anh. Bà còn có thể quyến rũ anh bằng cách chải mớ tóc dài của anh... Bà dồn hết hơi sức để đọc cái tên “Benny”.Lần cuối cùng.