CHƯƠNG 7

    
ọ kéo tôi ra ngoài và đi tới góc phố, nơi một chiếc xe cảnh sát không gắn phù hiệu đang đợi sẵn. Dù sao thì nhiều người ở trong khu vực này có thể nhận ngay ra đó là một xe cảnh sát. Chỉ có cảnh sát mới lái những chiếc Crown Victoria khổng lồ vào lúc này, khi mà giá xăng đã tăng đến bảy đô một galông. Thêm nữa, chỉ có cảnh sát mới có thể đỗ xe cạnh một xe khác giữa phố Van Ness mà không bị bầy xe kéo hung tợn vây kín và luôn sẵn sàng bắt bạn tuân thủ luật đỗ xe không thể hiểu nổi của San Francisco, hòng kiếm được chút tiền thưởng vì đã bắt được xe bạn.
Gỉ Mũi hỉ mũi. Tôi đang ngồi ở ghế sau và anh ta cũng vậy. Đồng nghiệp của anh ta ngồi ghế trước, nhịp ngón tay lên một chiếc laptop xù xì, cổ kính, trông như thể chủ nhân thực sự của nó phải là Fred Flintstone(1) từ thời Đồ Đá vậy.
Gỉ Mũi xem xét kỹ chứng minh thư của tôi một lần nữa. “Chúng tôi chỉ muốn hỏi cậu vài câu hỏi theo thủ tục.”
“Tôi có thể xem phù hiệu cảnh sát của anh được không?” tôi hỏi. Những gã này rõ ràng là cảnh sát, nhưng cũng chẳng hại ai nếu tôi cho họ thấy tôi cũng am hiểu quyền của mình.
Gỉ Mũi giơ cái phù hiệu trước mặt tôi nhanh đến mức tôi chưa kịp nhìn gì, nhưng Zit, người ngồi ghế trước lại cho tôi nhìn kỹ phù hiệu của anh ta. Tôi có số hiệu khu vực của họ và nhớ bốn con số trên phù hiệu. Rất đơn giản: 1337 cũng là cách mà các hacker viết từ “leet”(2) hoặc “elite”(3).
Cả hai đều rất lịch sự và không ai tỏ ý đe dọa tôi như cái cách mà Cục An ninh Nội địa đã làm khi bắt giữ tôi.
“Tôi có bị bắt giữ không?”
“Cậu bị tạm giữ một lúc để chúng tôi có thể đảm bảo sự an toàn của cậu và của cả cộng đồng,” Gỉ Mũi đáp.
Anh ta đưa giấy phép lái xe của tôi cho Zit, Zit chậm chạp mổ cò nhập dữ liệu của nó vào máy tính. Tôi thấy anh ta gõ nhầm chữ và suýt nữa đã chỉnh lại, nhưng rồi tôi hiểu rằng tốt hơn hết là nên im mồm.
“Có gì mà cậu muốn nói với tôi không, Marcus? Mọi người có gọi cậu là Marc không?”
“Marcus được rồi,” tôi nói. Gỉ Mũi trông có vẻ là người tốt. Tất nhiên trừ việc anh ta vừa bắt cóc tôi vào trong xe.
“Marcus. Cậu có muốn kể gì cho tôi không?”
“Kể gì cơ? Tôi đang bị bắt giữ à?”
“Hiện tại cậu không bị bắt giữ,” Gỉ Mũi nói. “Cậu muốn thế sao?”
“Không,” tôi đáp.
“Tốt. Chúng tôi đã theo dõi cậu từ khi cậu rời khỏi BART. Thẻ đi tàu của cậu thông báo rằng cậu đã đến rất nhiều nơi kỳ lạ vào những thời điểm khác nhau.”
Tôi nhẹ cả người. Việc này không liên quan gì tới Xnet cả, không hẳn là vậy. Họ đã giám sát việc sử dụng tàu điện ngầm của tôi và chỉ muốn biết tại sao gần đây nó lại kỳ quặc như vậy. Thật là ngu ngốc.
“Vậy là các anh theo dõi bất cứ ai ra khỏi ga BART mà có lịch trình đi lại buồn cười à? Hẳn các anh phải bận rộn lắm nhỉ.”
“Không phải tất cả mọi người, Marcus. Chúng tôi được báo động khi có ai đó với hồ sơ di chuyển bất thường đi ra, điều đó giúp chúng tôi đánh giá xem có nên tra hỏi hay không. Trong trường hợp của cậu, chúng tôi tiếp cận cậu vì muốn biết tại sao một anh chàng sáng sủa thông minh như cậu mà lại có hồ sơ di chuyển buồn cười như vậy?”
Giờ đây, khi biết mình sẽ không phải vào tù, tôi cảm thấy bực bội. Những gã này không có quyền theo dõi tôi - Chúa ơi, BART không có quyền giúp họ theo dõi tôi. Điểm dừng quái quỷ nào đã tố giác tôi “di chuyển không đúng chuẩn mực” vậy?
“Tôi nghĩ là tôi muốn bị bắt giữ bây giờ,” tôi nói.
Gỉ Mũi ngồi xuống và nhướn mày nhìn tôi.
“Thật à? Vì tội gì?”
“Ồ, vậy ý anh là việc di chuyển bằng phương tiện công cộng không theo lịch trình thông thường không phải là một tội ác à?”
Zit nhắm mắt lại và dụi mắt bằng ngón tay cái. Gỉ Mũi thở dài một tiếng đầy dụng ý. “Nghe này, Marcus, ở đây chúng t&oci. Để khủng bố. Vì vậy tất nhiên chúng đã nhằm vào Cầu Vịnh khi mà cầu Cổng Vàng có đầy rẫy máy quay như thế - khi mà máy bay nào cũng bị dò kim loại và quét tia X-quang.” Tôi nghĩ thêm một lúc nữa, mắt đờ đẫn dõi theo những chiếc ô tô đang chạy trên đường, những người đang đi bộ trên vỉa hè, thành phố xung quanh tôi. “Những kẻ khủng bố không ghét máy bay hay cầu cống. Chúng yêu sự khủng bố.” Điều đó quá rõ ràng, đến mức tôi không thể nào tin là trước đây mình lại chưa từng nghĩ đến nó. Tôi đoán việc bị đối xử như một tên khủng bố trong vài ngày qua đã đủ để soi rọi lối tư duy của tôi.
Hai đứa bạn nhìn tôi chằm chằm. “Mình đúng phải không? Tất cả những thứ rác rưởi này, tia (X-quang) và máy nhận dạng này, chúng đều vô ích phải không?”
Họ gật đầu chậm rãi.
“Còn tệ hơn là vô dụng,” tôi nói, giọng tôi cao dần và vỡ ra. “Bởi vì cuối cùng chúng cũng ở trong tù với chúng ta, với Darryl...” Tôi đã không nghĩ về Darryl từ lúc chúng tôi ngồi xuống và giờ thì tất cả quay trở lại, bạn của tôi, mất tích, biến mất. Tôi ngừng nói và nghiến quai hàm.
“Chúng ta phải nói với bố mẹ,” Jolu nói.
“Chúng ta nên tìm một luật sư,” Vanessa nói.
Tôi nghĩ về việc kể lại câu chuyện của mình. Về việc kể cho cả thế giới biết tôi đã trở thành cái gì. Về những đoạn video không còn nghi ngờ gì nữa sẽ được tung lên, trong đó tôi đang khóc, khiến tôi chỉ còn là một con vật hèn hạ.
“Chúng ta không thể nói với họ bất cứ điều gì,” tôi nói không cần suy nghĩ.
“Ý cậu là sao?” Van hỏi.
“Chúng ta không thể được nói bất cứ điều gì,” tôi lặp lại. “Cậu đã nghe cô ta nói rồi đấy. Nếu chúng ta nói, họ sẽ đến tìm chúng ta. Họ sẽ đối xử với chúng ta như họ đã làm với Darryl.”
“Cậu đùa à?” Jolu nói. “Cậu muốn chúng ta...”
“Tớ muốn chúng ta chiến đấu,” tôi nói. “Tớ muốn được tự do cốt để có thể làm điều đó. Nếu chúng ta ra ngoài và bô lô ba la, người ta sẽ bảo chúng ta là những đứa nhóc dựng chuyện. Chúng ta thậm chí còn không biết mình bị giam giữ ở đâu! Sẽ không ai tin chúng ta. Rồi, một ngày, họ sẽ tìm tới chúng ta.
“Tớ sẽ nói với bố mẹ rằng tớ ở một trong những trại ở phía bên kia Vịnh. Tớ tới đó để gặp các cậu và chúng ta bị mắc kẹt, hôm nay mới thoát ra được. Báo chí đã nói vẫn còn người lang thang về nhà từ những trại này.”
“Tớ không thể làm thế,” Vanessa nói. “Sau tất cả những gì họ làm với cậu, làm sao cậu vẫn còn có thể nghĩ đến việc làm vậy chứ?”
“Nó đã xảy ra với tớ, đó chính là mấu chốt. Giờ thì đây là việc giữa tớ và bọn họ. Tớ sẽ đánh bại họ, tớ sẽ đưa Darryl trở về. Tớ sẽ không để lời nói dối này trở nên vô ích. Một khi bố mẹ chúng ta liên quan đến vụ này, chuyện thế là kết thúc. Sẽ không ai tin và không ai quan tâm. Nếu chúng ta làm theo cách của tớ, mọi người sẽ để ý.”
“Cách của cậu là sao?” Jolu hỏi. “Kế hoạch của cậu là gì?”
“Tớ cũng chưa biết nữa,” tôi thú nhận. “Hãy cho tớ thời gian đến sáng mai, ít nhất hãy cho tớ chừng ấy thời gian.” Tôi thừa biết một khi họ đã giữ bí mật đó trong một ngày thì nó sẽ vĩnh viễn là bí mật. Bố mẹ chúng tôi thậm chí còn nghi ngờ hơn nếu chúng tôi đột nhiên “nhớ ra” rằng mình đã bị giữ ở một nhà tù bí mật thay vì ở trong một trại tị nạn.
Van và Jolu nhìn nhau.
“Tớ chỉ xin một cơ hội thôi mà,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tìm hiểu câu chuyện trên đường về, làm sáng tỏ nó. Hãy cho tớ một ngày, chỉ một ngày thôi.”
Hai bạn tôi gật đầu rầu rĩ và cả bọn lại đi xuống đồi và về nhà. Tôi ở đồi Potrero, Vanessa ở khu Bắc Mission và Jolu sống ở thung lũng Noe - ba khu hoàn toàn khác nhau nhưng chỉ cách nhau vài phút đi bộ.
Chúng tôi hướng vào phố Chợ và dừng lại. Con phố bị chặn lại ở mọi góc, những ngã tư giờ chỉ còn là làn đường đơn, và đậu san sát dọc phố Chợ là những chiếc xe mười tám bánh khổng lồ khó xác định nguồn gốc như chiếc xe đã chở chúng tôi, phần mui bị che lại, đậu từ bến tàu tới khu phố Tàu.
Mỗi xe có cầu thang thép ba bậc dẫn xuống từ phía sau và rì rầm những âm thanh hoạt động của quân lính, những người mặc đồ vest và cảnh sát đi ra đi vào. Đám người mặc đồ vest đều đeo phù hiệu trên ve áo và bị quân lính kiểm tra kỹ lưỡng khi ra vào - những phù hiệu điện tử không dây. Khi chúng tôi đi qua một trong số họ, tôi nhìn vào và thấy cái logo quen thuộc: Cục An ninh Nội địa. Một người lính thấy tôi nhìn chằm chằm bèn trừng mắt lại với tôi.
Tôi tiếp nhận thông điệp, đi tiếp và chia tay đám bạn ở Van Ness. Cả bọn níu lấy nhau, khóc và hứa sẽ gọi cho nhau.
Đường về đồi Potrero có một lối dễ đi và một lối khó đi, đường khó đưa bạn qua một trong những đỉnh đồi dốc nhất ở thành phố, như kiểu bạn hay thấy trong phim hành động, những cảnh ô tô rượt đuổi nhau rồi bay vút lên không trung khi vượt tới đỉnh cao nhất. Tôi luôn chọn đường này để về nhà. Nó có nhiều con phố đông dân cư, những ngôi nhà cổ thời Victoria mà họ gọi là “các quý cô đỏm dáng(2)” vì được sơn cầu kỳ công phu, với những khu vườn trước nhà đầy hoa thơm ngát và cỏ cao ngút ngàn. Bọn mèo nhà sẽ nhòm bạn qua hàng rào, và hiếm khi nào thấy mèo hoang.
Những con phố này yên tĩnh tới mức tôi ước mình đã chọn đường kia, qua khu Mission, nơi mà... náo nhiệt có lẽ là từ đúng nhất để mô tả nó. Ồn ào và sôi nổi. Đầy rẫy những kẻ say xỉn ầm ĩ, con nghiện cocaine cáu kỉnh và bọn sốc ma túy bất tỉnh, cũng không thiếu những gia đình đẩy xe nôi đi dạo, những bà cụ ngồi nói chuyện bên hiên nhà, những người lái xe ô tô cỡ lớn kéo theo âm thanh rầm rầm xuống phố. Có những tay hippie, đám sinh viên mỹ thuật theo phong cách emo(3) sầu thảm và cả hai tay chơi rock punk truyền thống, những lão già bụng phệ lòi ra khỏi cái áo phông in hình ngài Kennedy Quá cố. Rồi cả những gã mặc đồ phụ nữ(4), các băng nhóm thanh thiếu niên hung dữ, những nghệ sĩ graffiti và kẻ ngụy trưởng giả luống cuống cố để không bị giết trong khi chờ mối đầu tư nhà đất mãn hạn.
Tôi đi lên đồi Goat và rảo qua quán Pizza Goat Hill, nơi này làm tôi nhớ lại nhà tù mà mình đã bị giam giữ, và tôi phải ngồi xuống cái ghế dài bên ngoài nhà hàng cho đến khi những cơn run rẩy kết thúc. Rồi tôi nhìn thấy chiếc xe tải trên đồi, một chiếc mười tám bánh với cầu thang ba bậc kim loại phía sau. Tôi đứng dậy và di chuyển. Tôi cảm thấy những ánh mắt đang dõi theo mình từ mọi hướng.
Tôi lao nhanh trên đoạn đường còn lại. Tôi không nhìn ngắm “các quý cô đỏm dáng”, mấy khu vườn hay bọn mèo nhà nữa. Tôi chỉ nhìn xuống đất.
Cả hai xe của bố mẹ tôi đều ở lối vào ga ra, dù bây giờ là giữa ngày. Tất nhiên, bố tôi làm việc ở Vịnh Đông nên chắc ông bị mắc kẹt ở nhà trong khi người ta sửa cầu. Còn mẹ, ờ, ai mà biết tại sao mẹ lại ở nhà.
Họ ở nhà vì tôi.
Tôi còn chưa kịp mở khóa cửa thì cánh cửa đã tuột khỏi tay tôi và mở tung ra. Cả bố và mẹ tôi, trông đều buồn bã và phờ phạc, đang mở to mắt nhìn chằm chằm vào tôi. Chúng tôi cứ đứng đó như bị đóng băng mất một lúc, rồi họ lao ra kéo tôi vào nhà, suýt nữa làm tôi vấp ngã. Cả hai người nói quá to và nhanh khiến tất cả những gì tôi nghe thấy là những lời lắp bắp ồn ào, không từ nào ra từ nào và họ ôm lấy tôi mà khóc, tôi cũng khóc, chúng tôi cứ đứng như vậy trong gian tiền sảnh nhỏ, khóc lóc và thốt ra những âm thanh gần giống lời nói cho đến lúc hết cả hơi và vào trong bếp.
Tôi làm việc mà tôi luôn làm khi về nhà: lấy cho mình một cốc nước từ máy lọc trong tủ lạnh và bới lấy vài chiếc bánh quy từ “thùng bánh quy” mà chị gái của mẹ đã gửi cho chúng tôi từ Anh. Sự bình thường của việc này khiến tim tôi thôi không đập thình thịch nữa, nó bắt kịp trí óc tôi, và cả gia đình nhanh chóng ngồi vào bàn.
“Con đã ở đâu?” bố mẹ gần như đồng thanh hỏi tôi.
Tôi đã suy nghĩ về việc này trên đường về. “Con bị mắc kẹt,” tôi nói. “Ở Oakland. Con đến đó cùng mấy người bạn, cùng làm một việc này, rồi bọn con đều bị cách ly.”
“Trong năm ngày?”
“Vâng,” tôi nói. “Vâng. Thật tệ.” Tôi đã đọc về những vụ cách ly trên tờ Chronicle và không ngại ngùng chôm luôn những gì họ viết. “Vâng. Tất cả những ai bị bắt gặp trong đám mây đó. Họ nghĩ rằng bọn con bị tấn công bởi một loại siêu sâu bọ nào đó và tống bọn con vào những công ten nơ vận chuyển ở khu xưởng đóng tàu, như cá mòi ấy. Ở đó cực kỳ nóng và nhớp nháp. Cũng không có nhiều đồ ăn nữa.”
“Chúa ơi,” bố tôi đấm tay xuống bàn. Bố tôi đi dạy ở Berkeley ba ngày một tuần, làm việc với vài sinh viên cao học về chương trình khoa học thư viện. Thời gian còn lại ông tư vấn cho khách hàng trong thành phố và dưới Peninsula, các công ty trực tuyến trong Làn sóng thứ ba(5) đang tiến hành nhiều hoạt động khác nhau về lưu trữ tài liệu. Hiện là một thủ thư hòa nhã nhưng ông từng là một người theo chủ nghĩa cấp tiến chính cống vào những năm sáu mươi và chơi đấu vật hồi cấp ba. Thỉnh thoảng tôi thấy ông tức giận phát điên - ngay cả tôi đây cũng thi thoảng làm ông nổi giận như thế - và những lúc như thế ông có thể mất kiểm soát nghiêm trọng. Có lần bố tôi đã ném cả cái xích đu của hãng Ikea qua cả bãi cỏ của ông nội khi nó cứ đổ lên đổ xuống đến lần thứ năm mươi khi ông đang lắp ráp nó.
“Lũ người man rợ,” mẹ tôi nói. Bà đã sống ở Mỹ từ khi mới là thiếu nữ nhưng vẫn luôn thể hiện bản sắc Anh mỗi khi bà gặp cảnh sát, nhân viên chăm sóc sức khỏe, an ninh sân bay hay những người vô gia cư. Giờ thì bà dùng từ “lũ người man rợ”, ngữ âm Anh của bà lại rõ nét như xưa. Chúng tôi đã tới Luân Đôn hai lần để thăm gia đình bà và tôi không thể nói rằng ở đó văn minh hơn San Francisco được, nó chỉ tù túng hơn thôi.
“Nhưng họ đã thả bọn con ra, và chở bọn con về đây hôm nay.” Tôi ứng biến.
“Con có bị đau không?” mẹ hỏi. “Có đói không?” “
Có buồn ngủ không?”
“Dạ, mỗi thứ một ít. Và cũng Ngốc Nghếch, Thông Thái, Hắt Xì và Xấu Hổ nữa.” Chúng tôi có một trò đùa gia đình truyền thống về bảy chú lùn. Bố mẹ tôi đều khẽ cười, nhưng mắt họ vẫn ướt. Tôi cảm thấy rất tệ. Hẳn là họ đã lo lắng đến phát điên. Tôi mừng như bắt được vàng vì có cơ hội để đổi chủ đề. “Con rất muốn được ăn.”
“Bố sẽ gọi pizza ở Goat Hill,” bố nói.
“Không, không phải thứ đó,” tôi nói. Cả hai nhìn tôi như thể tôi bị đột biến vậy. Thường thì tôi rất thích pizza của Goat Hill - mọi khi tôi có thể ngấu nghiến món đó đến lúc nó hết sạch hoặc tôi nổ bùm mới thôi. Tôi gượng cười. “Chỉ là con thấy không thích pizza,” tôi nói một cách không thỏa đáng. “Chúng ta gọi ít cà ri được chứ ạ?” Ơn Chúa, San Francisco là trung tâm của đồ ăn mang về.
Mẹ tôi tới chỗ ngăn kéo để thực đơn các món ăn mang về (thêm một sự bình thường nữa, cảm giác như thể được uống một cốc nước khi họng đã khô rã rời) và lật nhanh. Chúng tôi tạm thời thư giãn vài phút để xem thực đơn của quán thịt Pakistan ở Valencia. Tôi chọn món chả trộn nướng kiểu Ấn Độ và rau cải trộn kem với pho mát nông trang, cùng món lassi xoài muối (ngon hơn nhiều so với tên gọi của nó) và một ít bánh nướng nhúng nước đường.
Sau khi đặt món xong xuôi, một tràng câu hỏi lại bắt đầu tuôn ra. Họ đều đã nghe tin từ gia đình Van, Jolu và Darryl (tất nhiên) và đã cố gắng để báo cáo về sự mất tích của chúng tôi. Cảnh sát đã lấy tên, nhưng có nhiều “người di tản” đến nỗi họ không lập hồ sơ tìm kiếm ai hết trừ phi sau bảy ngày người đó vẫn mất tích.
Cùng lúc đó, hàng triệu các trang web đăng tin tìm người thất lạc mọc lên như nấm sau mưa. Vài ba trang ăn theo MySpace cũ đang cạn tiền lại tìm thấy nguồn thu mới từ việc đăng thông báo về những vụ mất tích. Xét cho cùng, một số nhà đầu tư mạo hiểm cũng có gia đình bị thất lạc ở khu Vịnh. Nếu những người này được tìm thấy thì có thể trang web sẽ thu hút thêm nhiều mối đầu tư mới. Tôi lấy laptop của bố và xem qua các trang mạng. Trên đó toàn là quảng cáo, tất nhiên, và ảnh của những người bị mất tích, hầu hết là những bức ảnh chụp ở lễ tốt nghiệp, đám cưới và những chỗ tương tự. Khá là kinh khủng.
Tôi tìm ra ảnh của mình và thấy nó được kết nối tới ảnh của Van, Jolu và Darryl. Có một mẫu đơn nhỏ để đánh dấu những người đã tìm thấy và một mẫu nữa để ghi chú về những người đang mất tích khác. Tôi điền vào ô của tôi, Jolu và Van, để trống ô của Darryl.
“Con quên Darryl rồi,” bố tôi nói. Ông không thích Darryl lắm - cứ khi nào ông phát hiện ra một chai trong tủ rượu của mình bị vơi đi vài phân, tôi lại đổ cho Darryl, mặc dù tôi vô cùng xấu hổ vì việc này. Tất nhiên, sự thật là cả hai đứa đều có lỗi, bọn tôi thường lượn lờ quanh quẩn, nếm thử vodka pha Coke sau mỗi lần chơi game thâu đêm.
“Nó không đi cùng chúng con,” tôi nói. Lời nói dối đắng ngắt trong miệng tôi.
“Lạy Chúa tôi,” mẹ tôi thốt lên. Bà siết chặt hai tay vào nhau. “Bố mẹ cứ tưởng khi về nhà các con sẽ đi cùng nhau.”
“Không,” tôi tiếp tục nói dối. “Không, đáng lẽ bọn con phải gặp nó nhưng rốt cuộc thì không thấy đâu. Có lẽ nó vẫn đang mắc kẹt ở Berkeley. Nó định đi tàu điện ngầm tới gặp bọn con.”
Mẹ tôi thút thít. Bố tôi lắc đầu và nhắm mắt lại. “Con không biết chuyện gì xảy ra với ga tàu điện ngầm sao?” ông nói.
Tôi lắc đầu. Tôi có thể thấy điều này sẽ dẫn tới đâu. Có cảm giác như mặt đất đang rung chuyển dưới chân tôi.
“Chúng đã cho nổ tung nó,” bố nói. “Lũ khốn ấy đã cho nổ tung ga tàu điện ngầm và cây cầu.”
Tin này vẫn chưa lên trang nhất của tờ Chronicle, tuy nhiên một ga tàu điện ngầm bị nổ tung dưới nước sẽ không sinh động bằng hình ảnh chiếc cầu treo bị xé toạc thành nhiều mảnh văng đi khắp Vịnh. Đường hầm tàu điện ngầm từ Embarcadero ở San Francisco tới ga West Oakland đã bị nhấn chìm.
Tôi quay lại với cái máy tính của bố để lướt qua các tít báo. Không ai chắc chắn, nhưng số thi thể được tìm thấy đã lên tới con số hàng nghìn. Giữa những chiếc ô tô lao thẳng từ độ cao 57 mét xuống biển và những người bị chìm trong tàu, số người chết vẫn đang tăng lên. Một phóng viên tuyên bố mình đã phỏng vấn một “tay chuyên làm giả giấy tờ tùy thân”, kẻ đã giúp “hàng tá” người giũ bỏ cuộc sống cũ của mình chỉ bằng cách biến mất sau vụ tấn công, có chứng minh thư mới, thoát khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc, những khoản nợ nần chồng chất và cuộc sống tồi tệ.
Nước mắt chảy dài trên gương mặt bố tôi còn mẹ tôi khóc nức nở. Họ lại lần lượt ôm lấy tôi, vỗ về tôi như để tự trấn an mình rằng tôi đang ở đây. Họ liên tục nói với tôi rằng họ yêu tôi. Tôi nói tôi cũng rất yêu họ.
Chúng tôi có một bữa tối đầy nước mắt, rồi bố và mẹ mỗi người đều uống vài ly rượu, bình thường như vậy là quá nhiều đối với họ. Tôi nói mình buồn ngủ, lần này thì tôi nói thật, và lẻn lên phòng. Tuy nhiên tôi không đi ngủ ngay. Tôi cần lên mạng và tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Tôi cần nói chuyện với Jolu và Vanessa. Tôi cần bắt tay vào việc tìm kiếm Darryl.
Tôi lén đi lên phòng và mở cửa. Tôi tưởng như đã không nhìn cái giường cũ của mình cả nghìn năm nay rồi. Tôi nằm xuống đó và với tay về phía cái tủ đầu giường để lấy laptop. Hẳn là tôi đã cắm lỏng phích điện - nó cần được chỉnh lại cho đúng - vậy nên cái laptop dần dần hết pin khi tôi đi vắng. Tôi cắm lại và đợi vài phút để sạc pin trước khi thử khởi động lại máy. Trong lúc đó, tôi cởi quần áo và ném vào sọt rác - tôi không bao giờ muốn nhìn lại chúng nữa - rồi mặc quần lót sạch và áo phông mới. Những bộ quần áo thẳng thớm, thơm tho nằm ngăn nắp trong các ngăn kéo khiến tôi thấy thật thân quen và dễ chịu, như vòng tay của bố mẹ vậy.
Tôi bật nguồn laptop, xếp một đống gối ở đầu giường rồi tựa lưng vào đó, dịch người lại, mở máy tính và đặt nó lên đùi. Nó vẫn đang khởi động, trời ơi, những biểu tượng vụt qua trên màn hình trông thật tuyệt. Nó hoạt động, nhưng rồi bắt đầu cảnh báo pin yếu. Tôi kiểm tra lại dây điện, lắc lắc nó và laptop tắt phụt. Phích điện đã chính thức bị hỏng.
Thật sự là tình hình tệ đến mức tôi không thể làm gì được. Mỗi lần tôi bỏ tay ra khỏi dây điện là điện lại không vào máy và thông báo pin yếu lại hiện lên. Tôi xem xét cái laptop kỹ hơn.
Toàn bộ vỏ laptop của tôi hơi bị lệch tâm, đường nối chia rẽ ở một góc rộng rồi thu hẹp và mở rộng ở phía sau.
Đôi khi bạn nhìn thiết bị nào đó và phát hiện ra một chi tiết tương tự như vậy, rồi bạn tự hỏi, “Có phải nó luôn như thế này không?” Có lẽ do bạn không để ý thôi.
Nhưng với laptop của tôi, điều này là không thể. Bạn thấy đấy, tôi đã tự lắp nó. Sau khi bộ giáo dục phát SchoolBook cho tất cả bọn tôi, không đời nào bố mẹ tôi lại đi mua cho tôi một cái máy tính riêng, mặc dù về mặt lý thuyết thì SchoolBook không thuộc về tôi, tôi không được phép cài đặt phần mềm hay điều khiển nó.
Tôi có chút tiền tiết kiệm - từ những công việc vặt, Giáng sinh và sinh nhật, một chút tiền nhờ buôn bán trên eBay. Gom tất cả lại cũng chỉ đủ để mua một cái máy xập xệ có tuổi thọ năm năm.
Vậy là Darryl và tôi đã tự lắp một cái. Bạn có thể mua vỏ laptop giống như mua vỏ PC, dù chúng hơi đặc biệt hơn một chút so với một chiếc PC cũ đơn thuần. Trước đó tôi và Darryl đã lắp hai cái PC, gom các bộ phận từ trang Craigslist, những buổi bán đồ cũ tại gia và đặt từ mấy người bán hàng Đài Loan giá rẻ mà chúng tôi tìm thấy trên mạng. Tôi phát hiện ra rằng tự lắp ráp một cái laptop sẽ là cách tốt nhất để có được sức mạnh mà tôi muốn ở mức giá tôi kham được.
Để lắp ráp một cái laptop, ta bắt đầu bằng việc đặt mua một “barebook”, tức một cỗ máy chỉ có một ít phần cứng và những khe cắm cần thiết. Tin mừng là, một khi tôi hoàn thiện nó thì tôi sẽ có một cỗ máy nhẹ hơn nửa ký so với con Dell mà tôi vẫn mê mẩn, chạy nhanh hơn mà giá chỉ bằng một phần ba số tiền đáng ra tôi phải trả nếu mua Dell. Tin xấu là, lắp ráp một cái laptop cũng giống như làm một con tàu nhỏ trong chai vậy. Đó là một công việc rất tỉ mỉ, với nhíp và kính lúp, cố gắng lắp cho vừa mọi thứ vào cái vỏ nhỏ xíu. Không giống như một cái PC nguyên cỡ - bên trong chủ yếu là không khí - bạn cần tận dụng từng milimét khối không gian trong laptop. Cứ lần nào tôi nghĩ mình đã hoàn thành là lại xuất hiện cái gì đó khiến cái máy không thể đóng khít hoàn toàn, và nó lại quay về bàn làm việc.
Vì thế, tôi biết chính xác khớp nối laptop của tôi trông như thế nào khi nó đóng lại, và nó không giống thế này.
Tôi cứ lắc lắc phích cắm nhưng hoàn toàn vô vọng. Không có cách nào để khởi động máy mà không tháo nó ra. Tôi rên rỉ và đặt nó cạnh giường. Tôi sẽ giải quyết nó vào sáng mai.
Tuy nhiên, tôi chỉ nói thế thôi. Hai giờ sau, tôi vẫn đang chòng chọc ngó lên trần nhà, trong đầu chiếu lại những thước phim về những gì họ đã làm với tôi, đáng ra tôi nên làm gì, về tất cả sự hối tiếc và esprit d’escalier.
Tôi bò ra khỏi giường. Đã là nửa đêm và tôi nghe thấy bố mẹ đã đi ngủ từ 11 giờ. Tôi dọn vài khoảng trống trên bàn, gài mấy bóng đèn LED nhỏ lên tấm đỡ kính lúp và kéo ra một bộ tua vít nhỏ có độ chính xác cao. Một phút sau, tôi đã mở vỏ máy và tháo bàn phím ra, nhìn chằm chằm vào ruột máy. Tôi lấy một bình khí nén và thổi đám bụi mà quạt làm mát hút vào rồi xem xét mọi thứ.
Có gì đó không ổn. Tôi không thể nói đó là gì, nhưng cũng phải vài tháng nay tôi không tháo tung cái laptop ra thế này. Thật may là đến lần thứ ba phải tháo máy ra và tìm cách đóng lại, tôi đã thông minh hơn: tôi chụp ảnh ruột máy và mọi thứ bên trong. Nhưng vẫn chưa thông minh tuyệt đối: ban đầu, tôi lưu bức ảnh đó trên ổ cứng, và đương nhiên, tôi không thể xem nó khi laptop đã bị tháo tung. Nhưng sau đó tôi đã in ảnh ra mà đính lên ngăn kéo lộn xộn giấy tờ của tôi, cái nghĩa địa nơi tôi lưu giữ tất cả thẻ bảo hiểm và các sơ đồ chân chip điện. Tôi lục tung lên - chúng có vẻ bừa bộn hơn tôi nhớ - và mang bức ảnh ra. Tôi đặt nó cạnh máy tính và nhìn bao quát, cố gắng tìm ra chi tiết nằm không đúng vị trí.
Rồi tôi phát hiện ra nó. Băng cáp nối bàn phím với mainboard không chuẩn lắm. Nó thật kỳ cục. Không có mômen quay trên đó, không có gì để đẩy nó ra trong quá trình hoạt động bình thường. Tôi thử ấn nó lại và phát hiện ra dây cắm không chỉ bị đặt sai - còn cái gì đó nữa giữa nó và bảng mạch. Tôi gắp thứ đó ra và chiếu đèn lên.
Trong bàn phím của tôi có gì đó mới. Nó là một mẩu kim loại cứng, chỉ dày chừng một li, không có nhãn mác gì. Bàn phím được gắn vào nó, và nó được gắn vào bảng mạch. Nói cách khác, nó đã được đặt một cách hoàn hảo để chụp lại tất cả những phím bấm mà tôi gõ.
Nó là một con bọ.
Tim tôi nện thình thịch. Ngôi nhà đang chìm trong bóng tối và tĩnh lặng, nhưng đó không phải một thứ bóng tối dễ chịu. Ngoài kia có những đôi mắt, mắt và tai, chúng đang theo dõi tôi. Giám sát tôi. Sự giám sát mà tôi đã phải đối mặt ở trường giờ đang theo tôi về nhà, nhưng lần này, không chỉ có Phòng Giáo dục theo dõi tôi: Cục An ninh Nội địa (DHS) cũng góp mặt vào trò này.
Suýt nữa thì tôi lấy con bọ ra. Rồi tôi hiểu ra rằng ai đặt nó ở đây sẽ biết ngay nếu nó biến mất. Tôi để nó nằm yên đấy. Tôi phát ốm khi phải làm như thế.
Tôi tìm xem họ còn bỏ thêm gì nữa không. Tôi không tìm thấy gì, nhưng liệu điều đó có đồng nghĩa với việc không còn gì khác? Ai đó đã đột nhập vào phòng tôi và gài thứ này - đã tháo rời laptop của tôi rồi ráp lại. Có rất nhiều cách để nghe trộm một cái máy tính. Tôi không đời nào tìm ra hết được.
Tôi dùng hai ngón trỏ ráp mọi thứ lại. Lần này, khung máy không chỉ đóng khít vào ngay mà cáp điện cũng đâu vào đó. Tôi khởi động lại máy tính và đặt ngón tay lên bàn phím, định cho chạy vài công cụ chẩn đoán để xem nó là thứ gì.
Nhưng tôi không thể làm vậy.
Khốn khiếp, có lẽ phòng tôi cũng bị nghe trộm. Có lẽ lúc này có một cái camera đang theo dõi tôi cũng nên.
Khi về nhà, tôi agrave;ng trong túi con trai tôi. Tôi nghĩ chúng ta đã xong việc ở đây. Vui lòng cho tôi xin số hiệu phù hiệu cảnh sát của các anh trước khi các anh đi.”
Gỉ Mũi nhếch mép với bà. “Thưa bà, Hiệp hội Quyền Tự do Dân sự Mỹ đang kiện ba trăm cảnh sát của Sở Cảnh sát San Francisco, bà sẽ phải xếp hàng đấy.”
Mẹ pha cho tôi một tách trà rồi mắng tôi một trận vì ăn tối ở ngoài dù đã biết bà sẽ làm món viên đậu xanh rán ở nhà. Bố tôi về nhà khi hai mẹ con vẫn đang ngồi ở bàn, rồi mẹ và tôi lần lượt kể cho ông nghe chuyện đã xảy ra. Ông lắc đầu.
“Lilian, họ chỉ đang làm công việc của mình thôi.” Ông vẫn mặc áo cộc tay màu xanh và bộ đồ kaki mà ông đã mặc hồi còn làm tư vấn viên ở thung lũng Silicon. “Thế giới không còn như tuần trước nữa.”
Mẹ tôi đặt tách trà xuống. “Drew, anh thật là buồn cười. Con trai anh đâu phải là một kẻ khủng bố. Việc nó sử dụng phương tiện giao thông công cộng ra sao không phải là lý do để cảnh sát điều tra.”
Bố tôi cởi áo ra. “Bọn anh thường xuyên làm như vậy ở chỗ làm. Máy tính được sử dụng theo cách ấy để tìm thấy lỗi sai, sự dị thường và các kết quả đầu ra khác. Người ta yêu cầu máy tính tạo ra một hồ sơ bao gồm các số liệu trung bình trong kho dữ liệu, sau đó tìm ra những số liệu nào trong kho dữ liệu chênh lệch nhiều nhất so với mức trung bình. Nó là một phần của thứ gọi là phân tích Bayes và đã có từ hàng mấy thế kỷ nay rồi. Không có nó, chúng ta không thể lọc được thư rác...”
“Vậy ý bố là bố nghĩ cảnh sát nên kiểm soát chặt chẽ như bộ phận lọc thư rác của con à?” tôi nói.
Bố chưa bao giờ tức giận vì việc tôi tranh cãi với ông, nhưng tối nay tôi có thể thấy ông căng thẳng tột độ. Dù sao, tôi không thể nhịn được. Bố của tôi mà lại đứng về phía cảnh sát!
“Ý bố là hoàn toàn hợp lý khi cảnh sát bắt đầu công việc điều tra của mình bằng việc khai thác dữ liệu, sau đó thực hiện công việc chân tay ở công đoạn cần đến sự can thiệp của con người để xác định xem tại sao lại tồn tại sự bất thường này. Bố không nghĩ rằng máy tính có thể chỉ cho cảnh sát là họ nên bắt giữ ai, chúng chỉ nên giúp họ phân loại đống cỏ khô để tìm ra cây kim thôi.”
“Nhưng bằng cách khai thác tất cả các dữ liệu từ hệ thống chuyên chở, họ đang tạo ra một đống cỏ khô,” tôi nói. “Nó là một núi dữ liệu khổng lồ và nhìn từ quan điểm của cảnh sát thì dường như không có gì đáng tìm trong đó. Hoàn toàn lãng phí.”
“Bố hiểu rằng con không thích việc hệ thống này gây ra cho con một chút bất tiện, Marcus. Nhưng tất cả mọi người nên coi trọng mức độ nghiêm túc của tình hình. Không hại đến ai, phải không? Thậm chí họ còn đưa con về nhà còn gì.”
Họ đã dọa sẽ tống con vào tù, tôi nghĩ, nhưng tôi có thể thấy rằng nói điều này ra cũng chả ích gì.
“Hơn nữa, con vẫn chưa nói cho chúng ta con đã đi những chỗ quái quỷ nào để đến nỗi tạo nên cả một lịch trình di chuyển bất thường như thế.”
Câu này chợt khiến tôi chột dạ.
“Con cứ nghĩ bố tin tưởng vào sự đánh giá của con, rằng bố không muốn theo dõi con.” Ông vẫn thường nói vậy. “Bố có thực sự muốn con giải trình tất cả từng chặng đường mà con đã đi không?”
Tôi cắm Xbox của mình ngay khi vừa lên đến phòng. Tôi bắt vít máy chiếu lên trần nhà để nó có thể chiếu lên bức tường phía đầu giường (tôi đã phải gỡ mấy tấm poster rock punk đẹp tuyệt vời, các đầu nối điện thoại và dán lên đó những tờ giấy trắng lớn).
Tôi bật Xbox và nhìn màn hình từ từ hiện lên. Tôi định e-mail cho Van và Jolu để kể cho họ nghe về rắc rối với cảnh sát, nhưng vừa đặt tay xuống bàn phím thì đột nhiên tôi ngừng lại.
Một cảm giác râm ran thoáng qua, giống như khi tôi nhận ra họ đã biến cái Salmagundi già nua tội nghiệp thành kẻ phản bội vậy. Lần này, tôi có cảm giác Xnet yêu quý của tôi có thể đang phát thông tin về địa điểm của từng người sử dụng cho DHS.
Chính bố đã nói: Người ta yêu cầu máy tính tạo ra một hồ sơ bao gồm các số liệu trung bình trong kho dữ liệu, sau đó tìm ra những số liệu trong kho dữ liệu chênh lệch nhiều nhất so với mức trung bình.
Xnet được bảo mật vì người sử dụng không kết nối trực tiếp vào Internet. Họ nhảy từ Xbox này sang Xbox khác cho đến khi tìm thấy một máy đã kết nối Internet, rồi họ cài các tài liệu của mình vào dưới dạng dữ liệu được mã hóa không thể giải. Không ai biết được gói thông tin Internet nào là của Xnet, gói nào chỉ là những thông tin trao đổi được mã hóa của các ngân hàng và các dịch vụ thương mại điện tử. Bạn còn không thể phát hiện ra ai đang gõ phím trên Xnet chứ đừng nói tới ai đang sử dụng Xnet.
Nhưng thế còn “những con số thống kê Bayes” của bố tôi thì sao? Trước đây tôi đã nghịch vài trò với thuật toán Bayes. Có lần Darryl và tôi đã thử tự viết một chương trình lọc thư rác tốt hơn và khi bạn lọc thư rác, bạn cần đến thuật toán của Bayes. Thomas Bayes là một nhà toán học người Anh sống ở thế kỷ mười tám và không ai quan tâm đến ông cho đến vài trăm năm sau khi ông mất, khi các nhà khoa học máy tính nhận ra rằng những kỹ thuật phân tích thống kê của ông cho hàng núi dữ liệu cực kỳ hữu ích đối với khối lượng thông tin cao như núi Himalaya của thế giới hiện đại.
Thuật toán thống kê Bayes hoạt động như sau: Giả sử bạn có hàng đống thư rác (spam). Bạn xem từng từ trong thư rác đó và đếm số lần xuất hiện của nó. Đây gọi là “biểu đồ tần suất của từ ngữ” và nó cho bạn biết xác suất mà một cụm từ bất kỳ có khả năng là thư rác. Giờ thì hãy xem một đống e-mail không phải thư rác - trong nghề, người ta gọi nó là các tập “ham” và cũng làm tương tự.
Khi một e-mail mới đến, hãy đếm các từ xuất hiện trong đó. Tiếp theo, áp dụng biểu đồ tần suất các từ cho e-mail này để tính toán xác suất nó thuộc vào tập “spam” hay tập “ham”. Nếu nó là thư rác, bạn sẽ theo đó mà điều chỉnh lại biểu đồ “spam”. Có rất nhiều cách để cải tiến kỹ thuật này - xem xét từng cặp từ, bỏ các dữ liệu cũ đi - nhưng đây là cách hoạt động cốt lõi của nó. Nó là một trong những ý tưởng đơn giản nhưng rất tuyệt vời mà ngay sau khi nghe giải thích, bạn có thể hiểu được ngay.
Nó có rất nhiều ứng dụng - bạn có thể yêu cầu một máy tính đếm đường nét trong một bức tranh và xem nó khớp với biểu đồ tần suất đường nét “con chó” hơn hay biểu đồ tần suất đường nét “con mèo” hơn. Nó có thể tìm thấy những thứ khiêu dâm, gian lận ngân hàng và những cuộc tranh luận nóng trên Internet. Thật là một thứ hữu ích.
Và nó là tin xấu cho Xnet. Giả sử bạn có thể theo dõi toàn bộ hệ thống Internet - điều mà tất nhiên là Cục An ninh Nội địa đang làm. Nhờ kỹ thuật mã hóa, bạn không thể xác định được ai đang đi qua các gói Xnet bằng cách xem xét nội dung của những gói thông tin này.
Điều mà bạn có thể làm là tìm ra ai đang có lưu lượng thông tin gửi đi được mã hóa cao hơn so với tất cả những người khác. Đối với một người lướt Internet bình thường, một lượt trao đổi trực tuyến có khoảng 95 phần trăm là văn bản thuần túy, 5 phần trăm là văn bản mã hóa. Nếu ai đó gửi đi 95 phần trăm văn bản mã hóa, bạn có thể phái những người hiểu biết về máy tính cỡ Gỉ Mũi và Zit đến đó để tra hỏi xem liệu hắn ta có phải là một tay sử dụng Xnet khủng bố và buôn bán ma túy không.
Điều này thường xuyên xảy ra ở Trung Quốc, vài kẻ chống đối thông minh sẽ có cách để đi lại trên Vạn Lý Tường Lửa của Trung Quốc, hệ thống được sử dụng để kiểm duyệt mạng Internet trên toàn đất nước, bằng việc sử dụng các đường kết nối được mã hóa tới một máy tính ở quốc gia khác. Giờ đây, đảng cầm quyền ở Trung Quốc không thể phát hiện ra kẻ chống đối đang xem thông tin gì: có thể là những thứ khiêu dâm, hướng dẫn sử dụng bom, những bức thư nghịch ngợm từ bạn gái anh ta ở Philippine, tài liệu chính trị, hay thông tin khoa học. Họ không cần phải biết. Tất cả những gì họ cần biết là anh chàng này có lưu lượng thông tin được mã hóa cao hơn hàng xóm. Dựa vào điểm này, họ sẽ gửi anh ta tới một trại lao động cưỡng ép chỉ để làm ví dụ cho mọi người thấy điều gì sẽ xảy ra với những gã thông minh.
Đến giờ, tôi có thể quả quyết Xnet không nằm trong tầm ra đa của DHS, nhưng sẽ không như vậy mãi mãi. Và sau tối nay, tôi không chắc rằng liệu mình có ở vị trí thuận lợi hơn một kẻ chống đối ở Trung Quốc hay không. Tôi đang đặt tất cả những người tham gia Xnet vào vòng nguy hiểm. Luật pháp không quan tâm đến việc bạn có thực sự làm gì xấu xa hay không; họ sẵn sàng đặt bạn dưới kính hiển vi chỉ vì bạn bất thường về mặt thống kê. Mà tôi thì không thể ngừng nó lại được nữa - giờ đây, khi Xnet đã hoạt động, nó đã có một cuộc đời riêng.
Bằng cách nào đó, tôi sẽ sửa chữa điều này.
Ước gì tôi có thể nói với Jolu về việc này. Nó làm việc cho hãng cung cấp dịch vụ Internet tên là Pigspleen Net, nơi này đã thuê nó khi nó mới mười hai tuổi, và nó biết nhiều về Internet hơn tôi. Nếu một ai đó biết cách để giữ chúng tôi tránh khỏi ngục tù, đó chính là nó.
May mắn thay, Van, Jolu và tôi đã lên kế hoạch gặp nhau uống cà phê vt đứa trẻ giàu thời gian và nghèo tiền bạc.
Sau khi những đứa trẻ Brazil công bố bản đã bẻ khóa, tất cả bọn tôi đều phát điên vì nó. Chẳng bao lâu sau, có đến hàng tá hệ điều hành thay thế cho Xbox Universal. Chương trình yêu thích của tôi là ParanoidXbox, nhang nhác ParanoidLinux. ParanoidLinux giả định người điều hành nó đang bị tấn công bởi chính phủ (chương trình này dùng cho những người chống đối ở Trung Quốc và Syria), và nó làm mọi việc có thể để giữ bí mật cho các thông tin và tài liệu của bạn. Thậm chí nó còn thêm vào một đống kết nối “giả” để ngụy trang cho bất cứ việc vụng trộm nào mà bạn làm. Vậy nên, mỗi khi bạn nhận được một chữ trong thông điệp mang tính chính trị, ParanoidLinux sẽ vờ như bạn đang lướt web, điền các bảng khảo sát và tán tỉnh trong các phòng chat. Lúc đó, chỉ có một trong số năm trăm chữ mà bạn nhận được mới là thông điệp thực sự, một cái kim chôn trong một đống cỏ khô khổng lồ.
Tôi đã in ra một DVD ParanoidXbox ngay khi chúng mới xuất hiện, nhưng tôi chưa bao giờ mở cái Xbox trong tủ, tìm một ti vi để nối vào và làm những việc khác. Không cần đến crashware của Microsoft ngốn thêm một milimét diện tích làm việc quý giá nào thì phòng tôi cũng đủ chật chội rồi.
Đêm nay, tôi sẽ hy sinh. Mất khoảng hai mươi phút để ra khỏi giường và chạy đi chạy lại. Phần khó
nhất là không có ti vi, nhưng cuối cùng thì tôi nhớ rằng mình có một máy chiếu LCD nhỏ, nó có đầu nối ti vi RCA(6) chuẩn ở phía sau. Tôi nối nó với Xbox và chiếu lên mặt sau cửa ra vào rồi cài đặt ParanoidLinux.
Giờ tôi đã dậy và vận động, còn ParanoidLinux đang tìm các Xbox Universal khác để nói chuyện. Mỗi Xbox Universal đều có thiết bị điều khiển không dây cho nhiều người chơi cùng lúc. Bạn có thể kết nối với hàng xóm của bạn bằng đường dẫn không dây và vào mạng Internet, nếu bạn có liên kết Internet không dây. Tôi tìm thấy ba tín hiệu khác nhau của hàng xóm trong khu vực. Hai trong số đó có Xbox Universal cũng kết nối với Internet. ParanoidXbox chuộng loại cấu hình này: nó có thể đi qua các liên kết Internet của hàng xóm và sử dụng chúng để lên mạng qua mạng game này. Hàng xóm cũng chẳng thiệt thòi gì: họ đã trả tiền thuê bao trọn gói, và vào lúc hai giờ sáng thì họ chẳng làm gì nhiều trên mạng.
Phần hay nhất trong toàn bộ chuyện này là cảm giác mà nó đem lại: mọi thứ nằm trong tầm kiểm soát. Công nghệ của tôi đang làm việc cho tôi, phục vụ tôi, bảo vệ tôi. Nó không theo dõi tôi. Đây là lý do tại sao tôi yêu công nghệ: nếu bạn sử dụng nó đúng cách, nó có thể cho bạn sức mạnh và sự riêng tư.
Lúc này, não tôi đã thực sự vào guồng. Có rất nhiều lý do để chạy ParanoidXbox - lý do hay nhất là ai cũng có thể viết chương trình game cho nó. Đã có sẵn một cổng của MAME dành cho các ứng dụng giả lập game thùng, vậy nên thực tế là bạn có thể chơi bất kỳ trò chơi nào đã từng được viết ra, từ trò Pong cổ lỗ đến các trò viết cho Apple ][+, Colecovision, NES và Dreamcast, vân vân.
Thậm chí còn tuyệt hơn khi mà tất cả những trò chơi hay ho dành cho nhiều người được thiết kế riêng cho ParanoidXbox - những trò chơi theo sở thích miễn phí mà ai cũng có thể chơi. Khi kết hợp tất cả những điều này lại, bạn sẽ có một giả lập miễn phí với đầy đủ các trò chơi miễn phí và có thể giúp bạn truy cập Internet miễn phí.
Và phần thú vị nhất - theo như tôi nghĩ - là ParanoidXbox bị hoang tưởng. Mỗi bit xuất hiện trong không gian mạng đều được đảo tung lên. Bạn có thể nghe trộm nó nếu muốn, nhưng bạn không đời nào phát hiện ra ai đang nói, nói cái gì hay nói với ai. Những trang web, e-mail và tin nhắn trực tuyến ẩn danh. Chính là những thứ tôi cần.
Tất cả những gì tôi phải làm bây giờ là thuyết phục những người tôi biết cùng sử dụng nó.
Chú thích:
1. Oakland Bay Bridge.
2. Painted ladies: từ dùng để chỉ những ngôi nhà theo kiểu thời Victoria hay Edward được sơn hai đến ba màu tô điểm cho các chi tiết kiến trúc.
3. Một loại nhạc rock đặc trưng phong cách âm nhạc và sự thể hiện du dương, lời bài hát thường mang tính tâm sự, kể lể.
4. Drag queen: Những người đàn ông ăn mặc và cư xử như một người phụ nữ với mục đích để giải trí hay biểu diễn.
5. Chỉ kỷ nguyên công nghệ thông tin.
6. Tên thông dụng ở Việt Nam là giắc cắm bông sen.
 

Truyện ĐẠI CHIẾN HACKER Giới thiệu CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 Phần kết Lời bạt của Bruce Schneier(1) Lời bạt của Andrew “Thỏ” Huang, Xbox Hacker ; lý do tại sao Jolu được mời đến làm ở Pigspleen khi nó mới mười hai tuổi. Đưa cho nó một vấn đề với hai giải pháp tồi tệ và nó sẽ tìm ra giải pháp thứ ba hoàn toàn khác dựa vào việc dẹp bỏ tất cả những giả định của bạn. Tôi gật đầu khí thế. “Nói cho tớ đi.”
“Điều gì sẽ xảy ra nếu tỉ lệ văn bản mã hóa trung bình một ngày của một người sử dụng Internet trung bình ở San Francisco cao hơn nhiều so với bây giờ? Nếu chúng ta có thể thay đổi tỉ lệ văn bản thuần túy và văn bản mã hóa gần với năm mươi - năm mươi, những người sử dụng qua Xnet sẽ có vẻ bình thường.”
“Nhưng chúng ta sẽ làm như thế nào? Mọi người không quan tâm đến quyền riêng tư của họ đủ để lướt net qua đường dẫn được mã hóa. Họ không hiểu được tại sao lại có vấn đề khi những kẻ nghe trộm biết họ đang google cái gì.”
“Đúng thế, nhưng các trang web chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lưu lượng. Nếu chúng ta khiến mọi người hàng ngày đều đặn tải xuống vài tệp tin được mã hóa có dung lượng lớn thì điều đó sẽ tạo nên nhiều văn bản mã hóa tương đương với hàng nghìn trang web.”
“Cậu đang nói về indienet(5),” tôi nói.
“Cậu hiểu vấn đề rồi đó,” nó tán thành.
indienet - tất cả đều viết chữ thường, luôn luôn là như vậy - là thứ đã biến Pigspleen Net trở thành một trong những nhà cung cấp dịch vụ Internet độc lập thành công nhất thế giới. Khi các hãng thu âm tên tuổi bắt đầu kiện các fan hâm mộ vì đã tải nhạc của họ, rất nhiều công ty độc lập và nghệ sĩ của họ đã kinh ngạc. Làm thế nào bạn có thể kiếm tiền bằng việc kiện chính khách hàng của mình cơ chứ?
Người sáng lập ra Pigspleen đã có câu trả lời: bà ta đưa ra một thỏa thuận dành cho bất cứ nghệ sĩ nào muốn hợp tác với người hâm mộ thay vì đấu tranh với họ. Hãy cấp cho Pigspleen một giấy phép phân phối nhạc của bạn tới khách hàng, đổi lại hãng sẽ chia cho bạn một phần phí thuê bao dựa vào việc âm nhạc của bạn được ưa chuộng đến mức nào. Đối với một nghệ sĩ độc lập, vấn đề quan trọng không phải là việc vi phạm bản quyền mà là việc ít được biết đến: thậm chí không ai thèm quan tâm đến âm nhạc của bạn đủ để ăn cắp chúng.
Nó rất hiệu quả. Hàng trăm nghệ sĩ và hãng thu âm độc lập đã đăng ký với Pigspleen, và càng có nhiều nhạc thì càng nhiều người hâm mộ chuyển sang dùng dịch vụ Internet của Pigspleen, và sẽ càng có nhiều tiền cho nghệ sĩ. Trong một năm, nhà cung cấp dịch vụ Internet độc lập này đã có một trăm nghìn khách hàng mới và hiện nay là một triệu - nhiều hơn một nửa số thuê bao kết nối băng thông rộng trong thành phố.
“Một đợt rà soát và sửa chữa mã indienet đã choán hết thời gian của tớ hàng mấy tháng nay rồi,” Jolu nói. “Những chương trình gốc đã được viết rất vội và lộn xộn, nhưng chỉ cần thêm chút công sức nữa là có thể đạt hiệu quả cao hơn nhiều. Nhưng tớ không có thời gian. Một trong những việc phải làm trước tiên là mã hóa kết nối, chỉ bởi vì Trudy thích thế.” Trudy Doo là người sáng lập Pigspleen. Bà là một huyền thoại nhạc punk của San Francisco ở thế hệ trước, ca sĩ/trưởng nhóm nhạc ủng hộ phong trào chống chế độ phụ hệ Speedwhores, và bà phát điên vì vấn đề bảo mật. Tôi tuyệt đối tin rằng về cơ bản thì bà muốn dịch vụ âm nhạc của mình được mã hóa.
“Liệu có khó không? Ý tớ là sẽ mất bao lâu?”
“Chà, tất nhiên là có hàng triệu mã miễn phí trên mạng,” Jolu nói. Cứ mỗi khi nó mải mê suy nghĩ về một vấn đề quan trọng về mã hóa, nó lại như thế - nhìn xa xăm, gõ ngón tay trên bàn làm những giọt cà phê bắn tung tóe xuống đĩa. Tôi muốn bật cười - có thể mọi thứ sẽ bị phá hủy và hỗn độn và đáng sợ, nhưng Jolu sẽ viết mã đó.
“Tớ có thể giúp cậu không?”
Nó nhìn tôi. “Gì cơ, cậu nghĩ là tớ không tự làm được sao?”
“Cái gì?”
“Ý tớ là, cậu làm toàn bộ cái Xnet này mà không thèm kể cho tớ. Không thèm nói chuyện với tớ. Tớ tưởng cậu không cần tớ giúp cơ đấy.”
Tôi sững sờ. “Cái gì?” tôi hỏi lại. Giờ trông Jolu rất tức giận. Rõ ràng điều này đã ăn mòn nó trong một thời gian dài. “Jolu...”
Nó nhìn tôi và tôi có thể thấy là nó đang giận điên lên. Làm sao tôi lại bỏ qua chuyện này được nhỉ? Chúa ơi, nhiều khi tôi thật đúng là một thằng ngốc. “Này bạn hiền, không có gì to tát hết” - với câu nói đó, rõ ràng ý nó là vấn đề này rất nghiêm trọng - “chỉ là, cậu biết đấy, cậu thậm chí còn chưa bao giờ thèm hỏi tớ. Tớ ghét Cục An ninh Nội địa. Darryl cũng là bạn tớ. Lẽ ra tớ đã có thể giúp cậu.”
Tôi muốn úp mặt vào đầu gối. “Nghe này Jolu, tớ thật ngu. Tớ làm nó vào khoảng hai giờ sáng hôm đó. Lúc mọi việc diễn ra tớ đang bị điên. Tớ...” Tôi không thể giải thích được. OK, nó đã đúng, và đó là vấn đề. Lúc ấy đã hai giờ sáng nhưng tôi hoàn toàn có thể nói với nó vào ngày hôm sau hoặc hôm sau nữa. Tôi đã không kể vì tôi biết nó sẽ nói gì - rằng đấy là một vụ hack tồi tệ, rằng tôi phải suy nghĩ thấu đáo hơn. Jolu luôn luôn tìm ra cách để biến những ý tưởng xuất hiện lúc hai giờ sáng của tôi thành các đoạn mã, nhưng những thứ mà nó nghĩ ra lúc nào cũng hơi khác với ý tưởng của tôi. Tôi muốn giữ dự án này cho riêng mình. Tôi đã hoàn toàn biến thành M1k3y.
“Tớ xin lỗi,” cuối cùng tôi lên tiếng. “Tớ thực sự, thực sự xin lỗi. Cậu hoàn toàn đúng. Tớ đã hoảng loạn và làm những điều ngu ngốc. Tớ thực sự cần cậu giúp. Tớ không thể làm việc này mà không có cậu.”
“Cậu nói thật chứ?”
“Tất nhiên là thật,” tôi nói. “Cậu là người viết mã giỏi nhất mà tớ biết. Cậu là thiên tài kiệt xuất, Jolu. Tớ sẽ rất vinh dự nếu cậu giúp tớ việc này.”
Nó gõ gõ ngón tay thêm lúc nữa. “Chỉ là - cậu biết đấy. Cậu là thủ lĩnh. Van rất thông minh. Darryl là... cậu ấy là phó chỉ huy, người luôn biết cách tổ chức mọi việc, trông nom từng chi tiết. Làm lập trình viên, đó là những gì mà tớ có. Cảm giác như thể cậu đang nói cậu không cần tớ vậy.”
“Trời ơi, tớ thật là một thằng ngu. Jolu, cậu là người có khả năng nhất mà tớ biết để làm việc này. Tớ thực sự, thực sự, thực sự...”
“Được rồi. Ngừng đi. Ổn rồi. Tớ tin cậu. Giờ chúng ta đã làm mọi thứ rối tinh rối mù rồi. Vậy thì tất nhiên cậu có thể giúp tớ. Chúng tớ thậm chí có thể trả tiền cho cậu - Tớ có một chút ngân sách cho những lập trình viên theo hợp đồng.”
“Thật không?” Chưa ai từng trả tiền theo tôi để viết mã cả.
“Chắc chắn rồi. Cậu đủ giỏi để xứng đáng với điều này mà.” Nó cười toe toét và vỗ vai tôi. Thường thì Jolu rất dễ tính, vì thế nên khi nãy nó mới làm tôi phát hoảng.
Tôi trả tiền cà phê và cả hai rời đi. Tôi gọi cho bố mẹ để họ biết tôi đang làm gì. Mẹ của Jolu nhất quyết đòi làm sandwich cho chúng tôi. Chúng tôi tự nhốt mình trong phòng nó cùng với máy tính và các đoạn mã cho indienet, dấn thân vào một trong những phiên lập trình marathon vĩ đại nhất mọi thời đại. Sau khi gia đình Jolu đi ngủ vào khoảng 11 giờ 30, chúng tôi có thể bắt cóc máy pha cà phê lên phòng và say sưa với nguồn cung cấp hạt cà phê kỳ diệu của mình.
Nếu bạn chưa bao giờ lập trình cho một cái máy tính thì bạn nên thử. Trên đời này không có gì giống như thế. Khi bạn lập trình một máy tính, nó thực hiện chính xác những gì mà bạn muốn nó làm. Giống việc thiết kế một cỗ máy - một cỗ máy bất kỳ, như ô tô, vòi nước, bản lề cho cửa - sử dụng toán học và các hướng dẫn. Nó tuyệt vời theo nghĩa chân thật nhất: nó có thể khiến bạn tràn đầy hứng thú.
Máy tính là cỗ máy phức tạp nhất mà bạn đã từng sử dụng. Nó được cấu thành từ hàng tỉ điện trở vi hóa, có thể được định dạng để chạy bất cứ chương trình nào mà bạn tưởng tượng ra. Nhưng khi bạn ngồi xuống bàn phím và viết một dòng mã, những điện trở này sẽ làm những gì mà bạn bảo chúng làm.
Hầu hết chúng ta sẽ không bao giờ làm nổi một chiếc ô tô. Và gần như không ai trong chúng ta có thể tạo ra hệ thống hàng không. Thiết kế một tòa nhà. Quy hoạch một thành phố.
Chúng là các cỗ máy phức tạp, những thứ đó, và chúng vượt quá giới hạn với những người như bạn và tôi. Nhưng một máy tính cũng giống như vậy, thậm chí còn phức tạp hơn gấp mười lần, vậy mà nó sẽ nhảy theo bất cứ điệu nào bạn mở. Chỉ cần một buổi chiều là bạn có thể học được cách viết các đoạn mã đơn giản. hãy bắt đầu với một ngôn ngữ như Python, nó được viết ra nhằm giúp những người không phải lập trình viên tìm ra cách dễ hơn để khiến cỗ máy nhảy múa theo giai điệu họ muốn. Ngay cả khi bạn chỉ viết mã trong một ngày hay một buổi chiều thì bạn cũng phải làm điều này. Máy tính có thể điều khiển bạn hoặc giúp công việc đạt kết quả tốt nhất - nếu bạn muốn làm chủ máy móc của mình, bạn phải học cách viết mã.
Tối đó, chúng tôi đã viết rất nhiều mã.
Chú thích:
1. Nhân vật trong series hoạt hình The Flintstones - Gia Đình Flintstones.
2. Cách viết khác của từ“elite” theo bảng chữ cái thay thế trong tiếng Anh thường được dùng trên Internet.
3. Thành phần tinh túy.
4. Tổng thống thứ ba của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành nhất thời cận đại.
5. Viết tắt của “independent Internet” - Internet độc lập.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Mọt sách
Nguồn: vnthuquan-thuvienOnline
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 14 tháng 3 năm 2012

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--