CHƯƠNG V (B)
KHÉO DÙNG TIẾNG VIỆT

TÌM TIẾNG THẬT ĐÚNG
 
Chắc các bạn còn nhớ Giả Đảo, một nhà sư đời Đường cưỡi lừa đi thăm bạn, vừa đi vừa nghĩ được hai câu thơ:
 
Điểu túc trì biên thọ,
Tăng xao nguyệt hạ môn.
 
nghĩa là:
 
Chim đậu cây bến nước,
Sư gõ cửa dưới trăng.
 
Nhưng, Giả Đảo lưỡng lự không biết nên hạ tiếng “thôi” là đẩy hay tiếng “xao” là gõ, cho nên vừa đi vừa đưa một tay ra gõ rồi lại đẩy, mà không để ý đến xe của Hàn Dũ đi qua. Hàn Dũ, một danh sĩ và một đại thần đương thời, thấy vậy, sai lính lại hỏi, biết chuyện rồi khuyên hạ tiếng “xao”. Hai người quen nhau từ đó, và hai tiếng “thôi xao” đã được dùng để chỉ sự lựa chữ, sự đẽo gọt câu văn.
 
Lần khác, Giả Đảo làm được hai câu thơ:
 
Độc hành đàm để ảnh,
Sác tức thụ biên thân[1].
 
nghĩa là:
 
Đi một mình, bóng chiếu xuống đáy đầm.
Thỉnh thoảng dựa thân cây mà thở than.
 
mà phải than:
 
Nhị cú tam niên đắc,
Ngâm thành, song lệ lưu[2].
Tri âm như bất thưởng,
Qui ngoạ cố sơn thu.
 
Nghĩa là:
 
Ba năm mới làm được hai câu thơ,
Ngâm xong, hai dòng lệ chảy xuống.
Bạn tri âm nếu không thưởng thức,
Thì đành về nằm ở nơi ẩn cũ, trong núi.
 
Ba năm mới làm được hai câu thơ bình thường đó thì cũng quá, chả trách người đời chê Giả Đảo là quái đản cuồng vọng. Gọt đẽo câu văn đến như vậy thì không nên, nhưng trong khi viết, cũng nên nhớ lời sau này của Gustave Flaubert khuyên học trò của ông là Guy de Maupassant (cả hai đều là danh sĩ ở Pháp, đều ở trong phái tả chân và nổi tiếng về tài dùng chữ rất đúng):
 
“Dù người ta muốn nói điều gì đi nữa, cũng chỉ có một tiếng để diễn điều đó thôi, chỉ có một động từ để làm cho điều đó hoá ra có sinh khí và mỗi một tĩnh từ để tả nó. Cần phải kiếm được tiếng đó, động từ đó, tĩnh từ đó và đừng lấy làm mãn ý khi mới kiếm được những tiếng tương tự”.
 
Những lời khuyên dưới này giúp bạn tìm tiếng đúng.
 
1. Lựa một tiếng cụ thể.
 
Trừ những khi phải nói đến cái gì trừu tượng như: triết lý, tiến hoá, văn minh, văn hóa… còn thì phải rán kiếm những tiếng gợi những hình ảnh như vẽ ra trước mắt độc giả, làm cho họ như trông thấy, nghe thấy, ngửi, rờ, nếm được. Như vậy họ mới hiểu rõ, thưởng thức được tư tưởng của bạn.
 
Những thí dụ dưới đây chỉ cho bạn thấy tài dùng chữ của vài thi sĩ và văn sĩ:
 
- Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
 
- Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.
 
- Sương in mặt, tuyết pha thân
Sen vàng lững thững như gần như xa.
 
- Sè sè nắm đất bên đàng
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
 
- Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
 
Những câu đó đều của Nguyễn Du: thực là “thi trung hữu hoạ”.
 
Những chữ sắp xiên đó chính là những nét vẽ tuyệt diệu.
 
Lại như đoạn sau này nữa:
 
“Đứa trẻ sợ hãi quá, dúm cả hai chân hai tay lại như một con mãn sắp bị quăng xuống mặt đất”.

(Nguyễn Tuân)

 
“Chàng gà trọi đứng thẳng người, hai cái cẳng chân cứng và lẳn như hai thanh sắt, phủ đầy những vẩy lớn sắc vàng bóng. Đôi bắp thịt đùi chắc nịch, gân lên những thịt… Đầu chàng to và hung dữ như một chiếc nắm đấm. Cái cổ bạnh và hai bắp đùi để lộ ra. Da chàng đỏ găng, đỏ hắt, đỏ tía, đỏ bóng như có quét một lớp sơn thẳm”.

(Tô Hoài)

 
“Cái mặt của thị Nở thật là một sự mỉa mai của Hoá công; nó ngắn đến nổi người ta có thể tưởng tượng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má lại hóp vào, mới thật là tai hại: má phính phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn lại vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lấn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi. Có lẽ cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Đã thế, thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dầy được bồi thêm một lần; cũng may quyết trầu quánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Đã thế, những cái răng rất to lại chìa ra…”.

(Nam Cao)

 
2. Đừng nói những tiếng mơ hồ.
 
Đừng gọi nhà ngân hàng là một lâu đài, và nếu bạn muốn nói tới chiếc xe thổ mộ thì đừng dùng tiếng “xe ngựa”.
 
3. Đừng nói ở chung quanh hay nói quá.
 
Con mèo thì gọi là con mèo, đừng kêu là “ông Kẹ của loài chuột”. Lối tả người ăn mày và người bù nhìn của Lê Thánh Tôn bây giờ không hợp thời nữa.
 
4. Đừng dùng những tiếng sáo.
 
Có những tiếng mới dùng thì rất khéo, rất lạ, nhưng về sau nhiều người dùng quá, thành ra sáo, như: kim ô, vầng ngọc thố… Phải tránh những tiếng đó.
 
5. Phân biệt những tiếng lóng và những tiếng thanh nhã.
 
Trên kia tôi đã chỉ một vài tiếng lóng. Bất kỳ nghề nào cũng có những tiếng ấy. Nghề lái xe vận tải có những tiếng: “gió lớn” (có nhiều khách), “bị cò mổ” (bị lính phạt).
 
Nghề buôn bán có tiếng “nhảy dù” (buôn lậu). Trong giới học sinh có tiếng “trúng tủ”, “đánh phép”… Không thể nào diệt những tiếng đó được hết. Chẳng những vậy, có nhiều tiếng được mọi người dùng, thành tiếng thông thường, mất tính cách lóng đi, như tiếng “nhậu”, mới đầu là một tiếng lóng của bọn say sưa, bây giờ đã được văn nhân, thi sĩ dùng rồi. Nhờ vậy dụng ngữ của ta mới mỗi ngày mỗi giàu thêm.
 
Nhưng cũng không nên để tiếng lóng của nghề nghiệp lan tràn vào những khu vực khác, cho nên ta phải thận trọng lắm khi dùng một tiếng ấy. Chỉ khi nào nói chuyện với người trong nghề hoặc không còn dùng tiếng nào khác để diễn ta ý ta một cách đúng hơn được, thì mới nên dùng nó.
 
6. Hiểu rõ những tiểu dị giữa những tiếng đồng nghĩa.
 
Muốn dùng tiếng cho đúng, phải biết rõ nghĩa những tiếng đồng nghĩa và nên có cuốn Việt ngữ tinh nghĩa tự điển của Nguyễn Văn Minh.
 
Đừng nói “Tôi nhìn một cách âu yếm”, mà phải nói tôi “ngắm”; đừng nói “nghiêng mắt mà nhìn”, phải nói “nghé trông”; đừng nói “tôi thình lình thấy”, phải nói “tôi nhác thấy”… Còn những tiếng khác cũng đồng nghĩa với “thấy” như: trông, nom, nhìn, nhận, dòm, liếc, xem, coi… Bạn có thể phân biệt được hết những tiếng đó không? Rồi xin bạn kiếm những tiếng đồng nghĩa với “đổi”, “cắn”, “ăn”, “chép”, “nói”.
 
Ông Robert Louis Stevenson mỗi khi đọc một đoạn văn hay, rán bắt chước lối văn ấy. Cách đó có hại, vì như vậy văn ta thiếu phần đặc sắc (bắt chước người thì khó hơn được người), nhưng trước khi có một lối văn đặc sắc, chúng ta đều phải học lối hành văn của cổ nhân hoặc đàn anh đã.
 
Một việc nữa rất ích lợi là tập dịch những sách ngoại quốc và rán tìm tiếng Việt để diễn đúng tư tưởng của tác giả.
 
Sau cùng, ta thường nên tập nói. Nhiều viết rất trôi chảy hoa mỹ mà nói thì lúng ta lúng túng, như ríu lưỡi lại, mỗi khi đứng trước một đám đông. Nhưng mặc, cứ tập nói đi, lúc đầu còn rụt rè, sợ sệt, ít lần sau sẽ quen.
 
Học tập cho dụng ngữ được phong phú, không phải là công việc một năm, hai năm, mà là công việc suốt đời, luôn luôn phải gắng sức. Không lúc nào được ngừng hết. Victor Hugo, tác giả bộ Les Misérable, bắt đầu học tiếng Hi Lạp hồi năm mươi tuổi. Nhiều bạn chưa tới tuổi đó; vậy không thể nói rằng muộn quá rồi không học được nữa. Sau cùng, phải kiên nhẫn. Edison nói: “Thiên tài chỉ có năm phần trăm là cảm hứng, còn chín mươi lăm phần trăm là công phu”. Những danh nhân còn phải tốn công như vậy, huống hồ là chúng ta.
 
VIẾT VĂN CHO ÊM ĐỀM
 
Người Pháp nghe chúng ta nói tiếng Việt có cảm tưởng như chúng ta ca hát vậy vì tiếng của chúng ta có đủ những âm ngắn (như ất), dài (như mười), cao (như chính), thấp (như bột), trầm (như quả: có dấu ’ ), bổng (như viễn: có dấu ~ ).
 
Những âm của ta lại chia ra hai bực: bằng và trắc. Ta nghiệm thấy trong thơ của ta, như thơ “lục bát”, nếu bỏ những tiếng lẻ đi, chỉ kể những tiếng chẳng thì cứ một tiếng bằng lại tới một tiếng trắc, như:
 

Trăm năm trăm cõi người ta,

Chữ Tài, chữ Mệnh khéo ghét nhau.

 
Trong câu sáu: tiếng thứ hai là bằng; tiếng thứ tư là trắc; tiếng thứ sáu là bằng. Trong câu tám: tiếng thứ hai, bằng; tiếng thứ tư, trắc; tiếng thứ sáu và tiếng thứ tám, bằng.
 
Ông Hồ Hữu Tường, trong cuốn Lịch sử văn chương Việt Nam cho đó là khổ nhạc và ông nói: trong thơ “lục bát” cứ hai tiếng thành một khổ, còn trong lối thơ tám tiếng thì một khổ là ba tiếng:
 
Nay là lúc mang sức trâu mãnh liệt,
Giẫm gót cày, tàn phá hết ruộng nương.
Khơi mạch sống ở trong lòng đất chết,
Mở đường lên cho hạt thóc đang ương.
 
Trong khi nói, ta khó sắp đặt những tiếng cho du dương được. Nhưng khi viết, ta nên chú trọng đến những đặc điểm ấy. Nếu không chia mỗi câu thành nhiều khổ nhạc bằng với trắc được, thì cũng nên lựa tiếng sao cho khi đọc lên, người ta thấy cao thấp, bổng trầm và có một cảm giác êm đềm, thú vị.
 
Tất nhiên là cũng có khi phải hùng hồn, phải dùng những tiếng mạnh và kêu, nhưng đừng rỗng. Có khi câu văn lại phải có điệu trúc trắc, khó đọc. Ai chẳng nhận rằng câu:
 

Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh

 
của Nguyễn Du hay ở những tiếng: khấp khểnhgập ghềnh.
 
MỘT BÀI TẬP VỀ DỤNG NGỮ
 
Ai cũng nên biết những tiếng sau này. Trước hết bạn nên đánh dấu những tiếng bạn cho rằng biết rồi, sau bạn tra tự điển kiểm điểm xem nghĩa những tiếng đó có đúng với nghĩa của bạn cho nó không, nếu đúng lấy viết chì gạch bỏ đi. Còn những tiếng khác, bạn kiểm và ghi lại:
 
° ngữ nguyên của nó.
 
° những nghĩa thông thường của nó.
 
° những tiếng đồng nghĩa của nó.
 
Sau cùng, dùng mỗi tiếng đặt ra một câu:

[1] Bản Đồng Tháp in sai chữ hành thành hàng, bản Văn hoá Thông tin in sai 2 chữ ảnh, thân thành ánh, thán. Ở trên, tôi chép theo bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc của cụ Nguyễn Hiến Lê, Nxb Trẻ, 1997, trang 461 (bản này in sai thụ thành thu). Hai câu này, trong bộ đó, cụ dịch như sau: “Một đi bóng dưới nước, Thường nghỉ thân bên cây”. (Goldfish).
[2] Hai câu đầu này, trong Đại cương văn học sử Trung Quốc (sđd, trang 461, 462) chép là: Lưỡng cú tam niên đắc, Nhất ngâm song lệ lưu; và dịch là: “Ba năm thành lưỡng cú, Một ngâm lệ đôi hàng”. Trong bài Kỉ nguyên tiêu thụ và nghể viết văn (Bách khoa, số 285, 286, năm 1973), cụ Nguyễn Hiến Lê cũng chép: Lưỡng cú tam niên đắc, Nhất ngâm song lệ lưu; và dịch là: “ba năm làm được hai câu thơ, ngâm lên hai hàng lệ ròng ròng”. (Goldfish).