Dịch giả:Phạm Xuân Thảo
Phần III (D)

     on quỷ không nghe ông. Mắt nó hướng về phía cửa, về phía tiếng chân người từ lối hành lang bước nhanh đến, lúc này nét mặt nó đã biến ra dung mạo của một bản ngã khác. “Đồ quân đồ tể khốn kiếp”. Nó rít lên bằng cái giọng Anh nằng nặng, khàn khàn. “Đồ thằng Đức mặt l...”
Xuyên qua cánh cửa là Karl, bước nhanh vào với chiếc máy ghi âm. Anh ta đặt máy xuống cạnh giường, mắt nhìn chỗ khác, rồi cun cút rút lui khỏi phòng.
“Cút đi, thằng Himmler kia! Cút cho khuất mắt tao! Đi mà thăm đứa con gái cà thọt của mày đi! Đem dưa cải bắp đến cho nó! Dưa cải bắp và héroine, Thordike nữa! Con nhỏ sẽ mê mấy thứ đó lắm. Nó sẽ...”
Khuất rồi, Karl đã đi khuất rồi. Sau đó, bất chợt cái vật ở bên trong Regan đâm ra thành thật, nó nhìn Karras nhanh chóng chuẩn bị máy, tìm một lỗ cắm điện, gắn chấu dây vào, mắc băng từ vô lõi.
“À, đúng rồi, alô, alô, alô. Trò gì thế này?” Nó khoái chí nói. “Ta sắp sửa ghi âm cái gì chăng, hở Padre? Thú vị quá! Chà, tao quả là khoái chơi ba cái món diễn xuất lắm, mi biết đấy? Chèn ơi, tao khoái quá trời quá đất!”
“Ta là Damien Karras”, vị linh mục nói, vẫn bận bịu với công việc. “Còn ngươi là ai?”
“Ra mi định đòi ủy nhiệm thư của tao chăng? Hở người bạn thân mến? Mi thật là mặt dày mày dạn lắm nhé!” Nó cười rinh rích. “Tao là Puck trong vở kịch diễn ở lớp dưới đây”. Nó liếc quanh. “À này, có cái gì uống không? Ta khát cháy cổ đây”.
Vị linh mục khẽ đặt micro lên bàn ngủ.
“Nếu ngươi cho ta biết tên, ta sẽ kiếm thức uống cho”.
“Dĩ nhiên là được thôi”, nó trả lời với tiếng cười khằng khặc khoái chí, “rồi chính mi cũng sẽ uống luôn chứ gì, ta áng chừng thế”.
Vừa ấn chiếc nút “Thu”, Karras vừa đáp. “Nói tên ngươi đi”.
“Thằng ăn cướp chó đẻ!” nó rít ken két.
Rồi thoắt cái, nó biến mất và con quỷ kia lại thế chỗ. “Bây giờ ta sẽ làm gì đây, hở Karras? Ghi âm cuộc thảo luận nhỏ của chúng ta chăng?”
Karras thẳng căng người. Nhìn đăm đăm. Rồi ông kéo một chiếc ghế đến cạnh giường và ngồi xuống. “Ngươi không phiền chứ?” ông nói.
“Không hề” con quỷ giọng ồm ồm. “Bao giờ tao cũng khoái mấy thứ máy móc quỷ quái”.
Bất chợt một mùi nồng nặc mới xông vào mũi Karras. Một mùi như thể...
“Mùi dưa cải bắp, Karras ạ. Mi có nhận thấy không?”
Quả nó giống mùi dưa cải bắp thật, vị linh mục Dòng Tên kinh ngạc. Có vẻ như mùi đó bốc ra từ chiếc giường. Từ thân thể Regan. Rồi mùi đó biến mất, thay vào đó là cái mùi thối hoắc cũ. Karras cau mày. Có phải ta tưởng tượng ra mùi đó không? Tự kỷ ám thị chăng? Ông nghĩ đến lọ nước thánh. Bây giờ chưa? Khoan, để dành đó đã. Phải thu thập thêm mẫu nói đã. “Tôi vừa nói chuyện với ai mới đây vậy?” ông hỏi.
“Chỉ là một thành viên trong gia đình thôi”.
“Một con quỷ chăng”.
“Mi quá đề cao”.
“Sao thế?”
“Từ ‘quỷ’ có nghĩa là ‘người khôn ngoan’. Còn gã này thì ngu ngốc thôi”.
Vị linh mục cứng cả người. “Ở ngôn ngữ nào từ ‘quỷ’ có nghĩa là ‘người khôn ngoan’!?”
“Ngôn ngữ Hy Lạp”.
“Ngươi nói tiếng Hy Lạp chứ?”
“Rất lưu loát”.
Một trong những dấu hiệu đây rồi! Karras sôi nổi nghĩ. Nói một thứ tiếng lạ! Thật là vượt quá chỗ ông mong mỏi. “Pos ognokas hoti presbyteros eimi?” ông vội hỏi bằng tiếng Hy Lạp cổ điển.
“Tao không có hứng, Karras à”.
“Ồ, thế là ngươi không thể...”
“Tao không có hứng mà!”
Thất vọng, Karras trầm ngâm. “Ngươi đã khiến cho ngăn kéo tủ chạy ra phải không?” ông chất vấn.
“Tất nhiên”.
“Rất ngoạn mục”, Karras gật gù. “Ngươi hẳn là một con quỷ rất, rất ư quyền năng”.
“Đích thị”.
“Ta thắc mắc không biết ngươi có thể thi triển lại điều đó không?”
“Có chứ, đúng lúc của nó”.
“Xin làm ngay bây giờ đi. Ta thực sự muốn chứng kiến điều ấy”.
“Đúng lúc mới được”.
“Tại sao không làm bây giờ?”
“Chúng tao phải cho mi vài lý do để nghi ngờ chứ”, nó cất giọng ồm ồm. “Một vài. Đủ để khẳng định kết quả chung cuộc”. Nó ngửa đầu ra sau trong một tràng cười ma mãnh. “Tấn công xuyên qua chân lý mới kỳ thú làm sao chứ? A ha, mới khoái trá làm sao chứ!”
Những bàn tay băng giá lại rờ nhẹ lên cổ ông. Karras sửng sờ. Lại sợ chăng? Sợ? Phải đó là sợ chăng?
“Không, không phải sợ đâu”, con quỷ nói. Nó đang cười toe toét. “Đó là tao đấy thôi”.
Những bàn tay đã biến mất. Karras cau mày. Ông cảm thấy một điều lạ lùng mới mẻ. Ông chẻ nó ra để tìm hiểu. Thần giao cách cảm. Hay là cô bé? Tìm cho ra. Phải tìm cho ra ngay. “Ngươi có thể cho ta biết là ta đang nghĩ gì bây giờ không?”
“Tư tưởng của mi thì chán ngắt chẳng bỏ cho tao giải khuây”.
“Vậy là ngươi không thể đọc được tâm trí ta rồi”.
“Mi muốn nghĩ thế nào tùy ý mi... tùy ý mi”.
Thử nước thánh chăng? Ngay bây giờ? Ông nghe thấy tiếng máy thu âm kêu rin rít. Khoan. Cứ tiếp tục đào xới thêm đã. Phải thu thập được thêm một mẫu nói nữa. “Ngươi là một nhân vật hấp dẫn thật”. Karras bảo.
Regan cười nhạo báng.
“Ồ, không, thật vậy mà”. Karras nói. “Ta muốn biết thêm về lý lịch của ngươi. Chẳng hạn như ngươi chưa bao giờ cho ta biết ngươi là ai”.
“Một con quỷ”, con quỷ quát tháo.
“Ừ, ta biết, nhưng là quỷ nào chứ? Tên ngươi là gì?”
“Chà, một cái tên thì có nghĩa lý gì chứ, hở Karras? Đừng bận tâm đến cái tên của tao. Cứ gọi tao là Howdy, nếu mi thấy như thế tiện hơn”.
“Ồ, phải Đại úy Howdy”, Karras gật đầu, “bạn của Regan”.
“Bạn chí thân của nó”.
“Ồ, thật vậy sao?”
“Thật”.
“Thế thì tại sao ngươi lại hành hạ cô bé?”
“Vì tao là bạn nó. Con heo con khoái chuyện đó”.
“Cô bé khoái chuyện đó sao?”
“Nó ngưỡng mộ điều đó”.
“Tại sao chứ?”
“Cứ hỏi nó!”
“Ngươi có để cho cô bé trả lời không?”
“Không”.
“Chà, thế thì ta hỏi cô bé để làm gì chứ?”
“Chả làm gì cả”. Đôi mắt quỷ lóe lên tia oán ghét.
“Kẻ mà ta mới nói chuyện lúc nãy là ai vậy?” Karras hỏi.
“Ngươi đã hỏi câu đó rồi”.
“Ta biết, nhưng ngươi có hề trả lời gì đâu”.
“Chỉ là một người bạn tốt khác của con heo này thôi, Karras thân mến ạ”.
“Ta nói chuyện với y được chứ?”
“Không, hắn đang bận bịu với mẹ mi”. Nó khẽ cười rúc rích, rồi thêm. “Ôi, cái lưỡi mới tuyệt diệu làm sao, mẹ mi ấy. Cái mồm thật đáng đồng tiền bát gạo”.
Nó lóe nhìn ông nhạo báng, còn Karras cảm thấy một cơn giận dữ bừng bừng chạy qua người ông, một nỗi oán hận hừng hực mà vị linh mục giật mình nhận ra là không phải nhắm vào Regan, mà nhắm vào con quỷ. Con quỷ! Có việc quái gì với mi thế này, hở Karras? Vị linh mục cố hết sức giữ bình tĩnh, hít thở thật sâu, rồi đứng lên rút lọ nước ra khỏi túi áo sơ mi. Ông mở nút lọ.
Con quỷ lộ vẻ cảnh giác. “Cái gì vậy?”
“Ngươi không biết sao?” Karras hỏi, ngón tay cái ông che nửa miệng lọ lúc ông bắt đầu rảy nước lên người Regan. “Nước thánh đấy quỷ ạ”.
Lập tức con quỷ co rúm, quằn quại, hét lên vì kinh hãi và đau đớn: “Bỏng! Bỏng! Á! Đừng rảy nữa! Ngừng lại, tên linh mục khốn kiếp kia! Ngừng lại đi!”
Mặt lạnh như tiền, Karras ngừng rảy. Loạn thần kinh ít-tê-ri. Ám thị. Con bé quả đã đọc quyển sách đó rồi. Ông nhìn chiếc máy ghi âm. Tại sao lại bận tâm?
Ông nhận ra sự yên lặng. Nhìn Regan. Nhíu mày. Cái gì thế này? Chuyện gì đang xảy ra đây? Bản ngã quỷ đã biến mất nhường chỗ cho nét mặt khác, trông tương tự. Nhưng mà lại khác. Cặp mắt trợn ngược, bày ra hai tròng trắng dã. Bây giờ nó thì thầm. Chậm rãi. Một tràng huyên thuyên sôi nổi. Karras đến bên giường. Nghiêng người xuống nghe. Cái gì vậy? Chẳng có gì cả. Vậy mà... Tràng nói có ngữ điệu. Giống như một ngôn ngữ. Có thể thế được sao? Ông cảm thấy tiếng cánh vỗ phần phật trong bao tử ông, ông vội kềm chặt chúng, ghìm chúng đứng yên. Nào, đừng có ngu ngốc thế nữa! Vậy mà...
Ông nhìn ô kiểm soát âm lượng trên máy ghi âm. Không thấy lóe sáng. Ông tăng núm khuếch âm rồi lắng nghe, chăm chú, tai áp sát môi Regan. Tràng nói huyên thuyên chấm dứt, thay vào đó là những tiếng thở cò cử, sâu lắng.
Karras duỗi thẳng người. “Ngươi là ai?” Ông hỏi.
“Nowonmai”, thực thể đó trả lời. Tiếng than vãn thều thào. Trong nỗi đau đớn. Đôi tròng mắt trắng dã. Mí mắt nhấp nháy. “Nowonmai”. Cái giọng rạn vỡ, hổn hển, giống như linh hồn của chủ nhân nó, có vẻ co cụm trong một không gian trướng rũ màn che, tăm tối ở bên kia thời gian.
“Đó là tên ngươi chăng?” Karras cau mày.
Đôi môi đó mấp máy. Những vần hừng hực sốt. Chậm chạp. Vô nghĩa. Rồi nó ngừng ngang.
“Ngươi hiểu được ta không?”
Yên lặng. Chỉ có tiếng thở. Sâu lắng. Nghe nghèn nghẹn kỳ quặc. Như âm thanh kỳ lạ của giấc ngủ trong lồng dưỡng khí.
Vị linh mục Dòng Tên chờ đợi. Hy vọng sẽ có gì thêm.
Chẳng có gì xảy ra.
Ông trả băng lại, bỏ máy vào bao, xách máy lên, mang theo cuộn băng.
Ông nhìn Regan một lần cuối. Vẫn là những đầu mối rời rạc, không đâu vào với đâu. Bất quyết, ông rời phòng và bước xuống cầu thang.
Ông tìm thấy Chris trong bếp. Nàng đang ngồi ủ rũ bên tách cà phê nơi bàn, với Sharon. Lúc thấy ông lại gần, hai người ngước lên nhìn ông với vẻ mong ngóng, xốn xang, tra hỏi. Chris khẽ bảo Sharon. “Cô lên ngó qua Regan hộ tôi. Đồng ý?”
Sharon uống ngụm cà phê cuối cùng, uể oải cuối đầu chào Karras rồi bỏ đi. Ông mệt mỏi ngồi xuống bàn.
“Vậy là chuyện gì?” Chris hỏi ông, vừa dò xét đôi mắt ông.
Vừa định trả lời, Karras lại chờ vì lúc đó Karl từ phòng chứa thực phẩm bước vào bếp rồi đi ra phía bồn rửa để kỳ cọ soong nồi.
Chris dõi theo tia nhìn của ông. “Không sao”, nàng nhỏ nhẹ nói. “Cha cứ nói đi. Cuộc thực tập ra sao?”
“Có hai bản ngã mà trước đây tôi chưa gặp. À, không, một kẻ tôi đoán là có thấy thoáng qua, kẻ có phát âm rặt giọng Anh ấy. Đó có phải là người bà quen biết không?”
“Điều đó có quan trọng không?”
Ông lại trông thấy vẻ căng thẳng đặc biệt trên khuôn mặt nàng. “Quan trọng chứ!”
Nàng nhìn xuống và gật đầu. “Vâng, đó là một kẻ tôi có quen biết”.
“Ai vậy?”
Nàng ngước lên. “Burke Dennings”.
“Nhà đạo diễn?”
“Phải”.
Vị linh mục yên lặng cân nhắc câu trả lời của nàng một lúc. Ông trông thấy ngón tay trỏ của nàng giần giật.
“Cha muốn uống chút cà phê hay thứ gì không, thưa cha?”
Ông lắc đầu. “Không, cảm ơn”. Ông nghiêng người ra trước, hai khuỷu tay chống lên bàn. “Regan có quen biết ông ấy không?”
“Có”.
“Và...”
Có tiếng loảng xoảng. Giật nẩy mình, Chris quay lại, trông thấy Karl đánh rơi một cái chảo xuống sàn và đang cố nhặt lên. Anh vừa nhấc chảo lên thì lại đánh rơi nữa.
“Chúa ơi, Karl!”
“Xin lỗi bà”.
“Này, Karl, đi ra ngoài đi! Đi mà xem phim hay cái gì đi! Ta không thể nào cứ ngồi ru rú trong ngôi nhà này mãi được!” Nàng quay lại Karras, nhặt một gói thuốc lá lên, rồi lại ném phịch xuống bàn lúc nghe Karl phản đối “Không, tôi coi...”
“Này Karl, tôi bảo thật đấy!” Chris bực bội gắt anh ta, cao giọng nhưng không ngoái đầu lại. “Đi ra đi! Cứ đi ra khỏi nhà này chốc lát đi! Rồi tất cả chúng ta cũng phải bắt đầu đi ra hết lượt thôi! Nào, đi ra thôi!”
“Phải rồi, anh đi đi!” Willie hưởng ứng lúc chị bước vào, giằng cái chảo trên tay Karl. Chị bực dọc đẩy chồng về phía phòng chứa thực phẩm.
Karl nhìn Karras và Chris một thoáng rồi bước ra.
“Xin lỗi cha”. Chris lắp bắp xin lỗi. Nàng nhón một điếu thuốc. “Dạo gần đây anh ta phải chịu biết bao điều cay đắng”.
“Bà nói đúng”, Karras dịu dàng nói. Ông nhặt bao diêm lên. “Tất cả mọi người nên cố gắng ra khỏi ngôi nhà này”. Ông châm thuốc cho nàng. “Cả bà nữa”.
“Thế rồi Burke nói những gì?” Chris hỏi.
“Toàn những lời tục tĩu”. Karras nhún vai nói.
“Có thế thôi sao?”
Ông bắt gặp nét sợ hãi mông lung trong giọng nói nàng. “Khá nhiều”. Ông đáp. Rồi ông hạ thấp giọng. “À này, Karl có một con gái phải không?”
“Một cô con gái? Không, tôi chưa bao giờ hay biết điều đó. Mà giá có đi nữa, anh ta cũng chẳng bao giờ đả động đến điều đó”.
“Bà chắc chứ?”
Willie đang kỳ cọ bồn rửa bát. Chris quay lại phía chị ta. “Chị không có đứa con gái nào, phải không Willie?”
“Cháu chết rồi, thưa bà, từ lâu lắm rồi”.
“Ồ, tôi xin lỗi”.
Chris quay trở lại Karras. “Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói về người con gái ấy”. Nàng thì thầm. “Tại sao cha lại hỏi? Bằng cách nào cha biết được?”
“Regan. Cô bé đã đề cập đến điều ấy”. Karras bảo.
Chris nhìn sững.
“Có bao giờ cô bé tỏ ra dấu hiệu là có nhận thức ngoài giác quan không?” Ông hỏi. “Ý tôi muốn nói là trước thời gian này”.
“Chà...” Chris ngập ngừng. “Chà, tôi không biết nữa. Tôi không dám chắc. Ý tôi muốn nói là, có lắm lúc như nó nghĩ cùng những điều tôi nghĩ, nhưng há điều đó không từng xảy ra với những người thân cận của ta sao?”
Karras gật đầu. Suy nghĩ. “Cái bản ngã mà tôi đã đề cập đến này đây”, ông bắt đầu. “Đó chính là kẻ đã một lần xuất hiện lúc thôi miên”.
“Nói năng huyên thuyên”.
“Phải. Ai vậy?”
“Tôi không biết”.
“Không quen biết gì sao?”
“Không hề”.
“Bà đã gửi xin các hồ sơ bệnh lý chưa?”
“Các hồ sơ ấy sẽ đến đây xế trưa nay. Đi bằng máy bay. Chúng sẽ gửi thẳng đến chỗ cha”. Nàng nhấm nháp cà phê. “Đó là cách duy nhất mà tôi có thể tháo cũi sổ lồng chúng, và ngay cả bằng cách ấy đi nữa, tôi cũng đã phải làm toáng lên họ mới chịu nhả chúng đó”.
“Vâng, tôi cũng nghĩ là thế nào cũng gặp rắc rối”.
“Có rắc rối. Nhưng mà chúng sắp tới nơi”. Nàng chiêu một ngụm nữa. “Còn bây giờ, về vụ đuổi quỷ thì sao đây. Thưa cha?”
Ông nhìn xuống rồi thở dài. “Chà, tôi không mấy hy vọng là có thể thuyết phục được Đức Giám mục về chuyện ấy”.
“Cha nói ‘không mấy hy vọng’ là nghĩa lý thế nào?” Nàng đặt tách cà phê xuống, cau mày, lo lắng.
Ông thọc tay vào túi lôi ra lọ nước, chìa nó ra cho Chris xem. “Thấy cái này chứ?”
Nàng gật đầu.
“Tôi bảo cô bé đó là nước thánh”, Karras giải thích. “Rồi lúc tôi khởi sự rảy lên người nó, nó phản ứng rất dữ dội”.
“Vậy thì?”
“Đó không phải là nước thánh. Chỉ là nước máy thường thôi”.
“Vậy thì có lẽ một vài con quỷ không biết được sự khác biệt ấy thôi”.
“Bà thực sự tin là có một con quỷ ở trong cô bé sao?”
“Tôi tin rằng có một cái gì đó ở bên trong Regan đang cố giết cho bằng được con bé, thưa cha Karras, và cho dù nó biết phân biệt nước đái hay nước thường hay không đi nữa thì dường như cũng chẳng có can hệ mấy đến điều đó, cha có nghĩ thế không? Xin lỗi cha nhưng vì cha đã hỏi ý kiến tôi, thì tôi cũng xin nói rõ ra thế này”, nàng dụi điếu thuốc. “dù gì đi nữa, nước thánh và nước máy thì có gì khác nhau không nào?”
“Nước thánh đã được làm phép”.
“Xin chúc cha may mắn, thưa cha. Tôi rất sung sướng về điều ấy! Vậy thì bây giờ cha định nói gì với tôi đây. Không có chuyện đuổi quỷ chăng?”
“Coi kìa, tôi chỉ mới bắt đầu đào xới tìm hiểu vào sự việc này”, Karras sôi nổi nói. “Nhưng giáo hội có những tiêu chuẩn cần phải được đáp ứng, và chúng phải được đáp ứng vì một lý do thật xác đáng: đó là gạt bỏ triệt để những thứ rác rưởi mê tín mà thiên hạ đã không ngừng gán ép cho chuyện đó hàng bao nhiêu năm nay! Tôi đan cử cho bà vài ví dụ, chẳng hạn chuyện ‘những ông tu sĩ biết bay’, những bức tượng Đức Mẹ người ta cho là biết khóc vào những ngày thứ sáu Tuần Thánh và vào những ngày lễ hội. Bây giờ tôi nghĩ là mình có thể sống mà chẳng cần đóng góp gì thêm vào những chuyện rác rưởi ấy!”
“Cha muốn dùng chút đỉnh Librium không, thưa cha?”
“Tôi xin lỗi, nhưng vì bà đã hỏi ý kiến tôi”.
“Tôi hiểu rồi”.
Ông vói tay lấy thuốc lá.
“Cho tôi với”, Chris khàn giọng nói.
Ông giơ gói thuốc ra. Nàng rút một điếu. Ông bập điếu thuốc vào mồm rồi châm lửa cho cả hai. Họ phà thuốc ra với những tiếng thở dài sườn sượt rồi sụm người xuống quanh bàn.
“Tôi xin lỗi”, ông nhỏ nhẹ bảo nàng.
“Mấy thứ thuốc lá không đầu lọc này sẽ giết cha mất”.
Ông đùa nghịch với bao thuốc lá, vò nhàu lớp giấy bóng kính. “Đây là những dấu hiệu giáo hội có thể chấp nhận. Một là nói một thứ tiếng mà trước đó bệnh nhân chưa hề biết. Chưa hề đọc. Tôi đang nghiên cứu mục này với các bảng ghi âm. Rồi ta sẽ xem. Kế đến là khả năng thấu thị, mặc dù ngày nay sự thần giao cách cảm và sự nhận thức ngoài giác quan có lẽ đã vô hiệu hóa mục này”.
“Cha tin ở điều đó sau?” nàng cau mày vẻ hoài nghi.
Ông nhìn nàng. Nàng hoàn toàn nghiêm túc, ông khẳng định như vậy. Ông nói tiếp. “Và cuối cùng là các quyền năng vượt quá khả năng và tuổi tác của cô bé. Đó là một cái kho chứa tạp loại hằm bà lằng. Bất cứ thứ gì huyền bí”.
“Nào bây giờ ta phải giải thích ra sao về những tiếng nện thình thịch trên tường đây?”
“Tự thân, điều đó không có nghĩa lý gì cả”.
“Còn cái cách nó bay lên bay xuống bên trên giường thì sao?”
“Không đủ”.
“Thế thì, những vết hiện lên trên da nó là nghĩa làm sao?”
“Những vết gì cơ?”
“Tôi chưa kể cho cha nghe sao?”
“Kể cho tôi nghe cái gì?”
“Ồ, cái điều xảy ra ở Y viện ấy mà”, Chris giải thích. “Có những nét... chà...” Nàng vạch một ngón tay trên ngực. “Cha biết đấy, giống như là viết thì phải? Chỉ là những chữ cái. Chúng hiện trên ngực con bé, rồi biến mất. Đúng như thế đó”.
Karras cau mày. “Bà nói là những chữ cái? Không phải những từ sao?”
“Không, không phải từ. Chỉ là một chữ M xuất hiện một hai lần gì đó. Rồi một chữ L”.
“Bà đã trông thấy chứ?” Ông hỏi nàng.
“Không, nhưng họ kể cho tôi nghe”.
“Ai kể cho bà?”
“Các bác sĩ ở Y viện. Rồi cha sẽ đọc thấy điều đó trong hồ sơ. Thật rõ mười mươi”.
“Vâng, tôi tin chắc là như vậy. Nhưng một lần nữa, đó cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên”.
“Ở đâu? Vùng Transylvania à?” Chris nói, không thể tin được.
Karras lắc đầu. “Không, tôi tình cờ đọc được các trường hợp đó trong các tạp chí. Tôi còn nhớ có một vụ: một vị bác sĩ tâm thần trong trại giam đã báo cáo rằng một bệnh nhân của ông - một tù nhân - có thể đi vào trạng thái hôn mê do anh ta tự dẫn dụ, và có khả năng làm cho hình chòm sao Hoàng Đạo xuất hiện trên mặt anh ta”. Ông phác một cử chỉ trước ngực. “Làm cho da gợn lên”.
“Chà, hẳn là phép lạ cũng chẳng dễ gì hiện ra được với cha, phải không?”
“Một lần kia có một cuộc thí nghiệm”, ông giải thích cho nàng. “Trong cuộc thí nghiệm đó, đối tượng được thôi miên, được làm cho hôn mê đi. Sau đó, người ta tiến hành các vết rạch phẫu thuật trên mỗi cánh tay anh ta. Đối tượng được thông báo rằng cánh tay trái của anh ta đang chảy máu, còn tay phải thì không chút hề hấn. Sức mạnh của tâm trí đã điều khiển dòng máu. Dĩ nhiên, anh ta không biết nó điều khiển bằng cách nào nhưng điều đó đã xảy ra. Do đó, trong những trường hợp các dấu lạ hiện trên da - giống như chuyện xảy ra với người tù tôi đã đề cập, hoặc với Regan - vùng tâm trí vô thức đã điều khiển độ sai biệt của dòng máu chảy lên da, tiếp thêm máu đến các vùng mà nó cần làm cho gợn lên. Thế là người ta có các hình vẽ, các chữ cái, hay bất cứ thứ gì. Kỳ bí thật, nhưng khó có thể gọi là siêu nhiên”.
“Cha quả là một con người cứng cỏi khăng khăng, thưa cha Karras, cha có biết thế không?”
Karras khẽ nhá móng tay cái. “Bà xem đây, có lẽ điều này sẽ giúp cho bà hiểu”, rốt cuộc ông nói. “Giáo hội - chứ không phải tôi - Giáo hội - đã có lần ra một bản tuyên bố, một lời cảnh cáo cho các nhà đuổi quỷ. Tôi đã đọc bản tuyên bố đó đêm qua. Nội dung của nó là: hầu hết những kẻ bị cho là quỷ ám hay những kẻ mà người khác tin là bị quỷ ám - ở đây tôi xin trích nguyên văn - đều cần đến một bác sĩ hơn là cần đến một thầy đuổi quỷ rất nhiều”. Ông ngước lên nhìn thẳng vào mắt Chris. “Bà có đoán được lời cảnh cáo này được ban hành lúc nào không?”
“Không. Lúc nào vậy?”
“Năm 1583”.
Chris tròn xoe mắt, kinh ngạc, suy nghĩ. “Vâng, đó quả thật là một cái năm quái quỷ”, nàng lẩm bẩm. Nàng nghe tiếng vị linh mục đứng dậy khỏi ghế. “Để tôi chờ kiểm chứng lại hồ sơ của Y viện đã”. Ông nói.
Chris gật đầu.
“Lâm thời”, ông nói tiếp, “tôi sẽ ráp nối mấy cuốn băng ghi âm rồi đem chúng đến Viện Ngôn Ngữ học. Rất có thể chuỗi nói huyên thuyên này là một thứ ngôn ngữ nào đó. Tôi nghi lắm. Nhưng có thể.. Rồi so sánh các mẫu nói với nhau. Đến lúc đó rồi ta sẽ biết. Nếu những mẫu nói ấy là một, ta sẽ biết chắc là cô bé không phải bị quỷ ám”.
“Rồi thì sao?” nàng lo lắng hỏi.
Vị linh mục dò xét đôi mắt nàng. Đôi mắt thật xao xuyến. Bà ta cứ lo là con gái bà ta không phải bị quỷ ám! Ông nghĩ đến Dennings. Có một điều gì đó không ổn. Rất không ổn. “Tôi bất đắc dĩ phải hỏi, bà có thể cho tôi mượn xe bà một lúc được không?”
Nàng ủ rũ nhìn xuống sàn nhà. “Cha có thể mượn cả cuộc đời tôi một lúc cũng còn được”, nàng thì thầm. “Khoảng thứ năm cha trả lại xe là ổn. Nào ai biết, có thể tôi cần đến xe”.
Với niềm đau quặn thắt, Karras nhìn đăm đăm mái đầu cúi gầm, bơ bơ kia. Ông khao khát cầm lấy tay nàng mà bảo nàng rằng mọi sự rồi sẽ ổn thoả. Nhưng bằng cách nào đây?
“Chờ một lát, để tôi đi lấy chìa khóa cho cha”, nàng nói.
Ông nhìn nàng lướt đi như một lời cầu nguyện vô vọng.
Khi nàng đã trao cho ông chùm chìa khóa rồi, Karras đi bộ trở về phòng riêng ở khu cư xá. Ông để máy ghi âm lại đó và lấy cuốn băng ghi giọng nói của Regan. Xong, ông quay lại, băng qua đường đến chỗ đậu xe của Chris.
Leo lên xe, ông nghe thấy Karl từ ngưỡng cửa ngôi nhà gọi với ra. “Cha Karras!” Karras nhìn Karl đang băng nhanh xuống khoảng sân trước nhà, vừa ném vội chiếc áo vét lên người. Anh ta vẫy vẫy. “Cha Karras! Chờ chút!”
Karras nghiêng qua quay kính cửa bên phía ghế hành khách. Karl nghiêng đầu vào trong xe. “Cha đi lối nào thưa cha Karras?”
“Lối Bùng Binh Du Pont”.
“Chà, vậy thì hay quá! Xin cha vui lòng cho tôi quá giang đến đó, được không cha? Có phiền cha không?”
“Rất vui lòng phục vụ anh. Lên xe đi!”
Karl gật đầu. “Rất đội ơn cha!”
Karras khởi động máy. “Đi ra ngoài như thế là có lợi cho anh”.
“Vâng, tôi đi xem phim. Một phim hay”.
Karras sang số xe rồi lao vút đi.
Trong một lúc, hai người cứ phóng xe trong yên lặng. Karras rất băn khoăn, tìm kiếm các đáp số. Quỷ ám? Không thể như thế được. Nước thánh. Dù vậy vẫn...
“Karl à, anh biết ông Dennings khá rỏ, phải vậy không?”
Karl nhìn đăm đăm qua kính chắn gió, rồi gật đầu, vẻ cứng nhắc. “Vâng, tôi biết ông ấy”.
“Lúc Regan... lúc cô bé hiện ra thành ông Dennings, anh có ấn tượng rằng cô bé quả thật giống y như vậy không?”
Một lúc ngập ngừng kéo dài. Tiếp đó là một tiếng “Có” vô hồn, dứt khoát.
Karras gật đầu, cảm thấy như bị ma ám.
Họ không còn chuyện trò gì thêm cho mãi khi đến Bùng Binh Du Pont, họ gặp đèn đỏ, phải dừng lại. “Thưa cha Karras, tôi xin xuống đây”, Karl nói, mở cửa xe. “Chỗ này tôi đón xe buýt được rồi”. Anh ta xuống xe, rồi nghiêng đầu vào cửa sổ. “Thưa cha, cám ơn cha nhiều lắm. Xin đa tạ”.
Anh ta đứng nép vào ô tránh xe an toàn dành cho người đi bộ ở ngã ba đường, đợi đèn xanh. Anh mỉm cười, đưa tay vẫy lúc vị linh mục lái xe đi. Anh nhìn theo chiếc xe cho mãi đến khi nó khuất dạng sau khúc rẽ ở đầu Đại lộ Massachusets.
Sau đó, anh ta chạy theo một chiếc xe buýt, leo lên. Lấy một vé nhiều chặng. Sang xe nhiều lần. Yên lặng đáp xe cho mãi đến cuối cùng, anh xuống xe ở một khu nhà tập thể vùng đông bắc thành phố, từ đó, anh đi đến một chung cư xập xệ và bước vào trong.
Karl dừng lại dưới chân cầu thang tối tăm, ngửi thấy mùi thơm cay xè mũi bốc ra từ các gian bếp trong các căn hộ. Từ một nơi nào đó, có tiếng trẻ sơ sinh khóc. Anh cúi thấp đầu. Một con gián từ lớp ván ốp chân tường băng nhanh qua bậc thang bằng những cú phóng tới chệch choạc. Anh bấu chặt lấy thành cầu thang, dường như muốn quay trở lại, nhưng rồi lại lắc đầu và khởi sự leo lên. Mỗi bước chân rên rĩ kêu kẽo kẹt như một lời thống trách.
Đến tầng hai, anh bước đến một cánh cửa ở một bên chái tối tăm, và trong một lúc, anh cứ đứng yên đó, một tay tựa trên khung cửa. Anh nhìn lên vách tường, lớp sơn đã tróc loang lỗ. Mấy chữ Nicky và Ellen viết bằng bút chì nguệch ngoạc và dưới hàng chữ đó, một nhật ký và một quả tim nằm chính giữa là lớp vữa trát đã nứt nẻ. Karl bấm nút chuông và chờ đợi, đầu cúi gầm. Từ bên trong căn hộ, có tiếng lò xo giường kêu kin kít. Tiếng lầm thầm bực bội. Rồi có tiếng người đến gần, một âm thanh khập khiễng, tiếng bước nặng nề lê lết của một chiếc giày chỉnh hình. Thình lình cánh cửa bật mở ra nữa vời, chuỗi xích trên then cài khua lách cách cho đến hết chiều dài của nó, lúc một phụ nữ mặc quần lót quắc mắt nhìn ra khe cửa, điếu thuốc lá vắt vẻo trên khóe miệng cô ả.
“Ồ, ra là bố”, giọng cô ả khàn khàn. Cô ta tháo xích cửa.
Karl bắt gặp đôi mắt đã là hiện thân của một nỗi khắc khổ bươn chải, đã là những cái giếng bơ phờ của niềm đau và nỗi thống trách, anh liếc nhanh đến nét cong bất quyết của đôi bờ môi và vẻ mặt rạc rài của một kẻ thiếu niên, một nhan sắc đã bị chôn sống trong hàng ngàn căn phòng khách sạn, trong hàng ngàn cơn thức tỉnh từ giấc ngủ bồn chồn với tiếng kêu khóc tức tưởi vì một nét duyên chỉ còn trong nỗi nhớ.
“Này, bảo thằng đó cút mẹ nó đi!” Có tiếng đàn ông thô lỗ vẳng ra từ bên trong căn hộ. Giọng líu nhíu. Gã bạn trai của cô ả.
Cô gái quay đầu lại, đốp chát ngay. “Câm mồm đi, đồ ngu ạ, đây là bố tao”.
Cô ả quay sang Karl. “Hắn say rồi, bố ạ! Bố cũng chẳng nên vào làm gì”.
Karl gật đầu.
Đôi mắt sâu hoắm của cô gái đảo xuống tay anh lúc bàn tay ấy thọc ra túi quần để rút ví. “Mẹ ra sao?” Cô ả hỏi anh, vừa rít thuốc lá, đôi mắt vẫn nhìn hai bàn tay đang thọc vào ví, hai bàn tay đang đếm những tờ giấy bạc mười đô la.
“Bà rất khỏe”. Anh ta gật đầu, ngắn gọn. “Mẹ con khỏe”.
Lúc anh trao món tiền cho con gái, cô ả bật lên ho như xé phổi. Cô ta đưa nhanh một bàn tay lên che miệng. “Đồ ba cái thứ thuốc lá mả mẹ!” Cô ta ngộp thở.
Karl nhìn trừng trừng mấy chỗ đóng vẩy vì chích thuốc trên cánh tay cô ả.
“Cảm ơn, bố”.
Anh cảm thấy món tiền đang trượt khỏi mấy ngón tay anh.
“Trời ơi, lẹ lên đi!” Tiếng gã con trai từ phòng trong càu nhàu ra.
“Này bố, ta nên kết thúc nhanh gọn đi. Nghe bố. Bố biết tính khí hắn ra sao rồi đấy”.
“Elvira!” Karl chợt lách qua cửa nắm lấy cườm tay con gái. “Ở New York bây giờ có dưỡng đường điều trị đấy con ạ!” Anh khẩn khoản thì thào với con gái.
Cô gái nhăn mặt, cô rứt người ra khỏi tay bố. “Thôi mà bố!”
“Bố sẽ đưa con đến đấy. Người ta sẽ giúp đỡ con! Con không phải vào tù đâu! Nơi đó...”
“Chúa ơi, thôi mà bố!” Cô ả rít lên, rứt người khỏi tay bố.
“Đừng, đừng, bố xin con! Nơi đó...”
Cô ả đóng sầm cánh cửa vào mặt anh.
Trong hành lang u ám, trong lăng mộ trải thảm của những điều anh mong ước, Karl câm nín nhìn cánh cửa một lúc, rồi cúi đầu vào nỗi ưu phiền lặng lẽ. Bên trong căn hộ vẳng ra tiếng chuyện trò loáng thoáng. Rồi một tiếng cười đàn bà đầy khinh bạc, lảnh lót. Tiếp theo là cơn ho sù sụ.
Karl quay đi và cảm thấy như bị một cơn chấn động bất thần đâm suốt vào người anh, lúc anh nhận ra lối đi đã bị Trung úy Kinderman đứng án ngữ.
“Có lẽ bây giờ chúng ta nói chuyện được rồi, ông Engstrom ạ”, ông ta khò khè. Hai tay ông thọc sâu vào túi áo khoác. Đôi mắt u buồn. “Chắc chúng ta có thể hàn huyên với nhau đôi chút”.
Karras máng băng vào một lõi trống trong văn phòng vị giám đốc tóc bạc, tốt tướng của Viện Ngôn ngữ học. Đã biên tập kỹ lưỡng những đoạn băng thu thập được vào từng cuộn riêng rẽ, ông chuẩn bị cho chạy cuộn thứ nhất. Ông khởi động máy ghi âm rồi bước lùi ra xa bàn. Họ lắng nghe cái giọng sảng sốt đang ồm ồm phát ra những lời huyên thuyên. Rồi ông quay sang vị giám đốc. “Đó là cái gì vậy, Frank? Có phải là một ngôn ngữ không?”