BẮT ĐẦU VÀ KẾT THÚC (TT)
MỘT CUỘC CHIẾN... THẢM BẠI

Với giới văn hóa văn nghệ, việc chia ngôi vị trong cuộc “xuống cấp bắt buộc” này diễn ra có phần êm ả nhưng không kém...bi hài! Bộ trưởng Lưu Hữu Phước, một nhân vật tên tuổi và nhiều công trạng, đành chấp nhận cái ghế của một cơ quan tự ông “nặn” ra là “Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Thành Phố Hồ Chí Minh” trực thuộc Viện Nghiên Cứu Âm Nhạc Trung Ương, một cơ quan đã có đầy đủ, thậm chí thừa viện trưởng, viện phó, viện sĩ ở Hà Nội! Chẳng lẽ lại là... “Phòng Nghiên Cứu Âm Nhạc” để rồi trực thuộc... sở Văn Hoá của ông Dương Đình Thảo hay sao? Trường hợp “Trường Quốc Gia Âm Nhạc”, trong tay toàn những anh có bằng cấp từ Liên Xô mới về, dân miền Nam cả đấy nhưng phải cái “tội” chẳng một ngày có mặt ở Rờ... cũng “tình nguyện” được trực thuộc Bộ Văn Hoá và cũng tự đặt tên là “Viện Âm Nhạc” luôn!
Cả nước lúc này có đến 5 cái viện âm nhạc!
Sự sắp xếp lại các tổ chức văn học nghệ thuật khác diễn ra khá êm xuôi. Đứng đầu giới văn thơ chẳng ai có thể hơn hai ông Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng. Đứng đầu giới nhạc sĩ đố ai dám phủ nhận ông Xuân Hồng! Hội điện ảnh đã có các ông Mai Lộc, Hồng Sến…Rặt các vị ở Rờ về, đầy đủ tài năng, tên tuổi, thành tích, nhất là có thừa khả năng “hoà hợp” với anh chị em “tại chỗ”.
Hàng loạt các vị miền Nam chính gốc hoặc Rờ chính gốc nhưng là dân Bắc Cờ, thì tự nguyện rút lui để củng cố gia đình, thu vén cho tương lai, “trả thù cái quá khứ quá gian khổ”, hoặc tự nguyện trở về miền Bắc! Nhiều vị đau quá phát khóc, ra tận trung ương cầu cứu hoặc tố cáo cái sự quá đà, à uôm của cơ cấu văn nghệ Sài Gòn...
Thương tình các vị này không có chỗ, người ta đặt thêm một tổ chức ngang hàng và trùng tên với trung ương là “Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh” dành cho các vị “ở thì...bi mà đi thì...nhục”.
Riêng giới nhạc, người ta không tin ai, không biết giao nhiệm vụ lãnh đạo cho ai thật sự có uy tín sau hai vị Xuân Hồng và Hoàng Hiệp...nên tăng cường một nhà thơ. Đó là nhà thơ nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền. Để trang hoàng cho cái bề mặt đoàn kết của Hội, người ta gọi về một “tên tuổi lớn” lúc này đã bỏ Sài Gòn về quê là Trịnh Công Sơn. Thêm một vị có đi Tây (Pháp) học nhạc, biết đánh piano (kẻo ai dùng chiếc Yamaha M.I đặt ở trụ sở?) là Phạm Trọng Cầu đang ở biên chế trường nhạc “ngụy”. Bộ năm này đủ sức tồn tại cho đến ngày bốn vị lần lượt... qua đời và một vị... bị trời hành, bắt... nằm im tại chỗ!
Chỉ tội cho Phan Huỳnh Điểu, một nhạc sĩ Rờ chính gốc nhưng lại là “Rờ...miền Trung”, vào Sài Gòn ngay từ ngày đầu giải phóng nhưng chẳng ai công nhận, chẳng thuộc biên chế nào dù ăn lương của Hội Trung Ương, thậm chí chẳng được mời họp hành gì với lý do “Để ông ấy về Đà Nẵng vì ngoài đó đang cần người như ông ấy”!
Trở về Trung Ương sau ngày thống nhất là cuộc rút lui trong trật tự và đẹp mặt nhất. Đó là con đường danh dự của hàng loạt các vị “không Nam”, “không Rờ”, nhưng quá tin vào ảo tưởng giống như tôi. Họ không ngờ chính miền Nam sau này sẽ “làm lại” văn nghệ miền Bắc! Họ cũng không ngờ dưới sự lãnh đạo tài tình của mấy ông lãnh đạo văn nghệ miền Nam, chỉ trong vài năm tồn tại đã ra đời hàng loạt tác phẩm văn học ba xu với những cái tên tác giả lạ hoắc. Hàng loạt những bộ phim “mì ăn liền” bắt chước đấm đá Hồng Kông, hàng loạt những gallery tranh bờ hồ, tranh ai vẽ cũng được, tranh “cởi truồng mỹ thuật” đến thô bỉ đều được... hoà hợp ra đời, thậm chí có cả một cuộc thi sáng tác tuyên bố trên báo “không dính dáng đến chính trị, không kể cách mạng hay không cách mạng, không kể dân tộc hay không dân tộc”... miễn hay là được!
Còn hàng loạt vấn đề mà Đảng Cộng Việt Nam suốt bao năm giáo dục văn nghệ sĩ thì...chính các tờ báo của “Đảng Xè Gòn”, “Đoàn Sài Gòn” qua những “tuyên ngôn nghệ thuật”, hùa nhau phủ nhận thẳng thừng! Các chuyện đau lòng trong đời sống văn hóa và xã hội thời kỳ “đổi mới” và “hậu đổi mới” chính là những khối u ác của văn hóa Việt Nam phát sinh từ một thể chế hoàn toàn thiếu bác sĩ tài giỏi và thừa...“lang băm”! Nó cũng phản ảnh thực trạng một xã hội mà trong đó kẻ cầm cân nảy mực chẳng thằng nào phục thằng nào, chẳng ai nghe ai ngoài nghe cái lợi và quyền của cá nhân mình. Chẳng có phe cộng sản tiến bộ hay phe cộng sản bảo thủ mà chỉ có sự phân hoá của một bọn ngu si, cơ hội cạnh tranh nhau, triệt hạ nhau để làm vua, làm lãnh chúa mỗi vùng mà thôi!
Cái cơ quan trung ương không ra trung ương, miền không ra miền, địa phương không ra địa phương của tôi, từ một cơ quan trực thuộc ban Tuyên Huấn Trung Ương Cục miền Nam (có dấu hình chữ nhật!) nay nếu trở về với trung ương, tức là trực thuộc Ban Tuyên Huấn Trung Ương mà chính Ban này không có cơ quan trực thuộc nào to đến thế, câu hỏi muôn đời “tồn tại hay không tồn tại” của Hamlet được đặt ra rõ như ban ngày.
Tuy nhiên, tư tưởng biến các cơ quan Sài Gòn thành cơ quan ngang hàng thậm chí còn to hơn cả trung ương không phải là không có trong các vị chóp bu của miền Nam mới “giải phóng. Ban tuyên huấn thành uỷ lập tức cho lập một nhà xuất bản trực thuộc mình có tên Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, với giám đốc là một vị chánh văn phòng trung ương cục, ông Tân Đức, người chưa một ngày làm nghề xuất bản! “Nhà xuất bản Giải Phóng”, mặc nhiên đi theo tổ chức trung ương cục vào... dĩ vãng!
Đảng Sài Gòn chẳng mấy khi được dịp “trả cho trung ương những cái gì là của trung ương” mà không sợ mang tiếng “kỳ thị Bắc Nam”! Giữa lúc chính ngay bộ và trung ương chưa biết sắp xếp, tổ chức các thứ cơ quan kèm theo hai chữ “giải phóng” này nọ do chính mình bày đặt ra như thế nào cho ngon thì ở Sài Gòn... lương bổng, kinh phí hoạt động, xăng dầu cấp phát bị thẳng tay cắt cái rụp!
Khi đó, các cơ quan mới thành lập của riêng Sài Gòn mọc lên ào ào, to hơn, đông hơn cả các cơ quan Miền ngày truớc! Đặc biệt là sau bao năm nằm hầm, chạy B.52, lần đầu tiên chính thức làm công chức ăn lương Nhà Nước, anh nào anh nấy đều “phóng” nhau lên các chức vụ, các bậc lương tối đa! Một anh mới cán sự 4 bỗng nhận trách nhiệm giám đốc với số lương ngang thứ trưởng. Ông Tân Đức giám đốc nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh thì lương ngang bộ trưởng và hơn bộ trưởng ở miền Bắc về những chiến lợi phẩm nổi và... chìm. Một xe hơi Mỹ 8 máy với một chú lái riêng, một villa sang trọng với đầy đủ của nổi, của chìm của một ông tai to mặt lớn “ngụy” nào đó bỏ chạy vào giờ cuối cùng cuộc chiến. Riêng bà vợ cũng ở Rờ về với cương vị chủ tịch Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thành Phố, tiêu chuẩn chẳng thua gì chồng. Cũng một xe hơi, một lái xe riêng, cũng lương ngang bộ trưởng! Hai chú lái xe chỉ có một việc là hàng ngày đưa rước quan ông, quan bà đi “làm cách mạng” ở một nơi không cách đường Bùi Thị Xuân quá...2 cây số. Xa nhất có lẽ là những cuốc xe ra Vũng Tầu để...“trả thù” hoặc “hưởng bù” những ngày nằm hầm chạy B.52! Những công lao, thành tích năm bẩy phen suýt mất mạng ở Campuchia được các vị giống như vợ chồng ông Tân Đức đòi “trả nợ”, đòi “đền bù” và coi mọi sự hưởng thụ những gì được ban phát hoặc vơ vét được là lẽ đương nhiên! Từ một anh “cộng sản ở Rờ” quanh năm nằm hầm tới anh “cộng sản ở thành phố”, với xe hơi, nhà lầu, có kẻ hầu người hạ, cuộc sống mới đã tạo nên một tầng lớp mới với những quan niệm mới, cách sống mới cũng là điều dễ hiểu, nhất là khi cái tầng lớp đó lại tự nhận mình là “đỉnh cao trí tuệ” của cả nước, thậm chí của cả loài người, thì tai họa cho cả dân tộc này là cái chắc!
Riêng ông giám đốc bị “vô hiệu hóa” Hà Mậu Nhai, người bạn tốt và khá trong sáng của tôi thì “cách mạng” đến mức làm khổ cả mọi người. Ông không đi xe ô tô, dù cơ quan được cấp 2 ô tô, mà đi...bộ đi làm! Để “bảo vệ” cán bộ, ông không cho ai được ra ở ngoài và “nhốt” tất cả trong một chung cư 6 tầng của một cư xá Mỹ tại số 83 Phan Kế Bính, sau này phát triển ra thêm ở 23 Gia Long. Trước sự thoái hoá rất nhanh của một số cán bộ, ông lên án rất dữ dội. Nhưng cuối cùng mọi sự trong sáng của ông cũng mờ dần. Ông chán ngán các cảnh đấu đá để tồn tại, thay đổi cách nhìn, cách đánh giá với những người mà trước kia, khi còn chức còn quyền, ông luôn cho là chỗ dựa tinh thần, là người bảo vệ lẽ phải. Ông sẽ còn “cộng sản đến cùng, theo gương Bác Hồ vĩ đại đến cùng” nếu không có cuộc đổ bộ “không tiền khoáng hậu” của gia đình nội ngoại ba, bốn thế hệ, vợ con, con anh, con chị, con chúng ta (cả hai vợ chồng đều có con riêng) vào Sài Gòn. Kỳ cục nhất là giấy điều động vợ ông Nhai, một cán bộ thương nghiệp và gia đình vào Nam lại do ông... Bảo Định Giang, Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật ký và đi máy bay là do Ban Thống Nhất sắp xếp. ([26]) Đó là miếng võ hở thứ nhất của ông Nhai. Miếng võ hở thứ hai là do hoàn cảnh bắt buộc, ông phải chạy vạy kiếm chỗ ở cho cả gia đình nội, ngoại hơn chục mạng người. Và ông “đành phải” nhận — tức là xin được cấp — một villla trong con hẻm khá kín đáo đường Hai Bà Trưng với đầy đủ tiện nghi mà một bộ trưởng miền Bắc nằm mơ cũng không thấy!
Thế là những người không ưa muốn trói tay ông lại, bắt đầu tấn công, đòi phải mời cái “ông Bắc kỳ” này về đất Bắc. Nhưng về sao được bây giờ khi cả nhà ông toạ hưởng ở cái “đất thơm cò đậu” này, khi bà vợ đã được “cơ cấu” vào tổ chức thương mại Nhà Nước đang cần người có kinh nghiệm...tịch thu hàng hoá, đánh xập mọi cửa tiệm, dẹp hết những “phồn vinh giả tạo” của chế độ ngụy… bằng chiến dịch cải tạo công thương nghiệp do ông Đỗ Mười ([27]) đích thân nổ phát súng lệnh mở màn!
Thế là, không còn con đường nào khác, ông đành chấp nhận phương án “đầu hàng để tồn tại” nghĩa là “xin” sáp nhập vào cơ quan của thành phố là nhà xuất bản của ông Tân Đức, chịu xuống cấp phó tổng biên tập phụ trách mảng văn hoá nghệ thuật. Mặc dầu là phó, ông chẳng coi chánh ra “cái đinh” gì nên quan hệ giữa hai ông là mặt trăng và mặt trời, là một cuộc đấu đá, thậm chí chửi nhau công khai giữa ba quân biên tập. Với tôi, ông có tình đồng học, đồng hương, đồng ngũ nên luôn tìm đến để trút bầu tâm sự về mọi bi kịch mà ông phải chịu đựng. Ngoài các việc riêng trong gia đình, ông cũng cho tôi biết những bí mật mà chỉ ông và một số đồng chí thời 9 năm chống Pháp, khi ông chiến đấu ở Nam Bộ, nay đã trở thành những người có vai vế trong hàng ngũ lãnh đạo biết mà thôi. Qua ông, tôi càng thấy được sự không tin, không phục nhau, thậm chí ghét nhau giữa các nhà lãnh đạo miền Bắc và miền Nam trầm trọng đến mức nào.
Xét cho cùng, chỉ vì các vị lãnh đạo miền Bắc phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng như cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, hợp tác hoá, đấu tố, truy chụp, thậm chí độc tài đến mức tự cho mình là duy nhất sáng suốt...đã tạo nên một tâm lý trong những người sau này trở thành lãnh đạo khu vực phía Nam đất nước: Quyết không để tái diễn trên quê hương họ những gì đã xẩy ra ở miền Bắc.
Trong một bữa tiệc tổng kết tại 83 Phan Kế Bính, tôi ngồi trố mắt nghe một vị tai to mặt lớn của miền Nam, ông Trần Văn Giàu, phê phán thậm tệ các ông Trường Chinh, Lê Duẩn, kể tội ông Lê Đức Thọ, đề cao tướng Trần Văn Trà, phủ nhận công lao thậm chí còn có tội gây khó khăn cho chiến dịch Hồ Chí Minh của tướng Văn Tiến Dũng ra sao. Ông Trần Văn Giàu cả quyết: “Đố anh Ba Mươi (gọi chệch tên ông Đỗ Mười) tiến hành được hợp tác hoá, cải tạo tư sản ở miền Nam này! Làm không khéo dân Nam Bộ nó nổi lên làm cách mạng lại từ đầu đấy”!
Dù ít quan tâm đến chính trị, nhưng luôn làm nhân chứng sống của các cuộc đấu đá thanh toán nhau, tôi càng buồn chán cho những cái đầu chẳng có chút ý thức nào vì dân vì nước, ngoài cái miệng nói như thánh sống!
Nhìn từ xã hội đến cơ quan, tôi càng thấy rõ phải tìm cách để tồn tại những năm cuối đời ở cái đất tưởng lành mà dữ này. Nhưng tồn tại bằng âm nhạc là không được rồi vì chẳng còn một chỗ dựa nào. Hội âm nhạc thành phố, sau những đụng độ về đường lối tổ chức và hàng loạt bài báo tôi viết, đã “nghỉ chơi với tôi”. Bằng chứng là suốt 20 năm tôi sống ở Sài Gòn, không một lần nào họ thèm mời tôi đi sáng tác cũng như dự các cuộc hội họp, chia chác phần thưởng. Ngay buổi công diễn bản concerto cho đàn bầu và giao hưởng kỷ niệm 15 năm “thành phố giải phóng” do tôi viết, ngoài ông Xuân Hồng bắt buộc phải có mặt để lấy điểm với trên, không có bất cứ vị nào gọi là nhạc sĩ Sài Gòn hiện diện!
Hà Mậu Nhai lúc này cũng khuyên tôi: “Bọn mình chẳng còn nhiều quỹ thời gian, hãy tranh thủ làm được cái gì cho bản thân thì làm đi!” Và, anh đã tạo điều kiện khá dễ dãi cho tôi được tự do bay nhảy.
Tôi đã tranh thủ một năm ít nhất dăm bảy lần về Hà Nội để làm phim, dựng tác phẩm. Tôi đã bay cả qua Lào làm chuyên gia, viết nhạc cho phim Lào (do Kỳ Nam đạo diễn). Tôi đi Liên Xô, Bulgaria dự hội nghị, dự liên hoan... Tất cả đều do miền Bắc cấp hộ chiếu, cấp tiền!
Phải nói trong cái rủi cũng có nhiều cái may. Đây là những năm nhờ cái tổ chức văn nghệ “dở Nam, dở Bắc”, nhờ sự trì trệ, tranh phần, giáng chức, giảm biên chế, tách cơ quan, nhờ sự “oánh” nhau đến mức vô hiệu hoá mọi hoạt động xuất bản, tôi bỗng dưng thành một văn nghệ sĩ ăn lương mà muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi.
Chính thời gian này tôi mới có dịp vào Nam, ra Bắc, sang Tây, về Đông để viết hàng loạt những thứ vừa “mì ăn liền”, vừa “bày cỗ, bày bàn” để tự... thưởng thức.
Những món “cổ điển tử tế” đang có nguy cơ không được hoan nghênh không chỉ ở “miền Nam nhạc nhẹ” mà cả ở miền Bắc đang chuyển mình để tồn tại. Hàng loạt nhạc phim do tôi viết, lúc dùng nhạc chính qui, lúc thì “tắc xình xình”, lúc nửa tỉnh nửa quê, theo yêu cầu của các ông đạo diễn — xin lỗi — gần như 99% đều... mù nhạc!
Các nghệ sĩ lớn của “nghệ thuật thứ bảy Việt Cộng” đều tranh thủ rủ tôi, một người rõ ràng không thèm làm nhạc phim vì tiền bởi lần nào đi tôi cũng lỗ, theo các đoàn làm phim để vừa làm vừa đi chơi, tìm hiểu cái phần nửa đất nước bị “nô lệ, bị kìm kẹp, bị...đủ thứ khổ dưới chế độ Mỹ-Diệm-Thiệu-Kỳ này người ta sống sót ra sao?
Đây là thời gian ra đời hàng loạt những bộ phim “xem mà phát ngượng”, thậm chí chẳng muốn có tên mình ở générique nữa. Hỏi ai còn nhớ những Như Thế Là Tội Ác, Tự Thú Trước Bình Minh, Cư Xá Màu Xanh, Cuộc Chiến Đấu Còn Tiếp Diễn, Lối Rẽ Trái Trên Đường Mòn, Phương Án Ba Bông Hồng, Bà Chủ Cuối Cùng, Ân Oán Nợ Đời, Xa Và Gần, Lê Thị Hồng Gấm... Mà có phải tác giả vô danh cho cam! Toàn là đạo diễn “nổi tiếng” như Phạm Văn Khoa, Phạm Kỳ Nam, Khắc Lợi, Huy Thành... sau này đều thành nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú cả.
Với tôi, âm nhạc cho điện ảnh lúc ấy là trò “gõ phèng la” để bán cao đơn hoàn tán dỏm. Không hơn không kém! Đó là những cảnh Thẩm Thúy Hằng vào vai nữ sinh viên chống Thiệu-Kỳ, võ sư Lý Huỳnh vào vai nông dân cách mạng, Chánh Tín trong vai chiến sĩ tình báo Việt Cộng…!
Tội nghiệp, họ phải làm những việc họ chưa biết, chưa sống qua, và chưa làm bao giờ, để mang tiếng với đồng bào Sài Gòn là “nâng bi” Việt Cộng! Sở dĩ có tình trạng “ép uổng” này vì cái chủ trương của mấy vị lãnh đạo gọi là “cấp tiến” của Sài Gòn: Cởi mở tối đa với hàng ngũ nghệ sĩ biểu diễn nhưng thận trọng, thậm chí “cương quyết không dùng” những người sáng tác, kể cả đạo diễn, của chế độ cũ, trừ trường hợp đạo diễn Lê Hoàng Hoa được ông Mai Lộc, giám đốc Xưởng Phim Giải Phóng dũng cảm bảo trợ, với điều kiện Lê Hoàng Hoa phải đổi tên.
Cũng trong các cuộc đi làm phim “cho vui” này, tôi đã thấy không thể và không bao giờ, các món ăn tinh thần mang nhãn hiệu miền Bắc hoặc của miền Nam do các đầu bếp miền Bắc chế biến hợp với thị hiếu của dân miền Nam, dù cách mạng hay không cách mạng. Tôi đã thấy trước sự thay đổi đi xuống cả về nội dung lẫn hình thức của văn nghệ miền Bắc. Rõ ràng, chỉ độ một, hai năm sau, các “ca sĩ có học” đã dần dần học theo cách hát giả thanh để “tròn vành rõ chữ”, thậm chí hát theo kiểu chính miền Nam xưa phải gọi là...“sến”! Phương Thanh đánh võ, tắm truồng trong Tội Lỗi Cuối Cùng, Thanh Loan cưỡi Honda bắn súng lục trong Phương Án Ba Bông Hồng...Còn bài hát, nếu không trở về với cách viết, cách hát những năm 1940–1950 thì “nhái” lại ca khúc của Boney, Abba, Modern Talking... một cách kệch cỡm, nhất là với sự bùng nổ các nhóm ca khúc gọi là “chính trị” được Nhà Nước bao cấp và báo chí miền Nam “phóng” lên như sự... “chuyển mình của âm nhạc giải phóng”!
Tôi cũng chứng kiến những cuộc “tận hưởng hoan lạc” trong các vụ kéo quân đi biểu diễn, đi làm phim như thế nào. Phải nói trắng ra là cái “utile” (có ích) chẳng còn, mà cái “agréable” (khoái) thì...phát triển đến mức không thể tưởng tượng nổi! Nói cho ngay, chẳng ai mua chuộc ai, kể cả những Lý Huỳnh, Thẩm Thuý Hằng... mỗi khi đi làm phim đều bỏ tiền túi gấp trăm lần cát xê cách mạng trả cho họ. Đơn giản là vì ham “làm nghề” mà họ đi. Nhưng làm nghệ thuật với họ luôn là “cuộc chơi”...dài dài, là một cái gì đó xa xỉ đòi hỏi phải có những bữa nhậu đắt tiền, những cuộc giải trí “mát mẻ”, những điều kiện thoải mái...
Mấy ông Việt Cộng, tuy ít đô la nhưng nếu tham gia những trò này thì lại tham gia “bạo” hơn ai hết. Mấy tiếng “chịu chơi” như cái dấu đóng công nhận anh hay chị có thể đứng vào “phe ta” rồi. Chính cái “trụ sở” của tôi, do sống độc thân và tôi hay đi vắng, đã là nơi diễn ra đủ thứ thoái hóa không thể tránh của nền văn nghệ terre à terre – lè tè mặt đất những năm sau này! Khỏi kể những gì diễn ra sau các cuộc... “chơi” văn nghệ ấy! Chỉ xin tóm tắt là trừ cờ bạc, tam đổ tường đều có đủ và dài dài! Thậm chí nhà tôi có lần đã là nơi trốn tránh cho vài nhân vật bị... truy nã về tội buôn lậu đô la, đá quý và cả thuốc phiện nữa mà khi vụ việc đổ bể, tôi mới té ngửa do bị công an mời lên làm chứng cho những gì họ đã lấy từ lời khai của đương sự!
Cũng tại nhà tôi, tôi đã chứng kiến cảnh nộp “thuế thân” của một số nữ “diễn viên cũ” muốn trở thành “sao” cách mạng thế nào. Không phải chỉ những loại thập thành, mà cả những ngôi “sao mờ” từ Rờ ra, hoặc từ miền Bắc mới vào Sài Gòn. Hôm nay, tất cả họ đã già, đã hết thời, đã có gia đình yên ổn, xin miễn nêu tên để tránh nỗi đau lòng, cho họ và cho cả người viết. Tôi chỉ xin nhắn những vị “nghệ sĩ lớn” với đủ các danh hiệu cao nhất của Nhà Nước là lịch sử văn học nghệ thuật nước nhà sẽ chẳng bao giờ ghi nhận những gì các vị đã làm ở thời gian này, dù lãnh đạo đã “bơm” các vị hoặc các vị tự bơm lên những tước hiệu nhân dân, ưu tú, hay gì gì đi nữa!
Nhờ những năm sống và “chơi” văn nghệ, làm văn nghệ là một cuộc chơi được mặc nhiên công nhận cho tới cuối thế kỷ 20, tôi dần dần nhận thức rằng mình chẳng có sức, có lực, có tiền và chẳng đủ tư cách để tham gia “đánh đu với tinh” mãi, nhất là bia không biết uống, rượu thì chết khiếp, còn gái thì tôi lại quá... “trí thức” trong tình yêu!
Mọi cuộc tham gia, chỉ có mặt tôi ở các khúc dạo đầu. Đến các mục X, Z là tôi... biến, nên một vị “nghệ sĩ nhân dân” đã kết luận: “Tô Hải là thằng luôn tỉnh trong khi người ta say!” Nhưng lại có người thẳng thừng hơn: “Nó là thằng đạo đức giả”! Có lẽ đúng nhất với tôi là câu: “Đó là một thằng...hèn”!
Vâng! Đúng, vì cái hèn mà tôi chẳng ra ông chẳng ra thằng, người tốt chẳng ưa, người xấu chẳng thích. Tôi luôn bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt. Tôi luôn đề cao làm nghệ thuật nghiêm túc nhưng không từ chối đi làm phim nghĩa là đi...chơi với một “nghệ sĩ nhân dân” dù ngay buổi mời tôi tham gia, tác giả đã buông một câu: “Phim chẳng ra cái củ c... gì đâu nhưng đi với bọn tao cho vui!”
Tôi không dám từ chối các cuộc “tao ngộ chiến” ngay tại căn hộ 23 Lý Tự Trọng của tôi, khi từ xưởng phim ở đường Thi Sách cách đó chừng trăm thước, hàng đoàn tài tử giai nhân kéo đến giải lao với những chai Hennessi, Johny Walker và đồ nhậu được khuân về từ Chợ Cũ! Những “cuộc chơi” này còn kéo dài nếu cuộc phiêu lưu tự do không bị “hãm” bởi những bàn tay sắt mới:
— 1/ Sau một thời gian dài gần như “thả nổi” mọi hoạt động văn nghệ của các đoàn cải lương, các nhóm “ca khúc chính trị”, các hội hè cứ thưa dần vì...làn sóng vượt biên cuốn mất nhiều diễn viên, các chương trình biểu diễn bị thay thế hình tượng cách mạng bằng những hình tượng “ngày xưa”, và tất nhiên, tác phẩm của các văn nghệ sĩ cách mạng cũng bị xếp xó.., những cán bộ lãnh đạo chợt “tỉnh người” thấy cần phải ra tay ổn định lại trật tự. Người xiết khóa đầu tiên là ông Võ Văn Kiệt với bài khai hỏa đăng hết hai trang ruột báo Sài Gòn Giải Phóng. Ông khẳng định là “đường lối văn nghệ của Đảng chỉ có MỘT dù kinh tế có NĂM thành phần!” Một bài đầy mâu thuẫn thiếu tính thuyết phục ở cả thời điểm đó đến bây giờ.
— 2/ Sau cuộc rà soát lại hàng ngũ cán bộ, nhất là sau khi những anh em có nghề chính gốc miền Nam được đi học ở nước ngoài trước 1975 lục tục trở về, và những anh em “biến chất” đã bị điểm mặt, tôi lại được nhận xét là người vững vàng nhất, được lãnh đạo “miền Nam mới” tạm thời ưu ái!
— 3/ Sau cuộc ra đi hàng loạt của các nghệ sĩ mà người ta mất bao công sức chèo kéo, lực lượng “văn nghệ miền” bỗng thấy cần cái gì đó, một vài tay nào đó, biết nghĩ, biết nói, biết làm và dám nghĩ, dám nói, dám làm.
— 4/ Sau những ngày uổng phí làm chẳng ra làm, chơi chẳng ra chơi, tôi là phần tử vẫn còn thừa bầu máu... vịt để mang ra xử dụng.
Thế là tôi lại được ném vào cuộc chiến “chấn chỉnh văn nghệ”, nhưng lần này là chiến đấu trực tiếp với những gì mà các “phù thuỷ cơ hội cách mạng” đã tung ra. Tôi mở đầu bằng bài “Có hay không chủ nghĩa đế quốc trong âm nhạc” đăng cả trang ruột tờ báo Đảng, báo Sài Gòn Giải Phóng. Sau đó là hàng loạt bài “Nhạc trẻ, cái gì vậy?”, “Quốc tế hoá bài hát Việt Nam, một xu hướng cần báo động”, “Những ảnh hưởng tiêu cực của 35 năm nhạc Rock” vv...bên cạnh là hàng loạt cuộc nói chuyện về thẩm mỹ âm nhạc trên đài phát thanh, tại các trường đại học, các câu lạc bộ...bằng những dẫn chứng mới nhất có được qua sách báo, thông tin của nước ngoài. Với các ví dụ cụ thể trong nước, tôi cố gắng vạch ra...
Rằng thì là:
— 1/ Rock-pop không xấu, nhưng rock-pop hoá tới mức cả nước đánh trống, cả nước ooc-ghita như bây giờ, nhất là bắt chước tràn lan rock-pop phương Tây là... tai hoạ cho một nền âm nhạc dân tộc hiện đại.
Rằng thì là:
— 2/ Âm nhạc không chỉ là một nghệ thuật mà còn là một khoa học. Không thể chấp nhận một nhạc sĩ, một nhạc công, một ca sĩ mà tới nay (những năm 1970-1980) vẫn cứ nghe băng đánh theo, học hát theo kiểu dạy từng câu, chẳng biết “đồ rê mi” là cái gì.
Rằng thì là:
— 3/ Về sáng tác, không thể muốn viết sao thì viết... Không thể phớt lờ cuộc sống của đất nước khó khăn tới mức phải ăn bo bo, phải chia nhau vài lạng bột giặt, vài lạng đường, lạng mỡ...mà lại viết về “cái tôi” đơn lẻ kiểu “tôi đi tìm tôi”, “mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” hoặc ngợi ca những cái không đâu như con sóng, nụ hôn, lá me, cành sấu rồi... hết!
Tóm lại, tôi lên án thái độ “thiếu trách nhiệm công dân” của một số văn nghệ sĩ, tôi nắm chặt cái “phao” văn nghệ phải tạo được cái Đẹp cho tâm hồn bằng không thì chẳng cần có mặt nó trong cuộc đời!
Những điều tôi viết và nói ra lúc ấy đã tạo cho tôi một uy tín nhất thời nhưng có hại cho tôi thì vô kể! Cho tới lúc về hưu, tôi vẫn chưa hết ân hận về những gì tôi đấu tranh cho cái ĐẸP và chỉ cho cái Đẹp mà thôi, cái ĐẸP muôn thuở mà chẳng một thể chế, một tập đoàn, một đảng phái, một thời đại nào có thể phủ định.
Một lần nữa tôi lại thấy mình: “Ngu vẫn hoàn ngu”!
Đã không ít lần, tôi bị sứt đầu mẻ trán về cái tội... “đúng quá sớm”. Lần này, để bảo vệ cái Đẹp chung muôn đời của nghệ thuật, tôi trở thành “kẻ thù” của cả “âm binh” lẫn “phù thủy”!
Tôi chất vấn sự im lặng đồng loã của người có trách nhiệm về nền văn nghệ Xè Gòn, về sự chia rẽ trầm trọng các tổ chức của miền, của thành phố, về sự ăn chơi phè phỡn, lên xe xuống ngựa của những vị mà một dòng thơ, một vai diễn, một ngày nằm trong tổ chức văn học nghệ thuật cũng chưa có, bỗng dưng có cả quyền cho sống hay bắt chết cho anh chị em văn nghệ sĩ, kể cả cách mạng lẫn “tại chỗ”... Tôi vạch ra những gì là “phản văn nghệ”, là vô nguyên tắc, thậm chí là bịp bợm, là ngu dốt, “tương” tất cả lên báo, hoặc phát ra ngay tại các hội nghị chuyên ngành và một vài lần có mặt cả những nhà lãnh đạo cao nhất nhì của Đảng như Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh. Lần nào ý kiến của tôi cũng được các thư ký đi theo các vị này ghi ghi chép chép, thậm chí chính các vị cũng gật gù tỏ vẻ đồng tình và sau đó, khi nghỉ giải lao hoặc lúc ra về nhận được hàng loạt cái bắt tay khen ngợi của đồng nghiệp.
Tuy nhiên, một số cho rằng: “Thằng này dại! Kệ mẹ chúng nó! Nói ra vô ích, chẳng thay đổi được gì mà chỉ mang thù chuốc oán vào người!” Tôi thì nghĩ mình chẳng có gì để mà mất, chẳng có cái ghế nào, chẳng có ý đồ tranh ngôi vị của ai. Vậy thì dù có bắn toàn những phát súng...“chỉ thiên”, ít nhất, sau này tôi cũng được nhớ tới như một kẻ đã dám vác dáo lao vào cối xay gió, dù không được người đời xem trọng bằng các vị đã dám bắn thẳng vào đường lối văn nghệ của Đảng ở những thời Nhân Văn Giai Phẩm, hậu Nhân Văn, Xét Lại...
Nhưng trước khi đi vào cái Đẹp chung chung, tôi chẳng có chút “thành tích...chống Đảng” nào nên khi đứng lên bảo vệ cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ, vạch ra cái “Đẹp Chết Người” do Đảng Xè Gòn khuyến khích phát triển, tôi đã bị những kẻ cơ hội cả trong lẫn ngoài Đảng xếp vào loại... “kiên trì đường lối văn nghệ miền Bắc!?”
Tôi muốn hét lên rằng: thưa các vị, tôi đang đấu tranh cho cái Chân Lý lâu nay bị Đảng xếp xó đấy! Tôi là nạn nhân chính cống của chủ nghĩa cộng sản đây! Tôi không còn là đảng viên nữa, nhưng “thành tích” bồi bút cho Đảng của tôi quá “to lớn” mất rồi khiến khó có ai tin là tôi đang đấu tranh cho cái Chân Lý lâu nay bị chối bỏ và bị những kẻ cơ hội bất tài đang hùa nhau vào phá phách, dựng nên một phong trào “văn nghệ vô văn hóa”, “vô chính phủ” và...”bịp bợm”!
Tôi gần như đơn độc giữa cơn lốc đòi hỏi Tự Do cho văn nghệ miền Nam, một thứ tự do mà ở miền Bắc chưa ai dám nghĩ tới, sau các vụ đàn áp văn nghệ không thương tiếc những năm 1956-1957-1958...Tuy nhiên, đã bắt đầu cuộc phản công văn nghệ cứng đờ, giáo điều của miền Bắc, công khai ngay trên báo chí, trong các cuộc họp, ở các bàn nhậu, các quán cà phê.
Đặc biệt lý thú là người nổ những phát súng đầu tiên “bắn” vào cái Đẹp lại chính là các nhà lãnh đạo ngu dốt. Tự mình lập toà án để xử chính mình bằng những cuộc “học tập”, những cuộc “hội thảo khoa học”, tổ chức ra các trường bắn, những kẻ đinh ninh mình là quan toà đến phút chót lại biến thành “kẻ bị dựa cột”
Điển hình nhất là cuộc hội thảo về “ảnh hưởng của chủ nghĩa thực đân mới tới nền văn nghệ tạm chiếm” do Tuyên Huấn Trung Ương tổ chức với mục đích đề cao nền văn nghệ “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, nền văn nghệ “vì nhân dân, vì Đảng” ở miền Bắc đã “thành công rực rỡ” như thế nào, các thứ văn nghệ tư sản, cặn bã, lai căng, mất nước, nô lệ nước ngoài trong hình thức cũng như nội dung tai hại ra sao...Nào ngờ, các lý luận gia hàng đầu của miền Bắc đành “ngậm hột thị” trước các câu hỏi hóc búa:
– Tại sao lại sao cấm in cấm đọc Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, cấm chủ nghĩa này, trường phái kia trong hội họa...?
– Có thể nào viết cái gì mà không nói đến Đảng, đến Bác không?
– Bức tượng Thánh Gióng ở bùng binh Ngã Sáu phạm tội gì mà ông X.. lên án và có ý định đập bỏ?..
Nổi bật lên là câu hỏi “Chủ nghĩa yêu nước, cái đẹp nhân bản không thôi có đủ làm nên tác phẩm nghệ thuật giá trị không?”
Tôi nhớ rất rõ sự lúng túng của các vị lý thuyết gia, các vị lãnh đạo văn nghệ và tư tưởng lúc bấy giờ và chỉ mong các vị đừng lao vào cuộc tranh luận mà... xập bẫy!
Nhưng chẳng ai ngăn được khi các vị đã mang đầy tính tự hào chiến thắng trong người, khi các vị cứ huyên thuyên về các thứ “hiện thực có cánh” với những “thành tựu của văn nghệ vô sản” trong và ngoài nước bằng cách “cầm nhầm” luôn cả tác phẩm của Gogol ([28]), Pushkin ([29]), Tolstoi ([30]), Chekhov ([31])...ra đời từ khi ông Lê Nin còn chưa ra đời hoặc còn mặc quần hổng đít! Các vị còn bạo phổi hơn khi lên án cả...“siêu thực”, “vị lai”, “cụ thể”... trong hội họa, phủ nhận Camus ([32]), Sartre, Robbe Grillet ([33])…với “chủ nghĩa hiện sinh” suy đồi dù chưa hề đọc cuốn nào bằng bản gốc, chụp hàng loạt mũ “chống phá cách mạng đến cùng” cho các nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ đã di tản kịp trước ngày 30-4-1975.
Thái độ im lặng, nhún vai, lắc đầu, thậm chí bỏ phòng họp của những người chịu không nổi bài giảng kinh thiếu thuyết phục của các nhà văn nghệ “mác-mít” ([34]), các lý thuyết gia “thầy mo”, “lang băm”, mãi sau này vẫn là chuyện đàm tiếu về “văn nghệ trong tay những thằng ngu” hoặc “văn nghệ luyện ngu từ...Mốt-xờ-cu Lê-nin-rát...”
Riêng tôi, tôi có thể nói gì nếu chưa bắt đầu bằng đề tài cơ bản nhất “không có văn nghệ đích thực từ khi Đảng Cộng Sản Việt Nam” độc quyền lãnh đạo?
Chỉ nói lên cái SỰ THẬT ê chề đó, phủ nhận nó, tôi mới có đủ tư cách bàn về cái ĐẸP! Bằng không, mọi thứ lý luận bảo vệ cái Đẹp chung chung của tôi chỉ là luận điệu không đầu, không đuôi nhằm bảo vệ cho một chủ trương trước mắt Đảng mà thôi! Sai lầm cơ bản nhất của tôi là kẻ đang sống chung với con vợ đĩ điếm lại đi rao giảng thế nào là người đàn bà đức hạnh. Cái Hèn của thằng chồng mọc sừng nhưng vẫn im thin thít sống chung với con vợ hư đốn là ở chỗ đó! Vì vậy, dù là người hay nói năng bạo phổi, tôi đành cam chịu số phận của một tên “gián điệp hai mang” mà ngồi... im thin thít!
Hội nghị kéo dài cả tuần mà chẳng bớt được một đoàn cải lương diễn toàn “tuồng tích cũ”, chẳng đập bỏ được một tượng đài nào...Trái lại, nó cũng có ích ở chỗ hàng loạt tác phẩm từ xửa từ xưa thi nhau “tái xuất giang hồ.” Mở đầu là tiểu thuyết của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, sau đó là những Lê Văn Trương, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Hồ Biểu Chánh... được đóng dấu “tương đối tiến bộ”, “tương đối giá trị”, “không khiêu dâm đồi trụy”, nhất là “không chống cộng” để...thay thế những Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng, Lệ Hằng... thì ít mà phủ nhận tác phẩm và “tác giả cách mạng” thì nhiều. Trên thị trường văn nghệ, xuất hiện hàng loạt nhà văn chưa ai nghe tên, chưa bao giờ có tác phẩm nhưng cực kỳ ăn khách bình dân do xào xáo phim truyện Hồng Kông nhiều như... các “cây xăng cục gạch” bên lề đường. Điều đáng chú ý ở đây là tất cả đều do các nhà xuất bản của Đảng, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng... tung ra, vì cho tới nay, không hề có tự do xuất bản hay báo chí trong chế độ độc Đảng cầm quyền này.
Vậy thì vì sao mà loạn tiểu thuyết ba xu, loạn phim “mì ăn liền”, loạn bài ca não tình gợi dục đến mức nhiều nhà trí thức “còn kẹt lại” phải rung chuông báo động trên báo chí vì sợ ảnh hưởng tới con cái họ. Xin thưa: để tồn tại, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức của Đảng đều phải xoay sở bằng mọi cách. Riêng về xuất bản, các ông tổng biên tập, chịu trách nhiệm trước Đảng và trước vài ba chục nhân viên của mình, trước nguy cơ dẹp tiệm vì sách cách mạng “bán cân cũng chẳng ai mua”, bèn có sáng kiến: kế hoạch A là in sách cách mạng, kế hoạch B là in sách “vô thưởng vô phạt” hoặc sách rẻ tiền nhưng ăn khách. Thế là kế hoạch B được đặc biệt ưu ái vì nó nuôi sống kế hoạch A và cả đống người đang ngồi chơi xơi nước. Buồn cười nữa là các nhà tư sản thoát chết, các tay đầu nậu, các nhà văn, nhà nhạc ba xu bây giờ lại là người...nuôi các cơ quan của Đảng bằng những khoản hoa hồng, phát hành... phí! Mà có mất gì cho cam, ngoài chữ ký với cái dấu OK mà Đảng đã trao cho một anh nào đó giữ! Cục Xuất Bản Nhà Nước có tài thánh cũng chẳng kiểm soát nổi mấy chục nhà xuất bản của địa phương, đoàn thể, các bộ, các ngành! Ở các rạp chiếu bóng, người ta ùa nhau đi xem lại những Giai điệu Hạnh Phúc (Mélodie Du Bonheur), Cuốn Theo Chiều Gió (Autant En Emporte Le Vent), Mãnh Long Quá Giang (của Lý Tiểu Long), thậm chí cả đến những loại như Ngã Ba (cháo) Lòng... chứ những bộ phim đen trắng ùng oàng và...“bịa” của miền Bắc đã làm họ “tởn đến già”!
Cuộc phản công văn nghệ toàn diện lần này chẳng phải do “thằng địch” nào âm mưu. Tất cả đều được đóng dấu của nhà cầm quyền văn nghệ và được báo chí của Đảng cho phép. Lọt thỏm trong cái rừng văn nghệ “phi vô sản” là vài cuốn sách tái bản của các tác giả tiền chiến. Trước tình hình kinh tế ngày càng khó khăn sau những chiến dịch cải tạo, những cuộc “tấn công quyết định vào pháo đài Chợ Lớn mà chưa chế độ nào dám làm” (chữ của ông Bảo Định Giang), những cuộc tịch thu đóng cửa tiệm đồng loạt, những cuộc vây ráp chợ trời, đặc biệt là hai cuộc đổi tiền (sự thật là thu hồi tiền mặt và chỉ trả lại cho mỗi người một số tiền tối thiểu), Sài Gòn trở thành rỗng tuếch về bề mặt! Nhưng về phần chìm, Sài Gòn vẫn là... Sài Gòn! Bên cạnh những ông chủ cũ với những két sắt đầy vàng, đô-la, kim cương mà các cửa hiệu do con, cháu, người làm công đứng tên bị đóng cửa, bị tịch thu, xuất hiện những ông chủ mới giàu lên một cách nhanh chóng nhờ “hôi của lúc cháy nhà”.
Chính thời kỳ này đã giúp cho hàng vạn tay cơ hội chiếm đoạt không biết bao nhiêu tài sản của các thứ “kẻ thù cách mạng” để biến thành của riêng, của con cháu, người quen. Ai có thể thống kê được những gì các “đội cải tạo” đã “tịch biên” của hơn một triệu cửa hàng, gần 7.000 xí nghiệp to nhỏ của cái thành phố lớn nhất nước này? Và cũng chẳng lấy gì làm lạ khi một “đạo diễn điện ảnh” cách mạng bổng trở thành...chủ một cửa hàng nhiếp ảnh to nhất Chợ Lớn.
Ngay một nhà máy đã quốc hữu hóa, sau này người ta vẫn có thể úm ba la “hô biến” để nó trở thành nhà máy... tư nhân cho vợ đứng tên như trường hợp nhà máy mì ăn liền Miliket. Một ông bí thư quận bỗng thành chủ nhân của 5 ngôi nhà cao tầng — tất nhiên ông không dại gì mà đứng tên. Và những cán bộ “cải tạo tư bản”, “cải tạo công thương nghiệp” sau khi kê khai qua quít số hàng, số tiền, vàng... trong két các khổ chủ quên nạp cho ban cải tạo bảng kê khai để sau này thành những nhà tư bản mới.
Tôi đã nhiều lần chứng kiến cảnh “khuyến khích ăn cướp” một cách vô chính phủ này. Không những thế, đã hơn một lần người ta đề nghị tôi giúp họ quản lý ba bốn ngôi nhà — có ngôi 6 tầng — của các chủ cửa tiệm, chủ xí nghiệp do sợ hãi bỏ trốn. Đặc biệt là ô tô lúc này thì...cho cũng chẳng ai thèm nhận. Trong giới văn nghệ, ngoài các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam (có anh Năm, anh Sáu che chở), dân miền Bắc chỉ có hai nhạc sĩ đi Liên Xô về dám “chơi” xe (mua hoặc ai cho thì không rõ). Hai ông Văn Ký và Đình Tấn đưa hai chiếc Mazda về Hà Nội với lý lẽ: “Nhạc sĩ các nước XHCN đều đi ô tô cả, sao mình lại không thể đi!” Hai chiếc xe trở thành đề tài đàm tiếu dài dài ở miền Bắc khi hai ông (cả hai đều không có nhà riêng mà ở nhà tập thể) vô tình biến hai chiếc xe thành hai cái tổ... mèo, chuột, sau rốt thành nơi xả rác cho người qua lại. Còn biết để chúng ở đâu, ngoài cái lòng đường?!
Cũng phải thú thật là do tôi nhát và đã có kinh nghiệm với những... cú đá hậu khi “hở sườn”, đồng thời do bản tính sĩ diện hão (hay ngu lâu?) nên người ta ấn vào tay cái gì tôi cũng từ chối phắt. Mặt khác, tôi cũng mặc cảm về thân phận một thằng “ngoại lai” nên rất ngại trước những ưu ái và rủ rê của mấy ông coi trời bằng vung. Làm gì đến lượt mình những thứ quá lớn này. Rồi đây biết đâu người ta chẳng đòi lại và phân phối lại!
Quả vậy, tôi chỉ nhận một chiếc piano vứt đi, không mác, sản xuất tại đâu không biết, để làm việc hàng ngày, còn phải bỏ tiền ra mua dây bị đứt, tu sửa bộ máy mới dùng được. Thế mà sau khi thống nhất hai miền người ta còn đòi, huống hồ cái nhà to đùng với đầy đủ tiện nghi?
Cuộc tịch thu, tiếp quản, đổi chủ lần này, có tôi tham gia và chứng kiến tận mắt, là cơ hội không chỉ bằng vàng, mà bằng... kim cương cho kẻ đã có kinh nghiệm hoặc đã bỏ lỡ việc kiếm chác những ngày đầu tiếp quản vì máu cách mạng lúc ấy chưa chuyển từ đỏ sang đen! Có nhiều người hôm trước còn là người hiền lành tử tế, hôm sau đã trở thành tên cướp hung bạo khi khảo của khổ chủ. Có người chưa kịp hét lác thì khổ chủ đã tất tưởi đem nộp cả hộp bích quy kim cương chỉ để xin ông cán bộ báo cáo giùm lên trên (tức là ông hoạn lợn Đỗ Mười) rằng “nhà này không có gì”). Những chuyện cười ra nước mắt như thế nhiều lắm, kể không xiết. Chả thế mà đã có bao “nhà cách mạng” năm xưa nay làm chủ cả mấy ngôi nhà (hồi ấy gọi là “phân phối”), chưa kể tiền vàng, tiêu mấy đời không hết.
Số phận các “nhà cách mạng” sau cuộc đại vơ vét này không giống nhau. Những kẻ lõi đời đóng vai củ mỉ cù mì cho đến khi đủ tuổi về hưu non, “hạ cánh an toàn”, yên hưởng hạnh phúc bên vợ con và...hàng tá bồ nhí. Ngay giới văn nghệ cũng có những “nhà” nọ, “nhà” kia đang say mê sáng tác bỗng tự nguyện bỏ nghề để rồi chính mình hoặc con cái trở thành những “đại gia” sau này.
Một số vì quá tham lam trong thời “bung ra” ([35]), vì quá tin ở ô dù, vì chia chác không đều, vì ghen ăn tức ở, vì nhiều nguyên nhân khác nữa, bị ra toà, ngồi tù. Được cái các bậc đàn anh vẫn còn chút lòng thương đàn em kém may mắn nên họ chỉ lãnh những bản án không nặng, ngồi tù ít lâu rồi ra. Số khác do có quá nhiều tiền không biết làm gì nên lao vào các cuộc ăn chơi trác táng đến...chết trong lòng người đẹp Xè Gòn (như một nhạc sĩ mà tôi không nỡ nêu tên), cũng như những kẻ vì rượu chè tối ngày mà bị ung thư gan, dạ dày và chết non vì...“bệnh hiểm nghèo” (theo cáo phó).
Riêng số sống phây phây, không cần làm vẫn có ăn, là số đông, thì nhiều lắm, kể không hết. Nhìn lại tình hình xã hội những năm “hậu cải tạo” đó thì sau các “chiến dịch Z, X, Y”... cả miền Nam, với những loại cán bộ đa số là “ăn hại đái nát”, thậm chí cả những tội phạm hình sự gốc gác miền Nam cũng lọt vào nhiều cương vị lãnh đạo, giám nọ, tổng kia, những tên chưa bao giờ vào Đảng bỗng trở thành bí thư đảng ủy... làm chủ các xí nghiệp, nhà máy, công ty, cửa hàng, khách sạn được quốc doanh hóa...!
Cái xã hội chủ nghĩa xơ xác kiểu Bắc cờ đã nhanh chóng có mặt trên mảnh đất thừa thãi lúa gạo, hàng hoá, hoa trái. Biểu hiện đầu tiên của những mặt “ưu việt” đặc trưng cho lối sống miền Bắc là tem phiếu, sổ gạo. Còn hơn cả miền Bắc, người ta đưa vào chính sách phân phối đến cuộn chỉ, cái kim, bao diêm, lạng bột ngọt…được đặt tên theo lối Tầu là “nhu yếu phẩm.”
Ở nông thôn còn tệ hơn, ngay các “nhu yếu phẩm” bèo bọt như thế dân chúng cũng chẳng được hưởng. Chính sách phân phối chỉ áp dụng cho thành phố mà thôi. Nông dân Nam Kỳ quen nếp sống tự do, canh tác dựa theo trời đất, bị dồn vào các hợp tác xã. Lối canh tác không tuân theo quy luật thiên nhiên mà theo nghị quyết Đảng đã chứng tỏ cái tai hại ở miền Bắc nay được áp dụng triệt để ở miền Nam. Việc các vị trên “đỉnh cao trí tuệ” đùng đùng ra lệnh quy hoạch lại đất đai, bịt kênh này, khơi kênh kia, đốt rẫy, phá rừng trồng sắn…mang lại hậu quả tức thì: Từ chỗ thiếu ăn đi đến chỗ đói dài dài.
Thế là nhân danh sự bảo vệ địa phương để gạo không lọt ra ngoài, các anh Hai ở các tỉnh đã tìm ra cách kiếm chác không thua kém các anh Hai Xè Gòn: Ra lệnh “ngăn sông cấm chợ”. Tình trạng địa phương cát cứ tất nhiên không làm cho đời sống ở nông thôn khá lên, nhưng ảnh hưởng của nó lên Sài Gòn lập tức thấy rõ.
Trong bữa cơm của mọi gia đình cán bộ trung lưu “tại chỗ”, cả những gia đình cán bộ “ngu lâu”, bắt đầu phải ăn độn từ mì đến ngô và cuối cùng là... bo bo nhập khẩu!
Làn sóng vượt biên bắt đầu. Hàng vạn công chức “ngụy quyền”, gia đình “ngụy”, cả những gia đình chẳng “ngụy” tí nào, cũng lần lượt tìm đường “ra đi”. Giới nghệ sĩ cũng thế, nghệ sĩ “tài danh” và không “tài danh”, đều “ra đi” tuốt, “ra đi” bằng bất cứ giá nào. Đáng chú ý là trong số người vượt biên có cả những đảng viên cộng sản.
Nguyên nhân “ra đi” của họ thì nhiều: Người thì đi theo khối tài sản kếch xù đã chuyển được ra nước ngoài nhờ các “sếnh xáng” Chợ Lớn, người vì có quá nhiều tiền nên tiêu xài vung vít, do ghen ăn tức ở mà bị lộ, phải nhanh chóng “good bye” cách mạng. Như trường hợp ông Mai (tôi không nhớ họ của ông ta), giám đốc khách sạn Caravelle, nguyên sĩ quan không quân Việt Nam anh hùng, hoặc Bảy Tui, trưởng công an Quận 5, và vợ là Quế Mùi, diễn viên Đoàn văn công Tổng Cục Chính Trị được cử đi B để thành lập Đoàn văn công Quân Giải phóng, sau làm trưởng phòng văn hoá quận 5!
Tất nhiên, nhân dịp này Đảng không quên trà trộn cán bộ tình báo của mình vào đấy cho những kế hoạch lâu dài. Phần lớn những tên “nằm vùng” về sau thành “vượt biên” thứ thiệt, chỉ có một số trung thành với những ưu tiên ưu đãi hoạt động chia rẽ cộng đồng hải ngoại, chia rẽ tôn giáo, đả phá những người chống cộng. 
Trong tình hình ấy những người còn rớt lại đều phải lo thu vén kiếm chác để cứu bản thân và gia đình bằng mọi cách, kể cả bán tiêu chuẩn nhu yếu phẩm nhỏ nhoi cho dân “phe”. Cái hiện thực xã hội sờ sờ trước mắt chẳng được một nhà văn nhà báo nào phản ảnh! Biết cả đấy, nhưng chẳng ai dám có ý kiến hoặc viết lách gì về cuộc “phá hoại lịch sử” mà viên tổng tư lệnh Đỗ Mười hò hét “đánh nhanh - diệt gọn!”
Nhưng trước tình hình bi thảm chưa từng có của đất nước, trước mọi hoạt động xã hội bị tê liệt gần như toàn diện, trước nguy cơ mất quyền lãnh đạo vào tay các “đồng chí mà chẳng đồng tình”, những kẻ chóp bu cũng không thể nhắm mắt tụng mãi bài kinh “cải tạo xã hội chủ nghĩa” học mót từ Nga, từ Tầu. Một cuộc liên minh Bắc Kỳ – Nam Kỳ mặc nhiên hình thành. Mâu thuẫn ở hạ tầng đã làm lu mờ mâu thuẩn giữa người cầm cân nảy mực ở Hà Nội và Sài Gòn. Người ta nhất thời đoàn kết lại thành một khối… lủng củng trước nguy cơ một cuộc khủng hoảng toàn diện.
Chúng tôi nín thở theo dõi những diễn biến trong cung đình qua những tin đồn…thiệt và thất thiệt. Sau cái chết của Ba Duẩn, Trường Chinh sẽ trở lại nắm quyền? Hay Sáu Búa Lê Đức Thọ? Hay một “anh” nào khác? Tất nhiên không phải cái anh hoạn lợn Đỗ Mười đã làm cho cả miền Nam điêu đứng.
Cuộc đấu đá âm thầm đi vào kết thúc. Ông Nguyễn Văn Linh ([36]), người đứng giữa các phe nhóm tranh giành quyền lực, được đặt vào ghế tổng bí thư để sửa chữa cái sai lầm không bao giờ được công nhận. Với ngọn cờ mới, giọng điệu mới, Đảng “vô cùng sáng suốt” quay ngoắt 180 độ để đi đến sự cố bi hài: “Đổi mới”...như cũ!?
Tôi là người “bắc nồi trõ nghe hơi” không dám luận bàn, chỉ xin nôm na kể mấy câu:
Từ khi đảng cho phép dân buôn bán trở lại, cho làm chủ mảnh ruộng, mảnh vườn, cho mở chợ kể cả chợ trời, cho bà con buôn thúng bán mẹt được hành nghề, nhà hàng khách sạn được tái khai trương…tức thì mọi sự lại... như cũ. Nhưng vì vướng cái cục xương xã hội chủ nghĩa ở cổ họng, nó chẳng thể nào bằng cũ được.
Từ miệng ông thủ tướng, ông tổng bí thư, ông chủ tịch Quốc Hội, mới hôm nào còn hùng hổ kêu gọi “đập tan chủ nghĩa tư bản” nay lép bép phát ra lời “chúc làm ăn buôn bán phát tài”! Những cái đổi mới trông thấy và sờ thấy chỉ là mấy cái...bảng hiệu, được thay thế tiếng Việt thành tiếng Anh, to hơn, đẹp hơn và đàng hoàng hơn. Còn bên trong các nhà máy, các công ty lớn như điện nước, bưu điện, đường sắt, các cơ quan công quyền thì rơi vào tay các ông chủ mới.
Các ông chủ mới này, không phải bỏ một đồng vốn riêng, sẵn sàng vung vít tiêu xài, trả lương, phát thưởng, tha hồ “ban”, tha hồ “cho”, tha hồ vơ vét, bất khả kiểm soát... mãi mãi cho đến sau này trở thành “QUỐC NẠN” tức là THAM NHŨNG CÓ TỔ CHỨC!!!
Tóm lại, những người cộng sản bỗng bừng tỉnh, thấy mình trót bỏ phí cuộc đời để theo một lý tưởng ba lăng nhăng. Vậy thì tội gì mà không tương kế tựu kế, cứ phất cái ngọn cờ rách cộng sản lên mà lập thành một đảng mới, một đảng mafia, làm giầu cho mình và cho con cháu! Cuộc vơ vét bằng hết của cải, tài nguyên đất nước vào tài khoản của mấy thằng cộng sản to đầu nhất bắt nguồn từ những ngày chiếm được “viên ngọc Sài Gòn”. Cái trò đánh lận con đen, thay chủ nghĩa cộng sản đạo đức giả bằng chủ nghĩa tư bản đỏ đích thực bắt đầu từ đây.
Nhưng để chuẩn bị cho một loạt tư bản, tài phiệt thật ra đời, phải “đôn” ai lên thành tư bản thiệt...nếu không phải chính con cái, họ hàng của mười mấy tên tắc kè nhông cộng sản ở chính trong cái Bộ (vô) Chính Trị? Y hệt như thời các bí thư, các tay trùm KGB, các giám đốc nắm mọi cơ quan kinh tế của “thành trì cách mạng Liên Xô” trước khi sụp đổ.
Có điều ở Việt Nam, bọn trùm mafia ranh mãnh hơn nhiều. Chúng dùng cái thể chế sẵn có, xử dụng bộ máy chuyên chính sẵn có, đặc biệt là hủ hoá bằng hết những đảng viên, những tướng tá quân đội, công an và đặc biệt dùng hàng trăm tờ báo và đài phát thanh, truyền hình từ trung ương đến địa phương để bịt miệng bằng hết những người muốn nói thật về cái thể chế mà chúng đã có công thay đổi đến tận gốc.
Văn nghệ, cụ thể là cái nhà xuất bản văn nghệ của tôi, cũng như các nhà xuất bản khác, sống ngất ngư... Không còn một cân giấy để in, không một nhà in tử tế nào còn... mực. Thỉnh thoảng mới có một tập truyện ngắn với đề tài chiến tranh, một hồi ký, trong đó có cuốn hồi ký của tướng Trần Văn Trà vừa mới xuất hiện trên quầy sách được bị... thu hồi, được ra đời.
Một cách xuất bản “mới” lập tức ra đời: “liên doanh với tư nhân”. Đó là nhờ có chính sách “bung ra” của ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh. Gọi là liên doanh cho oai, chứ thực chất đây là bán giấy phép xuất bản cho tư nhân để lấy phần trăm hoa hồng, tiền này chủ yếu dùng vào việc trả lương cho những người trong biên chế của nhà xuất bản đã rỗng túi. Cùng với những đầu “sách liên doanh” và vài cuốn “sách cách mạng” nằm hóng bụi trên các quầy hàng, một làn sóng sách dịch, từ đứng đắn đến táp nham, “dịch thật” cũng như “dịch giả” ra đời. Đặc biệt là sách “chạy ngoài” do tư nhân làm ký tên nhà xuất bản thì không thiếu giấy tốt, mực đẹp, bìa láng, nhờ họ có những “tuy-ô”([37]) riêng để mua giấy, mua mực, kể cả nhập lậu, có cách trả tiền riêng, có nhuận bút cho tác giả hay dịch giả cao hơn hẳn chính sách lỗi thời về bản quyền của nhà nước.
Đi đến bất cứ sạp báo nào cũng thấy đầy những tên tuổi từ Victor Hugo, Hemingway ([38]) đến các nhà văn trinh thám J. Hadley Chase, thậm chí cả những ngọn bút chống cộng khét tiếng hoặc dâm ô có hạng như Gérard De Villier, Jacqueline Suzane, Ken Follet... đều được các nhà xuất bản từ trung ương (thường là chi nhánh miền Nam) đến địa phương (các thứ nhà xuất bản Sài Gòn, Tiền Giang, Hậu Giang, Cà Mâu, Đồng Nai…) ào ào cho ra đời, đôi khi cùng một tác phẩm, chỉ khác có cái tên. Đơn giản vì các ông tổng biên, phó biên và biên tập viên chẳng biết một chữ Tây nào mà lại lao vào con đường duyệt sách dịch nên các dịch giả láu cá đổi cái tên sách đi là hai bên đều có lợi! Miễn sao mỗi tháng ra được vài đầu sách là có tiền lương, tiền nhậu nhẹt, chia chác. Hơn nữa, cuối năm thành tích về số đầu sách xuất bản lại được ghi nhận bởi các cấp phụ trách xuất bản là... “cao hơn gấp cả 10, 20 lần so với năm trước!”
Tình hình xuất bản âm nhạc thì không còn kho dự trữ băng nào, không còn nhà “tư sản yêu nước” nào tiếp tục ủng hộ cách mạng nữa. Ông Hoàng Hiệp, người có tiếng nói về âm nhạc nặng ký nhất với anh Tư, anh Sáu đã... “bỏ của chạy lấy người”, chỉ còn lại mình tôi, một nhạc sĩ được tạm làm nghề... biên tập sách dịch!
Của đáng tội, cũng nhờ cái “tạm” này mà tôi lại một lần nữa thấy được nghề âm nhạc gay go phức tạp, khó khăn (và cả khó ăn) đến mức nào, trong khi nghề dịch sách vừa có tiếng lại có miếng, thậm chí dịch giả hạng bét cũng có thể ra được vài ba cuốn trong một năm, đủ sống lè phè ở thời điểm cuối thập niên 1980 và đầu 1990.
Tôi thành người biên tập duy nhất có hai ngoại ngữ để có thể đọc và phát hiện sự láo khoét, bịp bợm trong đống bản thảo dịch hổ lốn mà các đầu nậu mang đến “xin” nhà xuất bản Nhà Nước đứng tên, đóng dấu. Tôi phát hiện ra những trùng lặp do cố ý đổi tên sách, những cắt xén, bịa đặt thậm chí dịch ngược hoặc chẳng dịch gì mà viết theo nội dung từng chương một của nguyên bản cũng như chuyện ba xu viết theo phim Hồng Kông.
Từ chỗ dồn hết khả năng và thời giờ để hiệu đính, sửa chữa...tôi bỗng nảy ra ý nghĩ: “Tại sao mình không tranh thủ lúc âm nhạc đang bế tắc này mà chuyển sang nghề dịch, vừa ích nước lại lợi nhà”! Cụ thể là một cuốn sách dịch lúc bấy giờ, số xuất bản đến 25, 50 ngàn bản, dù đầu nậu có “bóc lột”, có khai khống số lượng, mỗi “dịch giả” hay “dịch thật” đều được trả một khoản đủ mua chiếc xe Honda 50 tức gấp 10 thu nhập lương/tháng.
Thế là tôi đóng cửa dịch sách!
Hai năm trời, dưới tên thằng cháu nội Tô Hải Anh, tôi được các nhà xuất bản, các đầu nậu tung ra thị trường một loạt sách vừa nghiêm túc (như Bug Jargal của Hugo) vừa “best-seller” (như Night out của J.H.Chase) và tôi bỗng nhận ra rằng bao cố gắng để cập nhật kiến thức qua sách báo ngoại quốc, bao đêm đội nón, lội mưa đi học thêm tiếng Anh, bao sự liều lĩnh để được đọc, được xem những gì suốt gần 30 năm không được phép sờ mó tới (tôi là người đầu tiên cầm thẻ thư viện Pháp do ông giám đốc người Pháp ký), đã bắt đầu phát huy tác dụng cụ thể.
Từ người nghèo nhất trong số văn nghệ sĩ cách mạng, không nhà riêng, không xe máy, tivi, tủ lạnh, chỉ “trần xì” sống bằng đồng lương èo uột mỗi ngày một mất giá, tôi đã có điều kiện “tiến lên tư bản chủ nghĩa”, sắm được cho mình một số “tư liệu sản xuất” như đàn piano, dàn máy, tivi mầu, xe máy! “Tay trái khoẻ hơn tay phải”, “chân ngoài dài hơn chân trong” là như vậy!
Tuy nhiên tôi vẫn thấy ngượng vì mang tiếng nhạc sĩ mà phải sống bằng nghề của người khác. Do đó tôi chưa bao giờ dám ký tên thật cũng như sau này, với 5 năm làm báo, làm sách, tôi cũng chỉ ký dưới tên Kính Viễn Vọng, T.H, Hải Anh, Anh Hải, trên các trang mà tôi “đứng mục” hàng tuần: “Chuyện lạ văn hoá nghệ thuật thế giới”.
Cái “tay phải”, cái “chân trong”, của tôi gần như tê liệt trong khi các đầu nậu từ Cửu Long, Đồng Tháp, từ Hà Nội vào ký hợp đồng và tạm ứng cho tôi tới mức...chỉ có về hưu thì may ra mới đủ thời gian thực hiện. Và tư tưởng “Au revoir” ([39]) Nhà Nước trong tôi lại nhen nhúm.
Chính vào thời gian tôi quyết quên đi những gì đang diễn ra trên “đấu trường âm nhạc” là lúc bùng nổ các bài hát nước ngoài và sau đó là sự tái chiếm trận địa của các băng nhạc gọi là “hải ngoại”. Tới đâu cũng thấy người ta công khai nghe băng từ Elvis Phương đến Tuấn Vũ, Hùng Cường... thậm chí trên các sân khấu ca nhạc. Người ta hát cả những bài ca của “lính cộng hòa” (trước đây mà hát thế chỉ có…chết) như trường hợp ca sĩ Ngọc Sơn nổi danh một thời, bị ra toà, nhưng rồi được phục hồi và tiếp tục “quậy”! Các bài hát cách mạng câm tiếng. Ngay trong các gia đình cách mạng người ta cũng chẳng xài sản phẩm của các nhạc sĩ cách mạng.
Của đáng tội cũng có lác đác vài mưu toan chuyển hướng về nội dung và hình thức, nhưng chúng chưa kịp cất tiếng chào đời thì giữa hàng ngũ các nhạc sĩ cách mạng của cả hai miền đã diễn ra cuộc “khỉ vặt lông khỉ”, đành chịu chết từ trong trứng. Trong trường hợp ấy lẽ tự nhiên quần chúng phải tự đi tìm lấy món ăn tinh thần hợp “gu” ở chỗ khác.
Đơn giản thế thôi!
Các ông bỏ trận địa thì chúng tôi chiếm! Âu cũng là một dị bản của quy luật “hủy thể của hủy thể” mác-xít.
Chưa bao giờ cái lý luận “Mác-Lênin-Mao…Chế Thùng” trong văn nghệ bị thực tế xã hội dồn vào chân tường như những ngày này, cho dù các nhà “lý luận cùn”, “lý luận cơ hội”, “lý luận ba xu” uốn cong ba bảy lần cái lưỡi. “Văn nghệ phục vụ Đảng” đã gióng lên hồi chuông báo tử! Việc ông, ông cứ phán, việc tôi, tôi cứ làm! Văn nghệ miền Bắc cũng như miền Nam cứ tự do như không khí, kể cả tự do “loạn xà ngầu”, mặc sức phát triển!
Các “ông trên” cứ việc “uốn nắn”, các biện pháp mạnh cứ việc áp dụng: đóng cửa, rút giấy phép vài nhà xuất bản, cách chức ông, này, ông nọ.., văn nghệ vô sản hiển nhiên bị gạt khỏi đời sống xã hội bởi chính sức mạnh của cuộc sống, bởi chính bánh xe lịch sử...
Xét cho cùng, chính đây là cuộc “đấu tranh ai thắng ai” mà chủ nghĩa cộng sản gọi là “diễn biến hòa bình!” Nó không có tiếng súng, nhưng vô cùng ác liệt khi đảng cộng sản nắm toàn bộ quyền bính muốn biến đất nước thành một trại lính khổng lồ, biến mọi công dân thành những người máy ngoan ngoãn, dễ bảo, bắt mọi người phải suy nghĩ, hành động, yêu thương, thù ghét, đọc sách, xem phim theo những gì Đảng đã ra “nghị quyết”!
Cuộc chiến không tiếng súng này không thể kết thúc kiểu Nhân Văn Giai Phẩm những năm 1956-1960 nữa rồi. Vụ án bẩn thỉu bị cả thế giới lên án đã rành rành là một vết nhơ trong lịch sử mà chính các vị lãnh đạo giờ đây cũng tránh nhắc tới. Chẳng còn bùa phép, lý luận nào, dù ông Mác, ông Lê, ông Xít, ông Mao có sống lại cũng không thể bào chữa cho các sai lầm và tội ác ở hàng loạt các nước có Đảng Cộng Sản lãnh đạo!
Đã thế, thời cơ ngày càng không thuận lợi.
Phía Bắc, ông hàng xóm to béo, ông anh hai Đặng Tiểu Bình đã xua quân “dạy cho Việt Nam một bài học.” Phía Tây Nam, đồng chí Polpot ([40]) được đồng chí Đặng, đồng chí Ceaucescu động viên đã trở mặt đánh thẳng vào “cái đuôi của Liên Xô”. Anh Ba Duẩn đã hết đường đóng vai... ba phải mà phải ngả hẳn về phía Liên Xô!
Chính trị xoàng như tôi còn nhận định được tình hình để kiếm đường sống, huống hồ mấy ông chính trị cơ hội, mấy anh không đội chung trời với cộng sản ở cả hai miền làm gì mà chẳng tìm cách thụi những quả đấm ngầm, hoặc “vùng lên” trong mọi lãnh vực? Hèn kém nhất thì “kệ mẹ sự đời”, tích cực hơn thì tìm đường giã từ cộng sản bằng cách chuồn ra nước ngoài.
Chính vào thời gian này, giới văn nghệ cách mạng ở miền Bắc cũng adieu Tổ Quốc nhiều nhất bằng ngả Hải Phòng - Quảng Ninh - Hong Kong rồi qua Canada, Mỹ, Pháp. Những người còn lại thì mạnh ai nấy sống, mạnh ai nấy viết và... Wait and See! ([41])
Vâng! Tất cả đã có câu trả lời vào những ngày tôi bắt đầu viết cuốn hồi ký này, những ngày “tiền đổi mới” rồi “đổi mới”, những ngày mà vận mệnh dân tộc cùng với nền văn nghệ tả pí lù này sẽ đi đâu, về đâu, dưới bàn tay chèo lái của mấy ông hoạn lợn, cai đồn điền!
Đó là những ngày chính những những đồng chí đáng kính, đáng noi gương ở bên đất tổ của cái tà giáo sống dai như đỉa nhờ lưỡi lê, họng súng và nhà tù, đã cùng nhân dân hè nhau kéo đổ và đập nát mọi thần tượng Mác-Lênin xuống, đái ỉa vào chúng và chôn vùi chúng trong bãi rác lịch sử. Chẳng cần một đế quốc nào mang quân tới, chẳng đổ một giọt máu nào, (trừ trường hợp vợ chồng bạo chúa cộng sản Ceaucescu ở nước Rumania), tất cả cái “trường thành cộng sản”, theo nhau đổ sập cùng với “bức tường ô nhục” Berlin!
Nhân dân ở ngay các hang ổ tà giáo cộng sản đã cùng đứng lên đòi quyền được sống, được làm việc, được mở miệng... như ở mọi nước bình thường trên thế giới.
Trong biến cố chính trị lớn nhất lịch sử loài người này, có một nhân vật mà tôi đặc biệt quan tâm và hết sức cảm phục, một nhà văn nghệ chống cộng đến cùng, dù bị cầm tù vẫn không ngừng dùng ngòi bút truyền niềm tin “Chủ nghĩa cộng sản đang giãy chết!” đến cho mọi người là Vaclav Havel, nhà viết kịch ở Tiệp khắc. Quả là niềm tin đặt vào ông của tôi không nhầm. Trong lúc ở mọi nước sau khi mai táng cái xác thối chủ nghĩa cộng sản đều rơi vào những cơn khủng hoảng kéo dài thì từ nhà tù ra, ông “phải” nhận một nhiệm vụ bất đắc dĩ: Tổng thống nước Tiệp Khắc, điều mà ông không muốn. Nhưng trước lòng tin yêu và tín nhiệm tuyệt đối của những nhà chính trị mọi mầu sắc và của nhân dân, ông đã phải hy sinh nghề cầm bút, đảm nhiệm nó suốt hai nhiệm kỳ! Thành tích lớn nhất của ông là giải quyết êm thấm chuyện tách rời hai nước Tchèque và Slovakia mà không rơi vào thảm cảnh nồi da xáo thịt như ở Nam Tư, Liên Bang Nga bằng con đường lý luận của... con tim! Hai dân tộc này tách rời về mặt cơ cấu nhưng về thể chế chính trị thì tách hay không vẫn chẳng kình chống, hầm hè nhau bao giờ.
Đáng buồn thay cho dân tộc Việt Nam hình đất nước lại bị “thắt đuôi chuột” mà ông bạn tôi, nhà sử học (giả) kiêm tử vi tướng số (thật) Trần Quốc Vượng ([42]) đã nói nửa đùa nửa thật: “Còn lâu! Còn lâu lắm nước này mới mở mày mở mặt được”.
Lý do theo ông là:
— 1/ Dân mình nghèo quá, khổ quá, chết chóc tang thương nhiều quá, đặc biệt ít học quá dễ bị “ăn bánh vẽ” nên chẳng có cách nào làm chuyện thần kỳ biến cuộc mít tinh mừng quốc khánh cộng sản thành ngày lật đổ một thể chế cai trị bằng súng đạn và nhà tù như ở Albanie?...
— 2/ Không có đội ngũ “élitisme” ([43]) mà chỉ có dăm ba tay “ê-li-tịt” chẳng ai chịu ai, ai cũng cho mình là số dzách cả!
Với tôi, tôi xin thêm điều này: Khó thể có gì thay đổi về chính trị ở cái đất nước này nếu cái ĐÊ NGĂN SÓNG KHỔNG LỒ phía Bắc, cái nước Trung Hoa vĩ đại, với những tên Tần Thủy Hoàng hiện đại không sụp đổ.
Thực tế đã trả lời: chẳng có biểu tình, chẳng có đả đảo, chẳng có một Eltsine nào, càng không thể có một Vaclav Havel đứng ra kêu gọi dân chúng xuống đường trong cái dịp ngàn năm có một đó!
Mãi sau này mới xuất hiện vài người như Trần Độ, Đặng Quốc Bảo, Trần Xuân Bách ([44]) thì lại chưa có cái xe tăng nào để leo lên mà hô hào quay nòng súng về Nhà Trắng - Viện Duma Nga. Họ chưa kịp làm gì thì đã bị cái “Đảng cộng sản đổi mới” bịt miệng ngay lập tức!
Vâng! Chính cái Hèn của dân tộc tôi và cái quỷ quyệt của bọn cầm quyền đầu não dùng cái mê cung Đổi Mới xảo trá có tên “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã đưa cả dân tộc Việt Nam tiếp tục sống dưới quyền cai trị độc tài vô học cho tới những ngày bước sang thế kỷ 21 này. 
 
Chú thích:
([1]) Những người này không hề được vào danh sách đi B để qua năm bảy cửa duyệt. Họ bám theo các sư đoàn, quân đoàn mới thành lập vội vã nghiễm nhiên đi B bằng…ôtô, thẳng đường số I, chẳng cần quyết định của ông Đặng Thí, trưởng ban Thống Nhất (Tác giả chú thích).
([2]) Lưu trữ trong CD.2
([3]) Nhạc và lời Phạm Tuyên.
([4]) Cách gọi những cán bộ từ chiến khu (rừng) về.
([5]) Phạm Trọng Cầu (1935-1998). nhạc sĩ nổi tiếng với những ca khúc Mùa thu không trở lại, Cho con. còn có bút danh Phạm Trọng, được ông xử dụng tại miền Nam trước 1975.
([6]) Tự học (tiếng Pháp).
([7]) Những bài tập piano vỡ lòng.
([8]) Joseph-Maurice Ravel (1875-1937), nhạc sĩ sáng tác và danh cầm piano thuộc dòng nhạc ấn tượng.
([9]) Achille-Claude Debussy (1862-1918) nhạc sĩ sáng tác người Pháp cùng thời với Ravel.
([10]) Viết tắt tên Tổng Cục Quản Lý Các Trại Cải Tạo Lao Động Glavnoye Upravleniye Ispravitelno-trudovykh Lagerey i kolonii.
([11]) George Gershwin (1898-1937), nhạc sĩ nổi tiếng người Mỹ, những công trình sáng tác và lý thuyết âm nhạc của ông thường được viết với sự cộng tác của người anh là Ira Gershwin.
([12])  Nhà của tôi (tiếng Pháp).
([13]) Xuân Hồng (1928-1996), nhạc sĩ nhạc “đỏ”,  nổi tiếng với các ca khúc Bài Ca May Ao, Xuân Chiến Khu, Tiếng Chày Trên Sóc Bom Bo, Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh, Mùa Xuân Bên Cửa Sổ...
([14]) Bảo Định Giang (1919-2005) tên thật Nguyễn Thanh Danh, nhà thơ, “nổi tiếng” với hai câu: Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ. 
([15]) Azis Nexin (1898-1995), nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ, được độc giả Việt Nam biết đến qua tập truyện ngắn Nếu Tôi Là Đàn Bà.
([16]) Hoàng Tố Nguyên, tên thật Lê Hoàng Mưu (1929-1975), nhà thơ.
([17]) Lưu Quý Kỳ là người phụ trách văn nghệ miền Nam trước năm 1954, nổi tiếng về vụ cấm hát cải lương. Tập kết ra Bắc Lưu Quý Kỳ giữ chức phó giám đốc Sở Báo Chí.
([18]) Xin tìm đọc bài Đoàn Giỏi chửi ông già Phan Khôi, hoặc nhật ký Trần Dần, Lê Đạt để thấy cái nông trường Quảng Ninh của anh em văn nghệ sĩ miền Nam đối xử với nhóm người bị cải tạo ở đó thế nào (Chú thích của tác giả).
([19]) Paul Joseph Goebbels (1897-1945), bộ trưởng bộ Tuyên Giáo của Đức từ 1933 đến 1945. Phương châm tuyên truyền của Goebbels: “Cứ nói mãi, nói mãi, sự giả sẽ được tiếp nhận như sự thật”.
([20]) Phạm Trọng Cầu (1935-1998), nhạc sĩ, tác giả ca khúc được nhiều người biết đến: Mùa Thu Không Trở Lại.
([21]) Hai hoạ sĩ VNCH từng được nhiều giải thưởng ở miền Nam.
([22]) Anh Đức, tên thật Bùi Đức Ái (1935), nhà văn, từng được nhiều giải thưởng văn học của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. 
([23]) Don Quijote de la Mancha, tên nhân vật hiệp sĩ đánh nhau với cối xay gió (một công việc vô ích) trong cuốn truyện nổi danh của Miguel de Cervantes Saavedra (Tây Ban Nha),
([24]) Clark Gable (1901-1960), diễn viên thượng thặng của điện ảnh Mỹ, được mệnh danh là “Ông vua Hollywood.
([25]) Lê Yên, tên thật Lê Đình Yên (1917-1998), nhạc sĩ sáng tác, một trong những nhạc sĩ của dòng tân nhạc đầu tiên ở Việt Nam.
([26]) Lúc này chưa có máy bay dân dụng ở miền Bắc mà vẫn phải sử dụng Việt Nam Air Lines của miền Nam, do phi công “ngụy” lái.
([27]) Đỗ Mười (1917) tổng bí thư ĐCSVN từ 1991 đến 1997.
([28]) Nikolai Vasilievich Gogol (1809-1852) nhà văn Nga gốc Ukraina
([29]) Alexander Sergeevich Pushkin (1799-1837), nhà thơ lớn trong lịch sử văn học Nga.
([30]) Lev Nikolayevich Tolstoy (1828-1910), một trong những nhà văn lớn nhất trong lịch sử văn học Nga.
([31]) Anton Pavlovich Chekhov (1860-1904), nhà văn, nhà soạn kịch, được coi như một trong những nhà văn chuyên viết truyện ngắn vĩ đại nhất trong lịch sử văn học thế giới.
([32]) Albert Camus (1913-1960), nhà báo, triết gia người Pháp gốc Algeria, khôi nguyên Nobel năm 1957
([33]) Alain Robbe-Grillet (1922-2008), nhà văn, đạo diễn người Pháp, một trong những người đi đầu trong trường phái Tân Tiểu Thuyết; được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp năm 2004.
([34]) Từ marmite (nồi cơm, tiếng Pháp), nhái âm Marxisme.
([35]) Thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cho phép tư nhân buôn bán, hành nghề (1985).
([36]) Nguyễn Văn Linh, tên thật Nguyễn Văn Cúc, bí danh Mười Cúc  (1915-1998), tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1986 đến 1991.
([37]) Tiếng Pháp: Tuyau = nguồn riêng, “cửa” (tiếng lóng mới).
([38]) Ernest Miller Hemingway (1899-1961), nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Mỹ. 
([39]) Au revoir = Chào từ biệt –– tiếng Pháp.
([40]) Polpot, tên thật là Saloth Sar (1925-1998), lãnh tụ cộng sản Cam Bốt (Khmer Đỏ), thủ tướng nước Kmer Dân Chủ từ 1976 đến 1979.
([41]) Chờ xem! (tiếng Anh).
([42]) Trần Quốc Vượng (1934-2005), giáo sư, nhà sử học.
([43]) Élitisme, tiếng Pháp chỉ tầng lớp tinh hoa của một đất nước.
([44]) Trần Xuân Bách, tên thật Nguyễn Thiện Tuấn (1924-2006), từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ban lãnh đạo ĐCS, có thời làm uỷ viên Bộ Chính Trị. Bị khai trừ khỏi mọi chức vụ vào năm 1990 vì những phát biểu đòi hỏi phải có một thể chế xã hội khác thể chế hiện hành, đa nguyên, đa đảng.