1
Trí đi chơi phương Bắc, tới Huyền Thuỷ, lên núi Ẩn Phân, gặp Vô Vi Vị,[1] bảo: - Tôi muốn hỏi ông ít điều: Muốn biết Đạo thì phải suy nghĩ những gì, ra sao? Muốn ở yên trong Đạo thì phải cư xử ra sao, hành động ra sao? Muốn đắc Đạo thì phải theo cách nào, đường nào? Trí hỏi ba câu đó mà Vô Vi Vị không đáp câu nào cả, không phải không muốn đáp mà vì không biết đáp ra sao. Không được đáp lại, Trí quay về Bạch Thuỷ ở phương Nam, lên núi Hồ Khuyết, thấy Cuồng Khuất cũng lại đem ba câu đó ra hỏi. Cuồng Khuất đáp: “À tôi biết, để tôi nói cho nghe”. Nhưng vừa muốn nói thì Cuồng Khuất đã quên mình muốn nói gì. Trí lần này cũng không hỏi được, trở về đế cung, vô yết kiến Hoàng Đế để hỏi. Hoàng Đế đáp: “Đừng suy nghĩ gì cả thì mới biết được Đạo, đừng cư xử hành động gì cả thì mới ở yên trong Đạo được; không theo đâu, không nói đường nào thì mới đắc Đạo”. Trí lại hỏi: - Tôi và ông biết điều đó, còn hai người kia [tức Vô Vi Vị và Cuồng Khuất] không biết, như vậy là ai phải? Hoàng Đế đáp: - Vô Vi Vị mới thật là phải, Cuồng Khuất chỉ tựa như phải thôi, còn ta và ngươi thì không bao giờ gần được Đạo. Vì người biết thì không nói, kẻ nói thì không biết.[2] Cho nên thánh nhân dùng cách “dạy mà không cần nói”[3]. Đạo không thể nhận được, Đức không thể đạt được, mà lòng nhân có thể thi hành được, nghĩa có thể tồn tại được, lễ có thể hoá ra giả dối được. [vì những cái đó thuộc về hữu vi]. Cho nên bảo: “Mất Đạo rồi mới có Đức, mất Đức rồi mới có nhân, mất nhân rồi mới có nghĩa, mất nghĩa rồi mới có lễ.[4] Lễ là cái phù hoa của Đạo, là đầu mối của loạn. Cho nên bảo: “Theo Đạo thì mỗi ngày một bớt [hành động đi]. Bớt rồi lại bớt nữa, cho đến vô vi [không làm gì cả]. Vô vi mà không có gì là không làm”.[5] Nay đã là vật rồi mà muốn trở về bản nguyên, điều đó thực khó, chỉ bậc chí nhân hoạ chăng mới dễ dàng trở về được. Sống đưa tới chết, chết là đầu mối của sống. Ai biết được thứ tự trước sau của sống chết? Người ta sinh ra là do cái khí tụ lại. Khí tụ thì sinh, khí tán thì chết. Tử sinh đã tuần hoàn thì còn có gì mà lo? Vạn vật là một. Cái gì người ta cho là tốt đẹp thì gọi là thần kì, cái gì cho là xấu xa thì gọi là xú hủ [thối, nát]. Sự thực thì cái xú hủ lại biến hoá ra thành thần kì, mà cái thần kì lại biến hoá thành xú hủ[6]. Cho nên bảo rằng: “Khắp thiên hạ chỉ có một cái khí lưu thông mà thôi. Do dó thánh nhân trọng cái nhất thể”[7]. Trí hỏi Hoàng Đế: - Tôi đã hỏi Vô Vi Vị, Vô Vi Vị không đáp, không phải vì không muốn đáp mà vì không biết đáp ra sao. Tôi lại hỏi Cuồng Khuất, Cuồng Khuất muốn đáp mà rồi không đáp vì vừa định đáp thì quên mất mình muốn nói gì. Nay tôi hỏi ông, ông biết mà đáp tôi, thế thì tại sao bảo là ông không gần được Đạo? Hoàng Đế đáp: - Vô Vi Vị thực đạt Đạo vì ông ta không biết đáp ra sao; Cuồng Khuất tựa như đạt Đạo vì ông quên điều mình muốn nói; còn ta và ngươi không bao giờ gần được Đạo cả vì biết nói về Đạo. Cuồng Khuất nghe kể lại lời đó của Hoàng Đế, cho rằng Hoàng Đế biết sự hạn chế của ngôn ngữ.[8]2
Trời đất tuyệt đẹp mà không nói, bốn mùa tuần hoàn theo một luật rõ ràng mà không nghị luận, vạn vật sinh thành theo một trật tự mà không biện thuyết. Thánh nhân trở về bản nguyên cái đẹp của trời đất, thấu được đạo lí của vạn vật. Bậc chí nhân vô vi, bậc thánh nhân không tạo ra cái gì là vì theo phép tắc tự nhiên của trời đất. Cái thần minh của Đạo cực tinh diệu, hoà hợp với mọi sự biến hoá của vạn vật. Sự sinh tử, vuông tròn của vạn vật đều là diễn biến tự nhiên, nên không biết được căn nguyên, vì vậy mà vạn vật tự nhiên sinh tồn từ xưa tới nay. Trời đất và bốn phương tuy rộng thật mà vẫn nằm ở trong Đạo; cái đầu lông tơ mùa thu tuy nhỏ thật mà cũng nhờ Đạo mới thành hình. Vạn vật đều chìm nổi biến hoá hoài suốt đời. Âm dương, bốn mùa vận hành theo thứ tự. Đạo mê muội, tựa như không có mà có; mới đầu nó không có hình tích mà lại có tác dụng thần diệu, vạn vật nhờ nó sinh hoá mà không tự biết[9]. Người ta gọi nó là căn bản của vũ trụ. Hiểu được lẽ đó thì có thể quan sát đạo trời (đạo tự nhiên).3
Niết Khuyết hỏi Bị Y[10] về Đạo. Bị Y đáp: - Anh ngay người lên, chuyên nhất thị giác thì hoà khí của trời sẽ xuống. Gom trí lại, chuyên nhất ý niệm thì thần minh sẽ tới. Cái Đức làm cho anh đẹp lên, cái Đạo sẽ hiện rõ trong anh. Con người của anh sẽ như con người còn bé mới sanh, anh sẽ không tìm nguyên do của mọi việc nữa[11]. Bị Y chưa nói xong thì Niết Khuyết đã ngủ say. Bị Y mừng lắm, bỏ đi, vừa đi vừa hát: “Hình thể như cây khô, lòng như tro tàn. Thực là chân trí, không còn chút thành kiến. Mê mê muội muội, không còn tâm tư, không cùng [với anh ấy] mưu tính gì được. Quí thay người đó!”.4
Bài này y hệt bài 12 chương I Liệt tử, chúng tôi đã dịch rồi – Lá Bối – trang 105, nên không chép lại. Đại ý: thân ta do khí trời vận chuyển mà có, vậy là của trời đất kí thác cho ta.5
Khổng Tử nói với Lão Đam: - Hôm nay an nhàn, xin ông giảng cho tôi về cái Đạo tối cao. Lão Đam đáp: - Ông nên trai giới, gột rửa cái tâm, tinh khiết cái thần, trừ bỏ trí tuệ đi. Cái Đạo thật sâu thẳm, mờ mịt, khó giảng lắm. Tôi cho thầy biết cái đại khái. Cái sáng sủa phát sinh từ cái tối tâm; cái hữu hình phát sinh từ cái vô hình; tinh thần phát sinh từ cái Đạo, hình thể phát sinh từ tinh thần; vạn vật do hình thể mà sinh ra: những vật có chín lỗ sinh từ cái thai, những vật có tám lỗ[12] sinh ra từ cái trứng. Khi Đạo xuất hiện, nó không để một dấu vết gì cả, nó không biến mất sau một giới hạn nào cả[13], nó không có phòng, có cửa, bốn mặt thông ra ngoài, mênh mông vô cùng. Người nào đạt được nó thì chân tay cứng mạnh lên, tư tưởng thông đạt, tai mắt sáng suốt, dưỡng tâm mà không biết mệt, thuận ứng vạn vật, không có thành kiến. Không có nó thì trời không cao được, đất không rộng được, mặt trời mặt trăng không vận hành được, vạn vật không phồn thịnh được. Học vấn quảng bác chưa chắc đã biết được nó, biện luận chưa chắc hiểu được nó, cho nên thánh nhân đã bỏ trí tuệ [không dùng trí tuệ để hiểu Đạo]. Nó là cái không thể tăng, không thể giảm được, cái mà thánh nhân quí trọng. Thăm thẳm như biển, vòi vọi như núi, hết rồi lại bắt đầu [bất tuyệt], vận chuyển vạn vật mà không bao giờ kiệt. Cái Đạo của người quân tử ở ngoài nó được chăng? Thí dụ một người Trung Quốc, chẳng cần biết âm hay dương[14], ở vào khoảng giữa trời đất, làm người rồi sau trở về nguồn gốc. Tự bản thể mà xét, người ấy sinh ra là do cái khí tụ lại, người đó có thể thọ hay yểu, nhưng thọ yểu thì có khác nhau bao nhiêu. Chẳng qua chỉ là một khoảnh khắc, có đáng gì mà khen vua Nghiêu, chê vua Kiệt! Quả cây lớn và hạt loài cỏ đều có đạo lí sinh trưởng riêng của chúng. Nhân luân tuy phức tạp nhưng cũng có đạo lí.[15] Gặp hoàn cảnh nào thánh nhân cũng không phản kháng, bỏ qua mà không cố chấp. Điều hoà mà thuận ứng, như vậy là Đức; vô tâm[16] mà thuận ứng, như vậy là Đạo, nhờ vậy mà các đế, vương thời xưa hứng khởi được. Con người ở trong khoảng trời đất cũng như con ngựa trắng, vụt qua cái khe hở, một nháy mắt rồi biến mất. Vạn vật hốt nhiên xuất hiện rồi lại hốt nhiên trở vô. Do sự biến hoá tự nhiên mà sinh, rồi do sự biến hoá tự nhiên mà chết. Các sinh vật lấy vậy làm buồn, loài người cho vậy là thảm. Sự thực, cái chết chỉ là trút cái túi (cung) tự nhiên, bỏ cái bao (kiếm) tự nhiên của trời, phân vân tiêu tán, hồn phách rời đi, thể xác tan rã, cái đó gọi là “đại qui” (cuộc trở về quan trọng). Từ vô hình mà thành hữu hình (sinh), lại từ hữu hình mà thành vô hình (tử), điều đó ai cũng biết, không phải gắng sức mới hiểu được; ai cũng bàn luận tới. Nhưng đạt Đạo thì không bàn luận, bàn luận thì không đạt Đạo. Trên con đường sáng sủa [tức nghị luận] thì không gặp được Đạo. Cho nên biện luận lại không bằng đừng nói gì cả. Không thể nghe thấy Đạo được, muốn nghe nó thì thà bịt tai còn hơn. Như vậy gọi là đắc Đạo.6
Đông Quách Tử[17] hỏi Trang tử: - Cái ông gọi là Đạo ấy, nó ở đâu? Trang tử đáp: - Ở khắp nơi. - Phải chỉ ra ở chỗ nào mới được chứ. - Trong con kiến. - Sao mà thấp vậy? - Trong cọng cỏ. - Còn thấp hơn nữa ư? - Trong mảnh sành. - Sao càng thấp quá vậy? - Trong cục phân. Đông Quách Tử không hỏi nữa. Trang tử bảo: - Những câu hỏi của ông không đi tới thực chất của vấn đề. Như viên xét thuế hỏi người coi chợ về cách dẫm lên con heo để biết nó mập hay không: chân càng lún xuống thì heo càng mập[18]. Ông đừng chỉ hắn một vật nào (phải bao quát) mà hỏi, như vậy ông sẽ không bỏ sót. Cái Đạo tối cao như vậy, mà lời nói cao cả cũng vậy: bao hàm, phổ biến và đủ cả. Ba danh từ đó tuy khác nhau mà ý nghĩa như nhau.[19] Người nào đã tiêu dao ở cõi Hư vô, bao gồm mà nghị luận thì biết được Đạo là vô cùng. Người nào đã vô vi thì điềm đạm mà an tĩnh, tịch mịch mà thanh hư, điều hoà mà nhàn dật. Bỏ tham vọng của ta đi, đi mà không biết để tới đâu, về mà không biết sẽ ngừng ở đâu, đi và về đều không có mục đích. Bàng hoàng ở trong cảnh giới mênh mông hư vô mà bậc đại trí cũng không biết được giới hạn của nó. Chủ tể của vật [tức Đạo] với vật đều không có giới hạn [vì Đạo ở trong vật, nhưng vật đối với vật thì có giới hạn, đó là giới hạn của vật[20]. Cái không có giới hạn [tức Đạo] nằm trong cái có giới hạn [tức vật], Đạo tuy nằm trong vật có giới hạn mà chính nó không có giới hạn. Như cái người ta gọi là đầy, rỗng, suy diệt. Đạo tuy ở trong cái đầy, rỗng mà không phải đầy, rỗng; ở trong cái suy diệt mà không phải suy diệt; ở trong gốc và ngọn mà không phải gốc, ngọn; ở trong cái tích tụ và tiêu tán mà không phải là tích tụ, tiêu tán.7
A Hà Cam cùng với Thần Nông học Lão Long Cát, Thần Nông tựa vào cái kỉ (bàn con), để ngó ra cửa mà ngủ trưa. Giữa trưa, A Hà Cam đẩy cửa vô cho hay thầy đã mất. Thần Nông tựa vào cái kỉ, chống gậy đứng dậy, rồi liệng gậy đánh rầm một tiếng, cười vang: - Biết rằng tôi thiên lệch, ngu muội, chậm chạp và biếng nhác nên trời [tức Lão Long Cát] bỏ tôi mà đi. Thế là hết. Thầy không còn một lời cuồng nào[21] để mở trí cho tôi nữa. Thầy mất rồi. Yểm Cương lại điếu, nghe thấy, bảo: - Người nào ngộ Đạo[22] thì được các quân tử trong thiên hạ qui phụ. Nay, về Đạo thầy anh chưa biết được một phần vạn cái đầu lông mùa thu chứ cũng đã biết trước khi chết không phát lộ một lời cuồng nào về Đạo cho anh hay, huống hồ là người ngộ Đạo. Thầy anh nhìn Đạo, không thấy nó có hình thể nào cả; nói về Đạo thì bảo nó mờ mờ mịch mịch. Vì nghị luận về Đạo tức là trái với Đạo.8
Cực Thanh[23] hỏi Vô Cùng: - Anh biết Đạo không? Vô Cùng đáp: - Không. Cực Thanh lại hỏi Vô Vi: - Anh biết Đạo không? - Biết. - Anh biết Đạo, vậy có thể nói được nó ra sao không?[24] - Được, - Vậy nó ra sao? - Theo tôi, nó có thể quí hay tiện, tụ hay tán, đó nó như vậy. Cực Thanh kể những lời của Vô Cùng và Vô Vi cho Vô Thuỷ[25] nghe và hỏi: - Vô Cùng không biết Đạo mà Vô Vi biết. Như vậy ai phải ai trái? Vô Thuỷ đáp: - Người nào không biết mới là sâu sắc, người nào biết thì nông cạn. Không biết là cảm được cái bề trong, biết chỉ là thấy bề ngoài. Cực Thanh gật đầu, than: - Vậy không biết mới là biết, mà biết lại không biết. Ai biết được cái biết mà là không biết? Vô Thuỷ bảo: - Đạo không thể nghe được; cái gì nghe được thì không phải là Đạo. Đạo không thể thấy được; cái gì thấy được thì không phải là Đạo. Đạo không thể đem ta giảng được; cái gì giảng được thì không phải là Đạo. Ai biết được rằng cái gì sinh ra hình thể thì không có hình thể. Đạo, không thể dùng tên gọi được. Vô Thuỷ nói tiếp: - Có người hỏi về Đạo mà mình trả lời tức là không biết Đạo. Nội cái việc hỏi về Đạo thì đủ tỏ rằng chưa nghe gì về Đạo. Đạo thì không thể đem ra hỏi được, mà hỏi thì không trả lời được. Đã không thể hỏi mà còn hỏi thì câu hỏi đó rỗng không, đã không đáp được mà còn đáp thì lời đáp đó vô nghĩa. Dùng lời vô nghĩa mà đáp một câu hỏi rỗng không, như vậy là ngoài thì không quan sát vũ trụ, trong thì không biết nguồn gốc, tất không vượt được núi Côn Lôn[26], mà mà ngao du ở cõi Thái Hư.9
Ánh Sáng Rực Rỡ hỏi Không Có[27]: - Thầy là có hay không có? Hỏi mà không được đáp, Ánh Sáng Rực Rỡ bèn chăm chú nhìn trang mạo của Không Có, chỉ thấy tối tăm và hư không. Suốt ngày nhìn Không Có mà không thấy gì cả, nghe mà không thấy gì cả. Ánh Sáng Rực Rỡ thán phục: - Thật là cao xa! Ai mà đạt được. Tôi có thể hiểu được cái hư không, nhưng không thể cho cái hư không là không có, đến như không có mà là có thì làm sao đạt được cảnh giới ấy.[28]10
Một người thợ gọt móc dây lưng cho quan Đại tư mã [nước Sở], tám chục tuổi rồi mà gọt vẫn đúng, không sai chạy mảy may. Quan Đại tư mã hỏi: - Ông già khéo tay thật, có thuật nào không? Người thợ đó đáp: - Tôi có cách[29] này. Hồi hai mươi tuổi tôi thích gọt đai lưng đến nỗi không nhìn, không xem bất kì vật gì khác ngoài cái đai lưng ra. Sở dĩ dụng tâm được như vậy là nhờ không để ý vào các vật khác, mà phát huy hoài được cái dụng tâm của mình. Huống hồ là dùng cái tâm không dụng tâm thì vạn vật, có vật nào là không nhờ mình mà phát huy được cái diệu dụng của nó.[30]11
Nhiễm Cầu (một môn đệ của Khổng Tử) hỏi Trọng Ni: - Có thể biết được khi chưa có trời đất thì ra sao không? Trọng Ni đáp: - Biết được. Xưa cũng như nay. Nhiễm Cầu không hỏi thêm, lui ra. Hôm sau gặp Trọng Ni lại hỏi: - Hôm qua con hỏi thầy có thể biết được khi chưa có trời đất thì ra sao không. Thầy đáp: “Biết được. Xưa cũng như nay”. Lúc đó con hiểu rõ, bây giờ con lại mù mờ. Như vậy nghĩa làm sao, xin thầy giảng cho con. Trọng Ni đáp: - Hôm qua anh hiểu rõ là dùng tinh thần[31] mà lĩnh hội được cái nghĩa rồi. Hôm nay anh mù mờ là gì anh không dùng tinh thần mà dùng lí luận (hay hình tượng) để tìm hiểu. Không có cổ, không có kim, không có thuỷ, không có chung. Trước kia không có con cháu mà bây giờ có con cháu được không? Nhiễm Cầu không đáp, Trọng Ni nói thêm: - Thôi, đừng hỏi nữa. Không phải cái sống sinh ra cái chết, không phải cái chết làm mất cái sống. Sống và chết chẳng phải tuỳ thuộc vào một cái gì khác đấy ư? Vì sống và chết chỉ là một. Có vật gì có trước khi trời đất sinh ra không? Cái làm chủ tể vật đó không phải là vật. Vật nào sinh ra (vạn vật) không phải là vật có trước hết thảy, vì trước đó còn có vật khác nữa, cứ như vậy tới vô cùng, cũng là theo luật tự nhiên đó.[32]12
Nhan Uyên hỏi Trọng Ni: - Con đã có lần nghe thầy bảo: “Đừng đón cái gì cả, đừng đuổi cái gì cả”. Xin thầy giảng cho con nghe. Trọng Ni đáp: - Cổ nhân thích ứng với biến hoá ở ngoài mà trong lòng không thay đổi. Ngày nay người ta thay đổi trong lòng mà không thích ứng với biến hoá ở ngoài. Ai muốn thích ứng với biến hoá ở ngoài thì phải biết cái luật bất biến hoá. Yên tĩnh biến hoá, mà cũng là yên tĩnh không biến hoá; yên tĩnh tiếp xúc với vật nhưng đừng nhiều quá.13
Vua Hi Vi có cái vườn cây, vua Hoàng Đế có cái vườn hoa, vua Thuấn có cung điện, vua Thang và vua Võ có cung thất. Các bậc quân tử như các thầy Nho, thầy Mặc [tuy học thuyết trái nhau] mà còn dùng điều phải điều trái để “điều hoà” lẫn nhau, huống hồ là người ngày nay. Thánh nhân ở với vật mà không làm hại vật. Không là hại ai nên không ai có thể làm hại mình được. Chỉ người nào không làm hại ai mới có thể giao thiệp với mọi người được. Rừng núi, gò đống làm cho ta vui vẻ, hăng hái. Vui chưa dứt thì đã buồn. Vui, buồn tới ta không đuổi chúng được, mà chúng đi ta cũng không ngăn chúng được. Hởi ơi! Đời người như cái quán trọ vậy, ghé đó rồi đi. Ta biết được cái ta gặp mà không biết cái ta không gặp; ta làm được những cái ta làm được mà không làm được những cái khác. Có những cái mình không biết, mình không làm được, đó là điều không ai tránh khỏi. Muốn tránh những cái không tránh được, điều đó chẳng đáng thương tâm ư? Lời nói thực đúng thì không dùng lời, hành vi thật hoàn toàn thì không dùng hành vi. Đem cái mình biết mà bao quát tất cả những cái mình không biết, thiển cận thay!°
(Xin coi nhận định ở cuối chương sau)[1] Đây toàn là những tên tượng trưng. Trí tượng trưng trí tuệ, Vô Vi Vị tượng trưng người hiểu Đạo vì Đạo không làm, không nói. Huyền Thuỷ là nước đen, tức sông hay biển ở phương Bắc, Ẩn Phân là nổi lên mà không hiện rõ, tượng trưng sự mù mờ, không phân biệt được. Ở dưới cũng được hiểu: Bạch Thuỷ là nước trắng, tức sông hay biển phương Nam, miền sáng sủa; Hồ Khuyết tượng trưng sự hồ nghi; Cuồng Khuất, có lẽ như H.C.H. giải thích, tượng trưng người hơi hiểu Đạo.[2] Câu này ở đầu chương 56 Đạo đức kinh.[3] Năm chữ ‘hành bất ngôn chi giáo” ở chương 11 Đạo đức kinh.[4] Câu này ở chương 38 Đạo đức kinh.[5] Câu này ở đầu chương 48 Đạo đức kinh. [6] Như thức ăn biến hoá thành phân, phân lại dùng để bón cây mà biến hoá thành những hoa quả tốt.[7] Tác giả bài này, mà cả Lão, Trang cũng vậy, tuyệt đối chủ trương nhất nguyên luận.[8] Đại ý bài này là Đạo chỉ hiểu bằng trực giác được thôi, không thể giảng được, vì vậy người thật đạt Đạo (Vô Vi Vị) không giảng gì về Đạo, hạng thấp nhất (Hoàng Đế) mới dùng lời để giảng về Đạo; hạng ở giữa (Cuồng Khuất) còn có ý muốn giảng mà không giảng được.[9] Nguyên văn: vạn vật súc nhi bất tri. L.K.h. dịch là: vạn vật mang Đạo ở trong mình mà không biết là có nó.[10] Coi chú thích hai nhân vật tượng trưng này ở chương VII bài 1.[11] Nguyên văn: vô cầu kì cố. L.K.h. dịch là: sẽ không theo thế tục nữa (?). [Nguyên văn chữ Hán là: 无求其故. Sách in sai chữ “cố” thành “có” – Goldfish]. [12] Vật có chín lỗ (mắt, mũi, miệng, tai…) là loài người, vật có tám lỗ là loài chim vì đại tiện và tiểu tiện đều chung một lỗ. [13] Nguyên văn: kì vãng dã vô nhai. H.C.H. dịch là: nó chết rồi không có giới hạn nào cả. Dịch như vậy sát từng chữ nhưng khó hiểu quá.[14] Nguyên văn: phi âm, phi dương, nghĩa là: không phải là âm là dương.[15] Nguyên văn: quả loả hữu lí, nhân luân tuy nan, sở dĩ tương xỉ. “Luân” ở đây không có nghĩa là đạo đức, luân thường mà có nghĩa là thuận tự nhiên. L.K.h. dịch là: sự tương quan giữa loài người. Đại ý câu này chỉ muốn nói rằng cây cỏ hay người đều thuận theo luật tự nhiên hết.[16] Nguyên văn: ngẫu = thình lình, không cố ý, không dụng tâm.[17] Một người theo đạo Lão, ở ngoài thành phía Đông nên gọi như vậy. Cũng có tên là Thuận tử.[18] Tác giả muốn nói: đừng nên chỉ riêng vật nào mà hỏi Đạo có ở đó không, cũng như đừng nắn từng bộ phận con heo để xem nó có mập không, chỉ cần dẫm lên nó, hễ chân lún là biết nó mập.[19] Bài này có nhiều chỗ khó hiểu. Như câu này, nguyên văn: kì chỉ nhất dã. L.K.h. dịch là: mà chỉ trỏ một vật. Chính Liou cũng nhận là không hiễu rõ. [20] Có lẽ tác giả muốn nói: vật, xét về phương diện một phần tử của Đạo, vì do Đạo sinh ra, thì không có giới hạn cũng như Đạo; mà xét địa vị của từng vật một – tách vật ra khỏi Đạo – thì có giới hạn.[21] Nguyên văn: cuồng ngôn. H.C.H. giảng là lời cực thâm thuý. [Cuồng ngôn 狂言, trong sách in sai là cương ngôn - Goldfish] [22] Nguyên văn: thể Đạo. L.K.h. dịch là: hợp nhất với Đạo.[23] Cực Thanh ở đây tượng trưng trời chăng? [24] Nguyên văn: hữu số hồ? H.C.H. giảng là ta có thể tả nó mộ cách cụ thể, rõ ràng được không? L.K.h. dịch là: có thể hình dung nó, cho nó những đức tính nào được không? [Hữu số hồ? 有数乎?, sách in sai là hữu số ho? – Goldfish].[25] Vô Thuỷ là không có khởi thuỷ.[26] Côn Lôn là dãy núi lớn nhất phía Tây Trung Hoa. Ở đây trỏ cảnh giới cực cao xa. Cõi Thái Hư đây tức là cõi “vô hà hữu chi hương” (chỗ hư vô tịch mịch) trong chương Tiêu dao du bài 5.[27] Nguyên văn: Quang Diệu (tượng trưng cho trí tuệ) và Vô Hữu (tượng trưng Đạo).[28] Câu này khó hiểu, mỗi nhà dịch một khác. L.K.h. dịch là: Tôi có thể quan niệm ông ấy là vô (không), nhưng tôi không thể cho cái vô là không có, mà ông ấy là cái vô đã hư vô hoá.[29] Nguyên văn: hữu thủ. L.K.h. dịch là: kiên tâm.[30] Câu này mỗi nhà hiểu một khác. Tôi theo H.C.H. cho rằng câu đó nói về Đạo, cứ tự nhiên, không dụng tâm mà vạn vật được phát triển.[31] Tức trực giác.[32] L.K.h. theo một bản khác, dịch là: Thánh nhân yêu người mà không một chút vị kỉ (vô kỉ, chứ không phải vô dĩ như các bản khác) là vì lí luận trên sự kiện này: không có vật nào, người nào được ưu thế.