Dịch giả: Đặng Ngọc Long
- 23 -

106

 
 
Khi loạt đạn đầu tiên của đoàn tàu chiến Mỹ vang lên, Rôlinh đang đứng trên gác sân, bên trên cái cầu thang chạy lần xuống nước. Y rút tẩu thuốc khỏi miệng và lắng nghe tiếng rú rít của loạt đạn: ít nhất là chín mươi quả đạn pháo chứa đầy thuốc nổ và hơi ngạt đang lao thẳng về phía đảo, đang lao thẳng vào óc Rôlinh. Chúng gầm rú một cách đắc thắng. Tim y hình như không chịu nổi những âm thanh đó. Y lùi về phía cửa ra vào trong bức tường đá. (Y đã chuẩn bị từ lâu một chỗ trú ẩn cho y ở hầm nhà nếu hòn đảo bị pháo kích). Loạt đạn pháo nổ tung ngoài biển, làm bắn tóe lên những cột nước. Chúng không bay được tới đích.
 
Khi ấy, Rôlinh liền ngước nhìn đỉnh ngọn tháp. Garin đã có mặt ở đó từ tối qua. Chiếc vòm tròn trên tháp đang quay - có thể thấy rõ như vậy căn cứ theo các khe chạy dọc, Rôlinh đeo kính không gọng lên, chăm chú nhìn. Chiếc vòm quay rất nhanh - hết sang phải lại sang trái. Khi chiếc vòm quay sang bên phải, có thể thấy rõ nòng bộ máy phát tia sáng lấp lánh chạy lên chạy xuống.
 
Điều khủng khiếp nhất là vẻ gấp gáp của Garin trong lúc điều khiển bộ máy. Và không khí im ắng nữa. Không có một âm thanh nào trên đảo.
 
Nhưng rồi, từ ngoài biển đã vọng đến một tiếng trầm đục, lan rộng, dường như tiếng bong bóng nổ vỡ trên trời. Rôlinh sửa lại chiếc kính không gọng trên mũi ướt đẫm, nhìn về phía đoàn tàu chiến Mỹ. Tại đây, ba đám khói dày đặc màu vàng nhạt bốc lên như ba chiếc nấm khổng lồ. Phía bên trái ba đám khói ấy là mấy cột khói cuồn cuộn bốc lên, phồng to ra, đỏ rực rồi biến thành chiếc nấm thứ tư. Ngay tiếp đó vọng đến tiếng ầm ầm thứ tư to như tiếng sấm.
 
Chiếc kính không gọng rơi khỏi mũi Rôlinh nhưng y vẫn dũng cảm đứng nhìn những nấm khói dựng lên ở chân trời, nhìn toàn bộ tám tuần dương hạm Mỹ bị nổ tung.
 
Trên đảo, trên biển và trên trời lại trở nên yên tĩnh. Chiếc thang máy ở tháp chạy vụt từ trên xuống. Cửa nhà đóng sập lại, vang lên tiếng huýt sáo lạc giọng điệu phốcxtơrốt, rồi Garin chạy ra góc sân. Khuôn mặt y mệt mỏi, phờ phạc, tóc dựng đứng lên.
 
Không nhân thấy Rôlinh, Garin bắt đầu cởi quần áo rồi theo bậc thang xuống sát tận mặt nước, lấy chân thử xem nước ấm hay lạnh và bơi ra. Nhưng y lập tức quay lại, lên bờ, và chỉ khi đó mới trông thấy Rôlinh.
- Kìa! - y kêu dài giọng - Ông cũng định tắm hay sao đấy? Nước lạnh quá đi mất.
Đột nhiên y cười vang, vơ lấy quần áo rồi vừa vung vẩy vừa bước vào nhà.
Khi mở chiếc cửa lớn bằng đồng, y quay lại:
- Ông bạn già ạ, ta đi ăn sáng đi. Ta phải mở một chai sâm banh mới được.
 

 

107

 
Điều lạ lùng nhất trong thái độ tiếp theo đây của Rôlinh là việc y ngoan ngoãn lẽo đẽo đi ăn sáng. Quanh bàn ăn, ngoài Garin và Rôlinh, chỉ có thêm Dôia, ả tái nhợt và lặng lẽ vì nỗi xúc động vừa trải qua. Khi ả đưa ly lên miệng thì miệng ly chạm lanh canh vào hàm răng đều đặn trắng bóng của ả.
 
Rôlinh thì dường như sợ mất thăng bằng, y căng thẳng nhìn vào một điểm, đó là chiếc nút chai bằng vàng tạc hình bộ máy khủng khiếp nhất mà mới vài phút trước đây đã phá tan mọi khái niệm cũ của Rôlinh về sức mạnh, về sự hùng mạnh.
 
Garin, với mái tóc mới không chải và mặc chiếc áo véttông nhàu nát, sau khi uống liền một hơi mấy ly rượu, đang vừa ba hoa một chuyện vớ vẩn gì đó vừa nhai sò.
- Mãi đến bây giờ tôi mới hiểu mình đói đến mức nào.
- Anh đã làm việc rất có hiệu quả đấy, - Dôia khẽ nói.
- Đúng thế. Thú thật là đã có giây phút anh cảm thấy hơi hoảng sợ, khi chân trời bao phủ đầy khói đại bác... Dù sao thì họ cũng đã đi trước anh một bước... Cái bọn quỷ quái ấy. Chỉ cần chúng tiến gần thêm chút nữa thôi thì cả hòn đảo sẽ tan thành tro bụi...
Y uống thêm một ly rượu nữa, và mặc dù y nói là y đói, nhưng y vẫn lấy khuỷu tay gạt người hầu bàn đem thức ăn đến.
- Thế nào, ông bạn già? - y bất ngờ quay sang phía Rôlinh, và không cười nữa, nhìn chằm chằm vào Rôlinh, - đã đến lúc chúng ta cần nói chuyện nghiêm chỉnh rồi. Hay ông bạn vẫn còn chờ những ấn tượng chấn động hơn?
Rôlinh nhẹ nhàng đặt dĩa và chiếc móc bạc để khều sò xuống đĩa rồi cụp mắt xuống.
- Ông cứ nói đi, tôi nghe đây.
- Đáng lẽ phải như vậy từ lâu rồi chứ... Tôi đã hai lần đề nghị ông hợp tác. Tôi hi vọng là ông còn nhớ? Nhưng tôi không trách ông đâu; ông không thuộc loại biết suy nghĩ mà chỉ biết húc bừa đi như trâu ấy. Bây giờ tôi lại đề nghị ông hợp tác một lần nữa. Ông ngạc nhiên ư? Tôi sẽ giải thích cho ông nghe. Tôi là nhà tổ chức. Tôi sẽ cải tạo lại toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa kềnh càng, nặng nề, đầy những thành kiến ngu ngốc của các ông. Ông hiểu chứ? Nếu tôi không làm được việc đó thì bọn cộng sản sẽ ăn tươi nuốt sống các ông và sẽ thích thú nhổ nước bọt nữa là khác. Chủ nghĩa cộng sản không phải là thứ duy nhất trên đời mà tôi căm ghét... Tại sao? Nó hủy diệt tôi, Piốt Garin, hủy diệt cả một vũ trụ ý đồ trong óc tôi... Ông có quyền hỏi: vậy thì tôi cần đến ông để làm gì, khi dưới chân tôi là nguồn vàng vô tận?
- Đúng thế, - Rôlinh khàn khàn nói.
- Ông bạn ạ, ông hãy uống ly rượu gin[1] với ớt Cayen[2] đi, sau đó trí tưởng tượng của ông sẽ sinh động hơn. Chẳng lẽ ông lại có giây phút nào nghĩ rằng tôi định biến vàng thành phân bón hay sao? Quả thật, tôi sẽ tổ chức vài ngày nóng bỏng cho nhân loại, khi một cân vàng trong tay họ chỉ đáng giá mấy xu.
Rôlinh đột ngột ngẩng đầu lên, cặp mắt mờ đục của y lóe lên đầy vẻ trẻ trung, miệng y há ra thành một nụ cười méo xệch...
- Ái chà! - y kêu lên.
- Ồ, đúng thế đấy. Cuối cùng ông hiểu rồi chứ?... Và khi ấy, vào những ngày vô cùng kinh hoàng ấy, chúng ta - tức là tôi, ông và ba trăm con trâu như ông, hoặc ba trăm tên khốn kiếp cỡ thế giới, hoặc ba trăm ông vua tài chính, ông muốn gọi thế nào thì gọi, - chúng ta sẽ nắm lấy cổ họng thế giới... Chúng ta sẽ mua tất cả các xí nghiệp, các nhà máy, các đường sắt, các máy bay và các tàu biển... Tất cả những gì chúng ta cần và thích hợp với chúng ta sẽ là của chúng ta. Đến lúc đó, chúng ta sẽ làm nổ tung hòn đảo cùng giếng mỏ này và sẽ tuyên bố rằng dự trữ vàng của thế giới là có hạn, vàng ở trong tay chúng ta và vàng được trả lại giá trị cũ của nó, tức là, là thước đo giá trị duy nhất...
Rôlinh lắng nghe, ngả người vào lưng ghế, cái miệng có mấy chiếc răng vàng của y há ra như mồm cá mập, mặt y đỏ tía lên.
Y cứ ngồi như vậy, không động đậy, cặp mắt nhỏ long lanh. Dôia thậm chí thoáng nghĩ: đòn giáng quá mạnh.
- Chà! - y lại kêu lên, - một tư tưởng thật táo bạo... Ông có thể hy vọng thành công được... Nhưng ông chưa lưu ý đến mối nguy hiểm của những cuộc đình công, những cuộc nổi loạn...
- Điều ấy được tôi lưu ý đến trước tiên, - Garin nói xẵng, - Bước đầu, chúng ta sẽ xây dựng các trại tập trung lớn. Tất cả những kẻ nào bất mãn với chế độ của chúng ta đều bị nhốt vào sau hàng rào dây thép gai. Sau đó, chúng ta sẽ thi hành bộ luật về "hoạn não". Như vậy, ông bạn thân mến ạ, ông có bầu tôi làm lãnh tụ không?... Ha ha! (Y bất chợt nháy mắt và trông thật đáng sợ).
Rôlinh cúi đầu, cau mày. Người ta đã hỏi y, y phải suy nghĩ.
- Ông Garin, ông cưỡng bức tôi phải không?
- Thế ông nghĩ sao, ông bạn thân mến? Tôi phải quì xuống van xin ông chắc? Nếu ông vẫn còn chưa hiểu rằng ông đã từ lâu chờ đợi tôi như chờ đợi một cứu tinh thì tôi cưỡng bức ông đấy.
- Tốt lắm, - Rôlinh nói với vẻ khinh bỉ và đưa bàn tay sần sùi qua bàn cho Garin.
- Tốt lắm, - Garin nhắc lại. - Các biến cố đang diễn ra hết sức nhanh chóng. Cần chuẩn bị sẵn cho lục địa tiếp nhận ý kiến của ba trăm ông vua. Ông hãy viết thư cho họ nói về toàn bộ sự điên rồ của các chính phủ đã phái hạm đội đến nhằm tiêu diệt hòn đảo của tôi. Ông hãy cố chuẩn bị cho họ đón nhận "cơn sốt vàng" đi. (Y bật ngón tay đánh toách, người hầu lập tức xuất hiện). Rót thêm sâm banh! Vậy thì, ông Rôlinh ạ, ta hãy cạn ly chúc mừng cho biến cố lịch sử vĩ đại...
Piốt Garin đã thỏa thuận với Rôlinh... Lịch sử đã bị giật dây cương, lịch sử đã lồng lên, bộ móng vàng kêu xoang xoảng trên sọ lũ người ngu ngốc.

 

108

 
Việc đoàn tàu chiến Mỹ bị hủy diệt ở Thái Bình Dương gây ra cho châu Mỹ và châu Âu một ấn tượng thật kinh hoàng, ghê gớm. Hợp chủng quốc Bắc Mỹ đã bị một hòn đảo làm rung chuyển trái đất. Các chính phủ Đức, Pháp, Anh và Ý bỗng tươi tỉnh lên: biết đâu đấy, nhỡ năm nay (và có thể là mãi mãi) sẽ không phải trả nợ lãi cho nước Mỹ béo nứt ra vì vàng thì sao? "Tên khổng lồ hóa ra là chân đất sét, - các báo viết, - chinh phục thế giới đâu phải chuyện đơn giản..."
Ngoài ra, những bản tin về các vụ cướp biển của chiếc "Aridôna" đã gây rối loạn trong ngành buôn bán đường biển. Các chủ tàu từ chối việc vận chuyển, các thuyền trưởng không dám đi qua đại dương, các hãng bảo hiểm nâng giá, trong hệ thống ngân phiếu xảy ra sự hỗn loạn, một vài hãng buôn bán bị phá sản. Nhật Bản vội vã đưa những loại hàng hóa kém phẩm chất và rẻ mạt vào các thị trường thuộc địa của Mỹ.
Trận hải chiến thảm bại đã khiến Mỹ mất những món tiền lớn. Uy tín, hay như người ta thường gọi, "niềm kiêu hãnh dân tộc" của Mỹ bị thương tổn. Các nhà công nghiệp đòi hỏi phải động viên toàn bộ lực lượng hải quân và không quân - quyết tiến hành chiến tranh đến cùng bằng bất kỳ giá nào. Báo chí Mỹ đe dọa sẽ không "gỡ băng tang" (tên các báo được lồng trong khung đen, điều đó gây được ấn tượng cho nhiều người mặc dù về mặt in ấn thì chẳng tốn kém là bao) cho đến khi Pie Hary bị nhốt trong lồng sắt chở đến Niu Yoóc và bị xử tử trên ghế điện. Ở các thành phố lan truyền những tin đồn khủng khiếp về bọn điệp viên của Garin dường như được trang bị những bộ máy phát tia loại bỏ túi. Đã xảy ra những vụ đánh đập những kẻ lạ mặt và những cơn hốt hoảng chốc lát trong các rạp chiếu bóng, các tiệm ăn và trên các đường phố. Chính phủ Mỹ trấn an bằng những lời lẽ đao to búa lớn, nhưng về thực chất chỉ bộc lộ nỗi bối rối đến tột độ. Chiếc tàu chiến duy nhất còn lành lặn sau cuộc hải chiến gần đảo Vàng - một chiếc tàu phóng ngư lôi - đã trình một bản báo cáo cho bộ trưởng chiến tranh với những chi tiết ghê gớm đến nỗi không ai dám công bố.
Tất cả những biến cố bất lợi ấy đã buộc chính phủ Mỹ phải triệu tập một cuộc hội nghị ở Oasinhtơn.
Khi ngày diễn ra hội nghị được công bố, tất cả các báo và đài phát thanh khắp thế giới đều nhận được thông báo cho biết rằng kỹ sư Garin sẽ đích thân đến dự buổi khai mạc.

 

109

 
Garin, Sécmắc và kỹ sư Sêphe đáp thang máy xuống đáy giếng mỏ chính. Bên ngoài cửa sổ bằng mica, thấp thoáng những dãy đường ống dài vô tận, những dây dẫn, những thiết bị gia cố, những băng nâng, những mặt bằng hẹp, những cửa sắt.
Họ đi qua mười tám vành đai của vỏ trái đất, mười tám lớp đất đánh dấu những thời kỳ biến đổi của hành tinh. Và bây giờ thang máy đang đưa họ qua lớp đất cuối cùng, thứ mười chín.
Garin sốt ruột cắn cắn móng tay. Cả ba đều im lặng. Ai cũng cảm thấy khó thở. Trên lưng mỗi người đều đeo thiết bị dưỡng khí. Vang động tiếng gầm rú của các bộ máy phát tia và những tiếng nổ.
Sêphe lấy một nắm bụi màu xám trong chiếc gầu xúc bay vụt qua. Garin nghiền nát nó trong long bàn tay. Y nôn nóng đòi đưa cho y chiếc bút chì rồi viết lên hộp thuốc lá:
"Xỉ nặng. Phún thạch".
Sêphe gật chiếc mũ chụp tròn. Họ thận trọng men theo rìa một mặt bằng chạy vòng và dừng lại trước một hệ thống đồng hồ to. Đó là những khí áp kế, chấn động kế, địa bàn, con lắc và đồng hồ đo điện từ.
Sêphe chỉ vào con lắc, cầm lấy hộp thuốc lá ở tay Garin và thong thả viết lên trên:
"Gia tốc trọng lực đã tăng lên chín phần trăm từ sáng hôm qua. Tại độ sâu này, gia tốc phải giảm xuống đến 0,98, nhưng chúng ta lại thấy gia tốc tăng đến 1,07..."
"Nam châm chăng?" - Garin viết.
Sêphe trả lời:
"Từ sáng hôm nay, các dụng cụ đo từ tính đứng ở số không. Chúng ta đã xuống dưới trường từ".
Tì hai tay vào đầu gối, Garin nhìn hồi lâu xuống dưới. Từ sáng nay, giếng mỏ bắt đầu đi vào vòng đai Ôlivin.

 

 

110

 
- Thế nào, sức khỏe cháu ra sao, Ivan?
Senga xoa đầu chú bé. Ivan ngồi trong căn nhà nhỏ của anh bên bờ biển, cạnh cửa sổ và nhìn ra đại dương.
Khi được đưa từ khí cầu máy về đây, Ivan gần như ngắc ngoải. Senga không rời em một bước. Nếu như không có anh trên đảo thì chưa chắc em đã sống nổi. Em bị rét cóng, bị cảm lạnh nặng, và thêm vào đó là tâm hồn em bị thương tổn: em tin vào người khác, em đã cố gắng hết sức, vậy mà chỉ chuốc lấy tai họa.
- Chú Senga ạ, bây giờ thì cháu chẳng về được Liên xô nữa, cháu sẽ bị kết án mất.
- Đừng nói vớ vẩn. Cháu chẳng có lỗi gì hết.
Khi Ivan bình phục, Senga bắt đầu thận trọng giải thích cho em biết về tình hình công việc và cũng như Taraskin hồi ở Lêningrát, anh thấy em sáng ý, chỉ cần nói nửa lời đã hiểu và tính tình rất kiên quyết, không khoan nhượng, theo đúng kiểu người Xô Viết. Nếu như em không buồn nhớ Lêningrát quá thì em quả là một chú bé vàng ngọc.
- Ivan này, - một lần Senga vui vẻ bảo em, - Chú sắp đưa cháu về nhà đấy.
- Cảm ơn chú.
- Chỉ có điều là trước hết phải làm một việc đã.
- Cháu sẵn sàng.
- Cháu leo trèo giỏi chứ?
- Hồi ở Xibia cháu đã từng trèo lên những cây bá hương cao đến năm mươi mét, cao đến nỗi không nhìn được mặt đất nữa.
- Khi nào cần chú sẽ bảo cháu phải làm gì. Và cháu đừng lang thang khắp đảo nữa. Cháu hãy lấy cần câu mà câu cầu gai còn hơn.
 

[1] Một thứ rượu đỗ tùng phổ biến ở Tây Âu và Mỹ - N. D.
[2] Một vùng ở Guyan thuộc Pháp - N. D.