Dịch giả: Huỳnh Phan Anh
Chương 4

Ngày lại ngày
Họ tắm vào buổi trưa. Pierre trở lại dùng bữa trưa tại trang viên. Vào khoảng xế chiều, nếu không trở ra bãi thì cả ba cùng dạo chơi ngoài đồng hoang, lúc nào cũng đủ bộ ba với nhau, và rồi giữa đám dương xỉ đã nhuốm màu nâu sẫm dưới nắng hè, con đường mòn nhỏ hẹp của những nhân viên thuế quan sẽ đưa họ về một mũi đất nào xa lạ. Olivier, tiếp đến là Anne, rồi Pierre, họ bước đi ở phía trên mặt biển phẳng lỳ như đông lại dưới ánh mặt trời, sau đó, vào buổi chiều, cũng con đường đó đưa họ trở về, bước chân họ giờ đây ngưng đọng, lặng lẽ, khuôn mặt họ giờ đây cúi xuống trong dáng điệu trầm tư. Vẫn Olivier, tiếp đến là Anne, rồi Pierre, họ bước về phía hàng rào trắng, nơi họ chia tay nhau. Kể từ khi Louise, người giúp việc trong gia đình Androuze trở về từ Quimper sau khi ở lại trong gia đình tám ngày, Anne có thể dùng cơm tối gần như mỗi ngày tại nhà Pierre. Buổi chiều, Olivier một mình ngồi đợi cô trong phòng khách, vừa lần giở những trang sách đã đọc vừa nghe ngóng niềm lặng thinh bát ngát của miền thôn dã chìm đắm trong bóng đêm bấy giờ chỉ còn có tiếng chó sủa đáp lại từ đâu đó. Bỗng một tiếng động, dịu nhẹ và đều đều, khẽ vang lên, rõ dần trong tiếng lạo xạo của đá sỏi, rồng trong một phút giây thần kỳ, tất cả đều ngưng bặt, và tức thì cô đã đứng đó, trong vùng ánh sáng, và lúc bấy giờ chỉ có giọng nói của cô lấp đầy gian phòng
- Anh vẫn còn thức đấy à?
- Anh đã đợi suốt ba tiếng đồng hồ để được nghe mỗi một câu đó
Thỉnh thoảng họ vẫn kéo nhau đi thưởng thức các món ăn ở Brest, đúng hơn, họ dẫn Anne đi thưởng thức. Gần như lúc nào cũng vậy, Anne luôn đòi ăn bánh mứt và bánh kem trong khi họ uống bia Đan Mạch. Đôi khi họ rủ nhau đi ăn bánh tráng, những chiếc bánh dày, béo, giòn tan, tại nhà những người nông dân quen biết với họ, gia đình Kervélegan, Pérec hay Le Gallois. Sau đó họ lần bước trở về, đi dọc theo những con đường trồng táo tây hai bên. Họ dừng bước trước hàng rào muôn thưở. Và rồi anh nhìn họ sánh bước đi xa dần, xa dần khỏi chỗ đứng của anh, anh tiếp tục đứng lặng bên hàng rào, nghe tâm hồn mình tan nát trong cái ảo tưởng chia ly, ngăn cách
Một buổi chiều anh đi ngược lên con đường dốc sau khi nhìn theo bóng họ đã khuất xa, anh chợt nghe tiếng đàn ghi - ta vọng ra từ cửa sổ phòng khách. Hẳn nhiên là Berthe đang nghe radio. Anh dừng bước. Từ một cánh đồng lân cận, người ta đang đốt cỏ khô, làm tỏa ra một vùng sương lam dịu dàng gợi nhớ bầu trời tháng chín. Rồi bát chợt anh trông thấy rõ mồn một hình ảnh những buổi chiều tháng chín ở Paris, những buổi chiều tháng chín nhuốm một màu xanh lơ mát dịu, với những tia nắng hấp hối của mùa hè chỉ còn giữ lại cái vẻ êm ái, dịu dàng của những sợi lông mi, khi mặt trời đã lặn khuất sau cánh rừng của hạt Sèvres khi những ngọn đèn trên cầu, trên những khung cửa tò vò của xưởng Renault, trên những khung cửa sổ bên kia sông, tát cả chưa bật sáng, và những vì sao cũng chưa mọc, lúc bấy giờ tất cả đều đã tàn lụi, tan biến và kỳ lạ thay, tất cả lại bàng bạc trong một thứ ánh sáng hiền hòa, anh thấy cả người đàn bà mặc áo cánh đỏ đang phơi áo trên chiếc thuyền buồm trong lúc những tay vợt cuối mùa từ Boulogne trở è. Gần đến bảy giời, chiếc cầu cạn như hổn hển, như run rẩy, một cái gạt tàn nhích động trên lớp đá hoa của lò sưởi, các khung kính rít lên. Nhưng mà liền tức thì sau đó, vẻ êm dịu nồng nàn của ánh sáng quyện lấy anh và nhận chìm tiếng bẻ ghi tên đường xe lửa, khói bụi, tiếng xe chạy vụt qua ngã tư, tiếng động cơ của chiếc xà lan... Và trong những buổi chiều xanh lơ của tháng chín kia, bỗng đâu anh thấy hiện lên một buổi chiều, buổi chiều sau cùng, buỏi chiều độc nhất, khi anh đứng tựa lưng vào chấn song, nhìn họ bước lên chiếc xe bốn ngựa màu xám, mặt họ còn ngoảnh lại, mờ dần trong khoảng cách, chiếc xe dị hình với những chiếc va - li trên mui, nhỏ dần, tới khúc quanh, và lúc bầy giờ trời gần như đã vào tối, anh sẽ trông thấy đèn thắng xe sáng lên, lấp lánh và sau cùng biến mất; bấy giờ anh sẽ lững thững bước lên phòng mình, anh sẽ đi rảo qua các phòng khác, thăm hỏi từng món đồ vô tri vô giác, một cái thắt lưng màu trắng, một cái xuyến cũ, một chiếc khăn quàng, và chỉ lúc đó anh mới nghe được những tiếng động đã bị khuất lấp trong những cơn dao động, xao xuyến của chuyến lên đường - tiếng mở cửa, tiếng va - li đóng lại, tiếng gọi, tiếng chân bước lên và bước xuống cầu thang bốn bậc một, "Mẹ ơi, mẹ để giấy thông hành của con ở đâu?". "Con làm gì với đôi giày này, con không mang chúng theo à?" Lúc đó anh sẽ mường tượng lại khuôn mặt nhỏ nhắn của cô đã mệt lử vì buổi lễ thành hôn nơi giáo đường, bữa ăn, buổi tiếp tân cùng những tiếng cười nói, khuôn mặt đăm chiêu với bao ý nghĩ, bao điều lo toan về cuộc sống vật chất trong đó không có anh, với đôi mắt vừa phấn khởi vừa mệt mõi lướt qua lướt lại trước anh nhưng vẫn không thấy anh, rồi lúc bấy giờ anh cảm nhận, dưới làn môi của mình, chiếc má cô giơ ra dưới dường thật nhanh khiến anh không tài nào ý thức kịp và nghĩ tới việc lưu giữ trong ký ức mình cải cảm giác êm đềm nó mang tới, và anh cũng không thấy con mèo nhún mình nhảy phó lên bao lơn chiếc cầu. Tuy nhiên, hương vị của chiếc hôn kia cùng hình ảnh con mèo, chi tiết nhỏ nhặt của phút giây đó, rồi sẽ chợ trở về trong trí tưởng của anh để không bao giờ tan biến đi được. Sát bên bức vách kia một chiếc va - li của cô vẫn mở, một tiếng đồng hồ trước đó, chỉ một tiếng thôi, cô vẫn còn đó, và anh có thể đặt một ngón tay trên bàn tay cô, đặt một bàn tay lên mái tóc cô, anh có thể nói để cô trả lời, gọi tên cô để cô quay lại nhìn anh. Phía dưới, trong phòng ăn, những miếng bánh sandwich ăn đượ nửa còn nằm ê hề trong những cái dĩa, những hạt ô - liu, những mảnh giấy. Làn khói của một điếu thuốc bỏ quên sẽ dịu dàng bay lên ở một nơi sấp bóng, những dấu son môi sẽ còn in trên những cái cốc
°
Ngày lại ngày, Olivier một mình tìm kiếm những trò giải khuây, chọn lựa những địa điểm dạo chơi, khám phá những xóm làng heo hút, những bãi biển đìu hiu. Anne vẫn thường dùng cơm chiều tại nhà Pierre, nhưng càng lúc họ càng ít có dịp gần nhau. Có khi, ngay lúc chín giờ, Olivier trông thấy họ trở về trang viên trong niềm lưu luyến lạ kỳ, chẳng khác gì những đứa trẻ sợ sệt cả sự tự do người ta ban bố cho chúng. Khi họ đẩy cửa phòng khách bước vào, bắt gặp anh đang ngồi đọc sách, khuôn mặt họ chợt sáng lên và họ thở ra nhẹ nhõm, như thể họ chỉ chịu đựng được cuộc gặp gỡ riêng tư với nhau để sửa soạn cho nỗi thich thú bất chợt, nỗi sung sướng và sự giải thoát lẫn nhua khi gặp lại anh. Một vài lần anh tìm cách lánh mặt trước khi họ trở về, anh đi lang thang trên những nẻo đường xa lạ, tắm gội dưới ánh trăng xanh, tưởng kéo dài đến vô tận. Anh bước mãi, càng lúc càng lãng quên lối về trang viên, nơi họ đang mõi mắt đợi anh, anh bước đi với nỗi lòng đày ải. Càng nôn ngao trong ý nghĩ tháo lui, anh lại càng tiếp tục lẩn trốn về phía trước như môt con vật mù quáng. Bình sinh anh vẫn thích niềm khoái cảm đầy tự phụ trong sự thôi thúc chính mình hơn là bằng lòng với niềm vui của sự nhượng bộ, gần như luôn luôn anh nhượng bộ trong cơn mê hoặc đầy choáng váng này: anh đề kháng như người ta bị đè bẹp
Họ đang ở dưới kia, cô đang ở dưới kia. Họ đợi anh, rình rập từng bước chân của anh, có thể họ bắt đầu lo âu cũng không chừng...
°
Một buổi sáng, anh lên đường đi Brest để mua những chiếc bông tai bằng bạch kim. Trong lúc ăn tráng miệng, anh đem chúng ra tặng cho nàng, ngay trước mặt mọi người
- Kìa, Olivier! Nhưng mà tại sao vậy?
- Thánh Anne đó, anh nói, mắt nhìn lãng đi khỏi chỗ Pierre
- Thánh Anne à? Em cũng chẳng nghĩ tới điều đó nữa
- Không ai nghĩ tới điều đó cả! Berthe nói
Anh đã lặng người đi một hồi lâu trong cơn dao động ray rứt. Người ta nghe rõ cả tiếng ruồi bay. Pierre đưa tay đập nhẹ vào má
- Những con ruồi chúng làm sao hôm nay vậy kìa!
- Có lẽ là tại anh thu hút chúng đó, Anne nói
Hắn đứng dậy, bên má còn lại của hắn cũng đỏ rần, hắn nhìn vào hai lòng bàn tay xòe ra, một nụ cười gượng gạo khiến cho khuôn mặt hắn trở nên nhăn nhó
- Mình làm gì buổi xế chiều hôm nay đây? Hắn nói
°
Vào buổi xế chiều, lắm khi họ kéo nhau đi đánh quần vợt. Nàng vừa đi trước anh, bên cạnh Pierre, vừa cầm cây vợt lơ đãng nhịp vào mắt cá theo từng bước chân đi. Những con ong vờn bay, va vào lưới sắt, vài chiếc lá khô đáp xuống nền ciment, mặt biển xanh ngắt, một mình anh đánh với hai người bọn họ. Pierre phóng người lên mặt lưới, nhận một trái banh vào ngay mắt và buông vợt, đi tìm nước uống; Olivier, mặt mày nóng bưng, uống một hơi cạn chai nước. Nàng trao chai nứoc của nàng cho anh: "Anh uống nữa không?"
Bận về, Pierre và Anne vừa đi vừa thì thầm to nhỏ trước mặt anh. Cô cất giọng cười rất dịu dàng. Oliver thoáng nghe: "... Sao anh buồn bã vậy?", đoạn, "Anh nhất định kh6ng thay đổi bao giờ hết à?" Buổi chiều hôm đó, nàng đứng bên bờ rào, đợi Pierre lên tiếng hỏi nàng có đến dùng cơm chiều với hắn hay không, hoặc cho biết hắn có đến trang viên tìm cô vào khoảng chín giờ hay không. Nhưng mà hẵn vẫn tiếp tục siết chặt bàn tay cô, thì thầm một lời nói giã từ, mắt nhìn xuống, đoạn quay lưng tức thì. Một con gà điên cất cao tiếng gáy. Em không lên tiếng goi hắn lại, em cũng không nhìn hắn bước đi, em lặng lẽ trở lại trang viên với anh, trên con đường có những cây sồi bị gió thổi ngã, mùa đông, những trái cây rừng kia, em vẫn lầm tưởng, vào những ngày còn nhỏ, đó là những hạt dẻ, em còn nhớ, bây giờ, chúng ta có trọn một buổi chiều cho riêng chúng ta, cho riêng hai đứa mình, chiều xuống và anh tưởng chừng ngày mới bắt đầu - bắt đầu cho riêng ta, riêng hai đứa mình đó, Anne!
Ngày tháng trôi qua, trôi qua mãi, ôi những ngày tháng ngất ngơ, bàng hoàng. Những buổi sáng Chúa Nhật, anh vẫn đến đón nàng xem lễ ra. Anh luôn đến trước, đứng đợi bên ngoài, và khi tiếng đàn armoniom ngừng bặt, anh nghe tiếng đồng nội, tiếng côn trùng rên rỉ, tiếng cỏ cây dao động. Và rồi dưới vòm cổng hình trái oan nơi anh đang lần bước tiến tới, hình như dang rộng mãi trong một màu xanh mát dịu. Dưới chiếc cổng chính bằng cây sơn đỏ đóng đầy đinh, thánh Joseph đang bồng hài nhi Jesus trong đôi tay. Một cọng rêu màu xanh dợt mọc lên trong kẻ đá. Sau cùng, người ta mở cổng chính, một bà già nhỏ thó mặt mày hớn hở đang ngập ngừngg trên những bậc cao, tiếp theo là hai người nhà quê mặc đồ nhung, tiếp theo nữa là cả một gia đình ăn mặc chình tề với những đứa bé và những lão già với nhiêu khuôn mặt khác nữa, những khuôn mặt lúc nào cũng vui tươi, mởi mẻ, hiện ra từ những khoảng mờ tối bên trong, cho tới khi, sau cùng, cô xuất hiện, với bao tay và khăn quàng màu trắng, tay cầm cuốn sách lễ cũ kỹ, đôi mắt cô ánh lên trên khuôn mặt rạng rỡ, rồi cô đứng lăng yên trong giây phút dưới vòm cổng đảo mắt ngó quanh, tìm kiếm, và bắt gặp ngay cái nhìn run rẩy của anh dưới anh sáng mặt trời, nàng mỉm cười. Họ cùng nhau trở về nhà bằng xe, và trước khi chạy ngang nhà Pierre, họ ngừng lại bên lề đường để được "bơi trong đám dương xỉ", như họ vẫn gọi từ những ngày thơ ấu; cô chạy tung tăng, hai tay giữ mãi cái thói quen của những ngày Chúa Nhật vui đùa hớn hở, và khi cô từ biển cỏ trở lại tìm anh, đôi khi anh đã không ngần ngại nhấc cao người cô trên hai cánh tay và quay tròn cô trong gió, cho tới khi cô giàn giụa nước mắt. Và rồi em nhớ không, khi anh đặt em trở xuống đất, em choáng váng tựa người lên vai anh, rồi lảo đảo bước đi, đê mê trong cơn xây xẩm, trong lúc anh đang đợi em bên xe, hai cánh tay dang rộng