1
Nhan Hồi hỏi Trọng Ni [tức Khổng tử] - Anh tính đi đâu? - Con đi qua nước Vệ. - Để làm gì? - Con nghe nói vua Vệ [Vệ Trang Công] đương tuổi tráng niên, hành vi độc đoán, coi thường việc nước, không thấy lỗi của mình, coi thường mạng dân, người chết đầy đất, nhiều như cỏ khô trong đồng cháy, dân không biết đi đâu. Con đã từng nghe thầy bảo: “Nước nào đã bình trị thì mình nên bỏ mà đi, nước nào loạn thì mình nên tìm tới”. Như một thầy lang thấy bệnh nhân là trị[1]. Con theo lời dạy của thầy mà mong lại cứu nước Vệ được phần nào chăng? Trọng Ni bảo: - Lại đó để mà bị giết à? Đạo thì không nên tạp, tạp thì hoá phiền toái, phiền toái thì gây hỗn loạn, hỗn loạn thì gây lo lắng, mà không thể cứu được. Hạng “chí nhân”[2] thời xưa giữ vững đạo mình rồi sau mới giúp người khác. Đạo của anh chưa được vững mà sao sửa được hành vi tàn bạo của người khác [tức vua Vệ]. Lại thêm, anh biết tại sao “đức” sở dĩ bại hoại, còn mưu trí do đâu mà ra không? Đức bại hoại do hiếu danh, mưu trí phát ra do thích tranh đua. Hiếu danh gây ra sự khuynh loát lẫn nhau, mưu trí tạo ra những phương tiện để tranh dành. Hai cái đó đều là những khí cụ bất tường; không làm cho hành vi con người được tận thiện[3]. Đức cao và lòng chân thành không đủ để thắng được tính khí của người; danh tốt và tinh thần hiếu hoà vị tất đã cảm được lòng người; nếu anh cố lấy những lời nhân nghĩa, phải đạo mà thuyết con người tàn bạo ấy, thì tức là lấy cái xấu của họ để làm nổi bật cái tốt đẹp của mình, như vậy là “bừa” người ta như bừa cỏ. Bừa người ta thì bị người ta bừa lại, thầy ngại rằng anh sẽ bị hãm hại mất. Giả sử vua Vệ yêu người hiền mà ghét người ác, thì cũng đâu đặc biệt cần tới anh [vì nước Vệ có nhiều bậc hiền tài rồi]. Anh không can gián thì thôi, nếu can gián thì vua Vệ sẽ nhân kẽ hở của anh mà đả anh[4]; anh mà chịu thua thì mắt anh sẽ hoa lên, nét mặt anh sẽ dịu xuống, miệng anh sẽ tìm cách bào chữa, thái độ anh sẽ phục tòng, anh sẽ thuận theo ý ông ta. Như vậy không khác gì dùng lửa để diệt lửa, dùng nước để ngăn nước, chỉ tăng thêm tội ác của ông ta. Còn nếu như anh nhất định một lòng can gián, mà không được ông ta nghe thì nhất định sẽ bị ông giết. Xưa, vua Kiệt giết [hiền thần là] Quan Long Phùng; vua Trụ giết [chú là] Vương tử Tỉ Can[5]. Những bậc đó ở địa vị thấp làm trái ý vua để bênh vực dân chúng, bị vua hãm hại chính vì hiền đức của họ. Ham danh thì hậu quả như vậy đó. Xưa vua Nghiêu đánh các nước Tùng Chi[6] và Tư Ngao; vua Vũ đánh nước Hữu Hổ. Ba nước đó bị tàn phá, dân chúng bị diệt, vua bị giết, vì vua của họ dùng binh lực để cướp bóc các nước láng giềng mà làm giàu. Vừa hiếu danh vừa tham lợi thì hậu quả như vậy đó. Anh không biết điều đó ư? Dẫu bậc thánh nhân cũng không khắc phục được lòng ham danh và lợi, huống hồ là anh. Nhưng có lẽ anh đã có kế hoạch nào đó rồi, thử nói cho thầy nghe nào. Nhan Hồi đáp: - Con sẽ rán cung kinh mà khiêm nhường; cương quyết mà chuyên nhất, như vậy được không? - Không được, vì vua Vệ tự mãn mà tính tình bất thường; không ai dám làm trái ý ông ta; ông ta áp đảo thiện ý của người khác để làm theo ý mình. Con người đó, những thói tốt hằng ngày có thể sửa tính được, mà còn không chịu theo thì làm sao thực hành được đức lớn?[7] Ông ta tất sẽ cố chấp, không chịu sửa đổi. Nếu ông ta bề ngoài tán đồng anh, mà trong lòng không phản tỉnh[8], thì anh dùng phương pháp đó có ích lợi gì? - Nếu vậy thì con dùng cách “trong thẳng mà ngoài cong”[9] của cổ nhân. Kẻ nào “trong thẳng” là môn đệ của trời; môn đệ của trời thì cho vua với mình cũng là con của trời. Là con trời thì đâu cần người khác phê phán ngôn luận của mình là phải hay trái. Thuận với tự nhiên như vậy thì giữ được thiên chân như đứa bé, nên người ta gọi là em bé, mà em bé là môn đệ của trời. Kẻ nào “ngoài cong” là môn đệ của người. Hai tay chấp lại, cầm cái hốt, quì xuống, cúi đầu, đó là bầy tôi giữ lễ với vua. Mọi người giữ lễ đó, làm sao con dám không giữ? Làm như mọi người thì không ai trách mình. Như vậy là môn đệ của người. Kẻ nào hành động như cổ nhân thì là môn đệ của cổ nhân; kẻ đó chỉ lập lại những lời của cổ nhân can ngăn vua, nhưng đó là lời của cổ nhân chứ không phải lời của chính mình; cho nên dù có cương trực thì cũng không có tội vì chỉ là theo cổ nhân thôi mà. Con tính làm như vậy, thầy nghĩ có nên không? Trọng Ni đáp: - Không. Biện pháp của anh nhiều quá mà không thông đạt. Anh chỉ tính làm sao cho khỏi bị tội, như vậy cảm hoá nhà vua sao được? - Con hết cách rồi. Xin thầy chỉ cho con có biện pháp nào nữa không? - Anh trai giới đi rồi thầy sẽ chỉ cho. Làm theo thành kiến mà dễ thành công là trái với lẽ trời.[10] - Nhà con nghèo, đã mấy tháng nay con không uống rượu, không ăn thịt, như vậy có thể gọi là trai giới được không? Trọng Ni bảo: - Đó là trai giới để tế lễ, không phải là trai giới của tâm (tâm trai). - Thưa thầy, thế nào là trai giới của tâm? - Anh tập trung tinh thần, không nghe bằng tai mà nghe bằng tâm, không nghe bằng tâm mà nghe bằng cái khí. Tai chỉ nghe được thanh âm, tâm chỉ lãnh hội được hiện tượng, khí vốn hư cho nên dung nạp được vạn vật. Đạo ở chỗ hư không, cho nên bảo “hư không” là trai giới của tâm. - Con khi chưa biết được sự trai giới của tâm thì chỉ cảm thấy có mình thôi, khi đã biết rồi thì không thấy có mình nữa[11]. Như vậy có phải là “hư không” không? - Phải, sự kì diệu của chỗ trai giới của tâm là như vậy đó. Thầy bảo anh này: anh có vô nước Vệ thì đừng nên động tâm vì danh lợi[12]. Vua Vệ có nghe lời anh thì anh hãy nói, không nghe thì anh đừng nói. Đừng cho họ thấy kẽ hở của mình, công kích được mình, cứ hư tâm mà đợi khi nào không thể không nói được hãy nói, như vậy là gần đạt được Đạo. - Đi mà không chạm đất là điều khó hơn không để lại một vết chân nào trên đất[13]. Giúp việc cho người thì dễ gian dối, giúp việc cho trời thì khó gian dối[14]. Thầy nghe nói có cánh thì bay được, chưa hề nghe nói không cánh mà bay được; nghe nói dùng trí tuệ thì đạt được tri thức, không nghe nói không dùng trí tuệ mà đạt được tri thức[15]. Từ cái hư không của tâm thần mà phát ra ánh sáng; cái phúc ở cả trong sự hư tĩnh của tâm thần. Tâm thần không hư tĩnh thì gọi là “ngồi mà dong ruổi” (toạ trì: thân thể ngồi yên mà tâm thần thì lang thang). Người nào có thể khiến cho tai, mắt thành những cảm quan hướng nội mà thông suốt, mà không dùng tâm trí, thì dù quỉ thần cũng phải qui phục, huống hồ là người? Đó là phép thích ứng với mọi biến hoá của vạn vật, cái nút, cái chốt của sự sáng suốt của ông Vũ, ông Thuấn, cái qui tắc xử sự xuất đời của Phục Hi, Kỉ Cừ[16] huống hồ là bọn người thường.2
Viên đại phu nước Sở họ Diệp [tên Chư Lương], hiệu là Tử Cao, sắp phải đi sứ nước Tề, lại hỏi Trọng Ni: - Vua Sở phó thác cho tôi một sứ mệnh quan trọng. Vua Tề đối với các sứ thần các nước ngoài thường tỏ ra rất cung kính, nhưng rốt cuộc chẳng chịu giúp gì cả. Thuyết phục một người thường đã là khó rồi, huống là một ông vua chư hầu. Tôi ngại quá. Thầy tướng bảo Chư Lương tôi rằng: “Việc bất luận là lớn nhỏ, ít có việc nào không gây tai hại[17]. Nếu không thành công, thì nhất định là chịu sự trừng phạt của người trên; nếu thành công thì chịu cái “hoạ của âm dương” [nghĩa là phải lo lắng, lao tổn tinh thần], bất luận là thành công hay không thành công mà không gây tai hại, thì chỉ bậc hiền đức mới được vậy”. Tôi bình thường ăn uống đạm bạc, không cầu món ngon, không cần phải giải nhiệt [vì không ăn những đồ bổ mà sinh nóng]. Vậy mà sáng được vua giao cho sứ mệnh thì buổi chiều tôi phải uống nước đá [nước đóng băng] vì lo lắng mà hoá ra nóng trong mình. Chưa thi hành sứ mệnh mà âm dương bất hoà như vậy, nếu sứ mệnh mà thất bại thì bị thêm hình phạt của vua nữa. Làm sao chịu nổi hai nỗi ưu hoạn đó? Làm sao trọn được đạo bề tôi bây giờ? Thầy có điều gì khuyên tôi không? Trọng Ni đáp: - Trên đời có hai luật chính là mệnh trời và bổn phận. Con yêu cha mẹ, đó là mệnh trời vì đó là thiên tính cố kết trong lòng đứa con. Bề tôi thờ vua, đó là bổn phận; bất luận thời nào, ở đâu, cũng bị sự thống trị của vua[18] không sao tránh khỏi được, cho nên đó là một luật lớn. Con thờ cha mẹ thì phải thích ứng với mọi hoàn cảnh, như vậy là chí hiếu; bề tôi thờ vua phải chấp nhận mọi sự nguy hiểm, như vậy là tận trung. Người nào làm việc hết lòng thì vui hay buồn cũng không đổi lòng. Biết rằng sự thể không thay đổi được mà an mệnh chấp nhận nó, như vậy là chí đức [có đức tuyệt cao]. Phận làm tôi, con, thế nào cũng có những điều không được như ý, phải miễn cưỡng làm tròn bổn phận mà quên mình đi, như vậy đâu còn tham sống sợ chết nữa? Ông cứ làm sứ mệnh được giao phó đi. Tôi đã được nghe điều này, xin kể lại: trong việc giao tế với nhau, nếu ở gần nhau thì do tiếp xúc hàng ngày mà tin nhau; nếu ở xa nhau thì chỉ căn cứ vào những lời trung thực của nhau. Những lời này do một người thứ ba truyền đạt. Truyền đạt những lời vui vẻ hoặc giận dữ của hai bên, là một công việc cực khó. Vì hai bên muốn làm vui lòng nhau thì họ tâng bốc nhau lên; nếu giận nhau thì họ không tiếc lời trách móc nhau. Cái gì quá mức tất không đúng sự thực, không làm cho người ta tin được. Người nào truyền đạt những lời gây lòng nghi ngờ thì tất gặp tai hoạ. Cho nên cách ngôn có câu: “Truyền những lời bình thường thôi, đừng truyền những lời quá lố, như vậy may ra bảo toàn được thân”. Như người đấu võ, mới đầu nghiêm chỉnh lắm, rồi sau mới dùng ngón ngầm, rốt cuộc sẽ dùng cả trăm quỉ kế để hạ đối phương. Người uống rượu mới đầu lễ độ rồi sau say sưa, hỗn loạn, hoá ra phóng đãng. Mọi việc đều như vậy: mới đầu nhã nhặn, rồi sau thô tục, mới đầu là chuyện nhỏ, sau thành đại hoạ. Lời nói như sóng gió, mà việc truyền đạt thì có đắc có thất (lỡ lời). Sóng gió dễ nổi lên, sự đắc thất cũng bất thường (như sóng gió) dễ sinh ra nguy hiểm. Sở dĩ người ta nổi giận vì những lời nói quá của người kia. Con thú bị dồn vào đường cùng, sắp chết, nổi giận hoá ra hung dữ với người thợ săn; kẻ dưới bị người trên đối xử hà khắc quá thì cũng bất giác nảy ra ý hãm hại người trên. Những ý nghĩ bất giác như vậy rồi sẽ đưa tới đâu? Cho nên cách ngôn có câu: “Đừng sửa đổi mệnh lệnh của vua. Đừng miễn cưỡng làm quá để thành công”. Cái gì vượt quá mức tức là quá độ[19]. Sửa đổi mệnh lệnh, miễn cưỡng làm quá thì sẽ hỏng việc. Cho nên giải pháp tốt nhất là phải thủng thẳng. Việc hỏng rồi khó sửa lại được. Vậy chẳng nên thận trọng ư? Nên vượt ra ngoài sự vật mà tiêu dao tự tại, thuận theo lẽ tất nhiên để dưỡng tâm, đó là đạt được Đạo. Ông không cần thêm ý kiến của ông, cứ làm theo lệnh của vua. Đó là một việc khó đấy[20].3
Nhan Hạp (một người hiền nước Lỗ) được vời làm sư phó cho thái tử của Vệ Linh Công, lại thỉnh giáo Cừ Bá Ngọc, bảo: - Có một người bản tính tàn bạo, hiếu sát, để cho nó làm theo ý nó thì tất hại cho nước tôi. Nếu ngăn cản nó thì nguy hiểm cho tính mạng tôi. Trí tuệ của nó chỉ đủ để thấy người khác lầm lỗi mà không hiểu tại sao họ lầm lỗi[21]. Đối với kẻ đó tôi phải làm sao bây giờ? Cừ Bá Ngọc đáp: - Câu hỏi của ông hay lắm. Ông nên cẩn thận, giữ gìn đừng lầm lỗi. Ngoài mặt nên nhã nhặn, thân mật, trong lòng nên hoà thuận. Như vậy vẫn có thể có tai hoạ được. Nhã nhặn, thân mật nhưng đừng nhu nhược [dung túng kẻ đó phạm tội]; lòng hoà thuận nhưng đừng phô trương. Ai nhã nhặn, thân mật tới nhu nhược, bị (kẻ ác) đồng hoá thì sẽ sa đoạ. Ai khoa trương sự hoà thuận là muốn cầu danh, mưu mô hại người[22]. Học trò ông còn là một đứa con nít thì ông cũng làm ra vẻ con nít như nó; nó hành động không có phép tắc, ông cũng làm bộ không giữ phép tắc với nó; nó phóng đãng, ông cũng làm bộ phóng đãng với nó; như vậy ông lần lần sửa đổi được nó. Ông có thấy con bọ ngựa đưa càng lên định ngăn chiếc xe không? Nó không thấy việc đó không thể làm được vì nó quá tự cao tự đại. Ông phải coi chừng đấy. Phải thận trọng. Nếu ông khoe tài ông mà xúc phạm học trò ông thì ông gần như con bọ ngựa đó. Ông có biết người ta nuôi cọp ra sao không? Người ta không dám cho nó ăn một con vật còn sống hoặc ăn trọn một con vật chết, sợ như vậy sẽ kích thích bản tính hung dữ hiếu sát của nó. Phải cho nó ăn đúng giờ, tuỳ theo nó vui vẻ hay hung dữ mà thuần phục nó. Hổ không cùng một loài với người, nhưng biết thuận theo tính tình nó thì nó cũng tỏ vẻ làm vui lòng người nuôi nó. Nó vồ người nuôi nó chỉ vì người này làm trái tính nó. Một người yêu ngựa tới nỗi dùng sọt hứng phân nó, dùng vỏ sò lớn hứng nước tiểu nó. Một hôm muỗi bu trên mình ngựa, người đó vô ý đập muỗi mạnh quá, ngựa kinh hoảng, cắn bể hàm thiếc, rồi làm nát đầu và ngực người nuôi. Bản ý người đó tốt mà bị hại như thế đấy. Vậy ông chẳng nên thận trọng ư?4
Một người thợ mộc tên Thạch, qua nước Tề, tới một chỗ tên là Khúc Viên, thấy trên nền xã (nơi tế thổ thần) có một cây “lịch”. Tàn lá nó che được cả ngàn con bò, vòng thân nó tới cả trăm vi[23]; nó cao như núi, lên khỏi mặt đất tám trượng rồi mới đâm cành. Có tới một chục cành lớn có thể khoét làm thuyền được. Người ta ùn ùn kéo nhau tới coi, nhưng người thợ cả không thèm ngó, cứ tiếp tục đi. Người học trò tập nghề nhìn cây ấy một hồi lâu lại nói với thầy: “Từ khi con theo thầy học nghề, chưa bao giờ con thấy khúc gỗ lớn như vậy. Tại sao thầy không ngừng lại coi? Người thợ cả bảo: - Thôi, đừng nói nữa. Cây đó vô dụng. Dùng để đóng thuyền thì thuyền chìm; để đóng quan tài thì quan tài mau nát; để làm cánh cửa thì cánh cửa thấm nước; để làm đồ dùng thì đồ dùng mau hư; để làm cột nhà thì cột nhà mau bị mối, mọt. Không dùng được việc gì cả. Chính vì nó vô dụng nên mới thọ được như vậy. Sau khi về nhà, người thợ cả nằm mê thấy cây của thổ thần đó hiện lên bảo: “Tại sao chú cứ so sánh như vậy? Chú muốn ta giống với những cây hữu dụng ư? Khi cây tra[24], cây lê, cây quất, cây bưởi có trái chín thì chúng bị tàn phá, cành lớn bị bẻ gẫy, cành nhỏ bị vặt trụi. Vì chúng hữu dụng nên khốn khổ suốt đời và chết sớm. Thế là tự chúng gây sự tàn phá cho chúng. Những vật nào hữu dụng cũng đều như vậy cả. Đã từ lâu ta cầu được vô dụng, mấy lần suýt chết, nay mới được như sở nguyện đấy. Sự vô dụng đó rất hữu ích đối với ta. Nếu ta dùng được vào việc gì thì làm sao sống lâu mà to lớn được như vầy? Chú và ta đều là sinh vật cả. Một sinh vật làm sao phán đoán được một sinh vật khác?[25] Một người vô dụng sắp chết như chú làm sao biết được thế nào là một cây vô dụng? Người thợ cả tỉnh dậy, kể lại giấc mộng cho học trò nghe. Người này hỏi: - Cây đó đã cầu được vô dụng, thế thì tại sao lại làm cây tượng trưng thổ thần? Người thợ cả đáp: - Im đi, đừng nói nữa. Nó tạm dựa vào thổ thần như vậy để những kẻ không hiểu nó khỏi chê nó là vô dụng. Nếu nó không tượng trưng cho thổ thần thì bị người ta đốn rồi còn gì? Cách tự bảo toàn của nó thật khác thiên hạ; lấy thường tình mà chê trách nó, chẳng là sai lầm quá ư?5
Nam Bá Tử Kì tới đồi Thương, thấy một cây lớn lạ lùng, tàn nó có thể che cả ngàn cỗ xe bốn ngựa. Ông ta tự hỏi: - Cây này là cây gì? Nó dùng được vào việc gì không? Từ dưới nhìn lên, những cành nhỏ cong queo của nó không thể xẻ thành cái đòn, cái rường nhà được. Ngó xuống, cái thân to lớn nứt nẻ, đầy mắt của nó không làm quan tài được. Liếm lá của nó thì miệng sẽ loét lỡ. Nó hôi thúi, chỉ ngửi thôi cũng hoá điên, mê sảng suốt ba ngày. Rồi Tử Kì tự kết luận: - Cây đó thật vô dụng cho nên mới lớn được như vậy. Bậc thần nhân cũng cầu được bất tài như cây đó.6
Nước Tống, ở một nơi tên là Kinh Thị, mọc nhiều cây thu, cây bách, cây dâu. Những cây mà thân vừa một chét tay, thì bị đốn làm cọc cho khỉ. Những cây vừa một ôm thì dùng làm rường cột cho những nhà lớn. To hơn nữa thì khoét làm quan tài cho những thương gia giàu có và các nhà sang trọng. Vì vậy mà những cây đó bị búa rìu đốn, không hưởng hết tuổi thọ. Vì chúng hữu dụng nên mới bị hoạ. Thời xưa, bọn thầy pháp không dùng con bò trán trắng, con heo mõm cong, và đàn ông bị bệnh trĩ liệng xuống sông để tế thần, vì cho như vậy là bất tường. Nhưng chính thần nhân thì lại cho vậy là đại cát.7
Xưa có một người hình thù kì quái: cằm thòng xuống tới dưới bụng, vai nhô lên khỏi đỉnh đầu, xương sống đưa lên trời; ngũ tạng [tức tâm, can, tì, phế, thận] nằm lộn ngược lên phía trên [trong ngực], hai đùi đưa lên tới ngang sườn. Hắn may vá, giặt dịa cho người khác, đủ ăn. Hắn vét hột trong các thùng lúa đủ nuôi mười người[26]. Khi có lệnh trưng binh, hắn khoanh tay mà đi thong dong trong đám đông. Khi có lệnh bắt xâu, hắn được miễn vì tàn tật. Khi nhà nước cứu giúp các người tàn tật thì hắn được ba chung[27] lúa và mười bó củi. Một kẻ hình thù kì quái mà tự túc được và hưởng hết tuổi thọ của trời, huống hồ là người làm bộ có đức tính kì quái.8
Khổng tử qua nước Sở. Một người cuồng nước Sở là Tiếp Dư[28] tới trước nhà Khổng tử, hát: Con phượng kia, con phượng kia,Sao mà đức suy như vậy?Không thể biết trước[29] được tương lai,Không thể trở lui được về dĩ vãng.Khi thiên hạ thịnh trịThì thánh nhân thực hiện sứ mệnh mình.Khi thiên hạ loạn lạcThì thánh nhân bảo toàn thân mình.Như thời này thì chỉ cầu đừng bị hình phạt.Hạnh phúc nhẹ hơn cái lôngMà không biết ai biết nhận lấy nó.Tai hoạ nặng hơn trái đấtMà không ai biết tránh nó.Thôi đi, thôi đi! Đừng mong lấy đức cảm hoá người.Nguy thay, nguy thay! Đừng tự làm khổ mình nữa[30].Gai góc, gai góc! Đừng ngăn bước đường của ta[31].Đi vòng, đi vòng quanh, đừng để gai đâm vào chân.9
Cây trên núi tự rước lấy búa rìu vào thân; mỡ tự dẫn lửa nên phải cháy; cây quế ăn được nên bị lột vỏ, cây sơn nhựa dùng được nên bị rạch vỏ. Ai cũng biết chỗ dùng được của vật hữu dụng, mà không biết chỗ dùng được của cái vô dụng. Vương Tiên Khiêm tóm tắt ý nghĩa chương này như sau: Nhan đề “Nhân gian thế” có nghĩa là “dương thế” [tức xã hội thời đại Trang tử]. Thiên này[32] bảo: Phục vụ một ông vua bạo ngược, sống trong cái xã hội loạn lạc, ô uế, giao thiệp với người khác, tiếp xúc với sự vật, đừng nên cầu có tiếng tăm mà nên ẩn danh, che giấu bớt đức hạnh của mình đi, như vậy mới bảo toàn được tính mạng và đạo của mình. Cuối thiên, Trang tử mượn lời của Tiếp Dư: Không thể biết trước được tương lai,Không thể hối tiếc được về dĩ vãng. để bày tỏ lòng mình… Bài 1 chỉ cho ta phép can gián: phải hư tâm, đừng tranh thắng, khi nào không thể không nói được thì hãy nói. Bài 2 chỉ cách đi sứ, nói rộng ra là cách giao tế: chỉ truyền lại những lời bình thường của người khác thôi, bỏ đi những lời quá lố, làm đúng việc người ta giao phó cho, nhưng đừng mong thành công mà làm quá, như vậy thì may ra bảo toàn được thân. Bài 3 chỉ cách dạy người: phải thuận theo thiên tính của họ, như nuôi cọp thì phải để ý tới tính hiếu sát của nó mà đừng xúc phạm nó. Từ bài 4 trở đi – trừ bài 8, bài người cuồng nước Sở khuyên Khổng tử - bài nào cũng diễn ý này: muốn bảo toàn được thân thì che giấu tài đức của mình đi, kẻ vô dụng, tàn tật lại là kẻ sống yên ổn nhất. Tóm tắt cả chương chỉ dạy ta cách bảo toàn được thân trong thời loạn. Thâm thuý nhất là câu cuối của chương: “Nhân giai tri hữu dụng chi dụng, nhi mạc tri vô dụng chi dụng dã”[33]. Về sự chân nguỵ trong chương này, xin coi phần I, chương II – Nên so sánh chương Nhân gian thế này với chương Sơn mộc, phần III. Chú thích:[1] Dịch sát là: cửa nhà thầy lang thì có nhiều bệnh nhân.[2] Tức hạng đạt Đạo, đức rất cao.[3] Nguyên văn: phi sở dĩ tận hành dã – Có sách dịch là không làm tiêu chuẩn cho phép xử thế được.[4] L.K.h dịch là: nếu anh không có gì để can gián thì vua Vệ sẽ thấy anh làm thinh mà tỏ rằng ông ta thắng anh. [5] Tỉ Can là chú ruột của vua Trụ, cũng là con vua, nên gọi là Vương tử.[6] Bài II.9 chép là Tông, Khoái (2 nước).[7] H.C.H. dịch là: sao có thể dùng đức lớn mà cảm hoá ông ta được?[8] L.K.h. dịch là: nếu bề ngoài anh cúi đầu trước mặt ông ta mà trong lòng không chỉ trích ông ta thì có ảnh hưởng gì tới ông ta được.[9] Nội trực, ngoại khúc nghĩa là bề ngoài chiều đời, nhưng trong lòng vẫn giữ chủ trương của mình.[10] Câu này mội sách giảng một khác. L.K.h. dịch là: kẻ nào có thành kiến thì chẳng thấy công việc của mình dễ dàng ư? Trời rực rỡ không hợp với kẻ đó (!)[11] L.K.h. dịch khác: Con chưa đạt được cảnh giới hư không ấy nên con vẫn còn là Nhan Hồi. Nếu con đạt được thì con sẽ không còn là Nhan Hồi nữa.[12] L.K.h. dịch là: Nếu anh gặp được vua Vệ thì đừng động tâm vì địa vị của ông ta.[13] D.N.L. và H.C.H đề dịch: không đi trên đường là điều dễ, đi mà không để một vết chân trên đất là điều khó. Nguyên văn: tuyệt tích dị, vô hành địa nan.[14] H.C.H. dịch là: Làm việc người thì dễ, vô tâm mà thuận theo tự nhiên là khó. D.N.L.: Ở đời mà có thành kiến thì dễ làm bậy, không có thành kiến thì khó làm bậy.[15] Nguyên văn: Văn dĩ hữu trí trí giả hĩ. Chữ trí (trí tuệ) ở đây có lẽ nên hiểu là trực giác. Khi mình đã hư tâm được rồi. [16] Đời thượng cổ Trung Hoa không có ông vua nào tên là Kỉ Cừ, cho nên Văn Nhất Đa, một thi sĩ kiêm học giả hiện đại, cho hai chữ Kỉ Cừ là Nhân Toại, mà Nhân Toại là Toại Nhân (người đầu tiên dạy cho dân tộc Trung Hoa dùng lửa) viết ngược.[17] Nguyên văn: quả bất đạo, dĩ hoan thành. Mỗi sách giảng một khác. L.K.h.: nếu không theo đạo mà thành công thì rất ít việc, không sinh ra ân hận sau này. Lại có sách chú giải: rất ít việc không làm đúng theo đạo mà rồi vui vẻ thành toại được. Chỉ vì chữ hoan đọc là hoan thì có nghĩa là vui vẻ, mà đọc là quan thì có nghĩa là lo lắng.[18] L.K.h. dịch là: kẻ bề tôi ở đâu cũng không quên vua được.[19] Nguyên văn: quá độ dật dã. Có sách bảo chép lộn, phải đọc là: quá độ ích dã, và có nghĩa là: Quá độ là làm tăng mệnh lệnh của vua.[20] Đoạn này thực tối nghĩa. Mỗi sách giảng mỗi khác.[21] Nguyên văn: bất tri kì sở dĩ quá. D.N.L. và H.C.H đều dịch là: không thấy lỗi của chính mình.[22] Có bản dịch là: khiến cho người ta tranh danh dự với mình, mà mưu mô làm hại mình. Nguyên văn: vi thanh vi danh, vi yêu vi nghiệt.[23] Một vi là mười trượng, như vậy là ngàn thước, tức 1.000 x 0,2m: 200 mét ngày nay![24] Một loại như cây lê.[25] Nguyên văn: nại hà tai? Có sách dịch là: Sao chú lại muốn dùng ta?[26] D.N.L. và H.C.H. đều dịch là làm nghề bói và đoán số mệnh mà nuôi được mười người.[27] Chung là một đơn vị bằng 6 hộc 4 đấu (mỗi hộc là 10 đấu)[28] Tiếp Dư: coi bài 3 chương I.[29] Có sách dịch: đợi được, hoặc trông cậy được.[30] Dịch cho sát là: vẽ một vòng tròn trên đất rồi nhảy vào đó mà đứng. L.K.h. dịch là: lựa một nước để phụng sự.[31] Nguyên văn: vô thương ngô hành. Có sách chú giải chữ hành đó là đầu hay gót chân.[32] Tức chương này.[33] Chữ Hán: 人皆知有用之用, 而莫知无用之用也. Chữ giai 皆 có nghĩa là đều, cùng; trong sách in là dai – [Goldfish]