Chương 4

    
ánh cửa phòng giam mở ra và một người đưa cho Danny cái khay nhựa chia thành nhiều ô nhỏ để các món ăn mà anh đã chọn trong lúc chờ đợi phiên xử buổi chiều bắt đầu.
Alex Redmayne đã bỏ bữa trưa để nghiền ngẫm lại các ghi chép của mình. Phải chăng anh đã đánh giá hơi thấp sự quan trọng của quãng thời gian trống mà Craig có được trước khi hạ sĩ Fuller bước vào quán bar?
Ngài thẩm phán Sackville dùng bữa trưa với bồi thẩm đoàn, không buồn bỏ tóc giả ra và cũng chẳng thảo luận gì với nhau, tất cả uể oải nhai trệu trạo phần ăn là thịt và hai đĩa rau.
Pearson ăn trưa một mình ở bar Mess trên tầng thượng. Ông ta biết rằng đồng nghiệp của mình đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi hỏi Craig về thời gian, nhưng rõ ràng là ông ta không cần phải chỉ ra điều đó. Vừa phân tích vấn đề, ông ta vừa đẩy hạt đậu Hà Lan trong đĩa từ bên này sang bên kia.
Chuông đồng hồ điểm hai tiếng, phiên xử bắt đầu trở lại. Ngài thẩm phán Sackville bước vào phòng xử án, ném cho bồi thẩm đoàn một nụ cười mơ hồ trước khi ngồi xuống ghế. Ông nhìn xuống hai luật sư và nói, “Xin chào các ông. Ông Pearson, ông có thể gọi nhân chứng tiếp theo.”
“Cảm ơn ngài,” Pearson trả lời và đứng dậy. “Cho mời ông Gerald Payne.”
Danny nhìn người đàn ông bước vào, không nhận ra ngay. Gã này cao khoảng một mét bảy mươi sáu, hơi hói, và chiếc áo khoác vải len màu be cắt khéo không thể che giấu sự thật là gã đã giảm khoảng sáu ký kể từ lần cuối gặp Danny. Người gác tòa hướng dẫn gã đi tới bục nhân chứng, đưa cho gã một cuốn Kinh thánh và giúp gã tuyên thệ. Mặc dù phải nhìn giấy đọc lời thế, gã cũng vẫn tỏ ra tự tin y hệt Spencer Craig lúc sáng.
“Ông là Gerald David Payne, sống ở số sáu mươi hai khu Wellington, London W2?”
“Đúng vậy,” Payne trả lời chắc nịch.
“Ông làm việc trong lĩnh vực nào?”
“Tôi là quản lý tư vấn địa ốc.”
Redmayne viết chữ đại lý bất động sản bên cạnh cái tên Payne.
“Ông làm cho công ty nào?” Pearson hỏi.
“Tôi là đối tác của Baker, Tremlett và Smythe.”
“Có vẻ ông quá trẻ để làm đối tác cho một công ty lớn như vậy nhỉ,” Pearson bình phẩm kiểu rất vô tư.
“Tôi là đối tác trẻ nhất trong lịch sử công ty này,” Payne trả lời, cho thấy gã đã được chuẩn bị trước rất chu đáo.
Redmayne thấy rõ đã có người tập cho Payne kỹ càng từ rất lâu trước khi gã đứng ở bục nhân chứng. Và với một vài lý do đặc biệt, đó không thể là Pearson, vậy là chỉ còn một đối tượng khả thi nhất.
“Chúc mừng ông,” Pearson nói.
“Hãy quay lại vấn đề chính, ông Pearson,” ngài thẩm phán lên tiếng.
“Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi chỉ cố gắng tạo sự tín nhiệm của bồi thẩm đoàn với nhân chứng.”
“Vậy ông đã thành công rồi,” ngài thẩm phán Sackville nói một cách rõ ràng. “Bây giờ mời ông tiếp tục vấn đề chính.”
Pearson kiên nhẫn đặt ra câu hỏi đưa Payne trở lại với những sự việc xảy ra. Phần đúng, gã xác nhận, là Craig, Mortimer và Davenport đều có mặt tại Dunlop Arms buổi tối đó. Phần không đúng, là gã đã không chạy ra ngõ khi nghe thấy tiếng hét. Phần đúng, là cả ba đã về nhà khi được Spencer Craig khuyên nên làm thế. Phần không đúng, là gã chưa bao giờ gặp bị cáo trước đó.
“Cảm ơn ông Payne,” Pearson kết luận. “Ông vui lòng ngồi lại đó.”
Redmayne chầm chậm đứng dậy, cố tình xếp lại mấy tờ giấy trước khi đặt câu hỏi đầu tiên, một thủ thuật bố anh đã dạy khi họ phải xử lý những phiên xử có tính chất giả dối. “Nếu con bắt đầu bằng một câu hỏi bất ngờ, con trai,” bố anh thường nói, “hãy buộc nhân chứng phải đoán.” Anh đợi đến khi ngài thẩm phán, bồi thẩm đoàn và Pearson đều nhìn vào mình. Chỉ vài giây thôi, nhưng anh biết với người đứng ở bục kia, quãng thời gian đó dài bằng cả thế kỷ.
“Ông Payne,” cuối cùng Redmayne cũng lên tiếng, nhìn vào nhân chứng, “hồi còn chưa tốt nghiệp ở Cambridge, có phải ông là thành viên của một hội mang tên Những người lính ngự lâm?”
“Đúng vậy,” Payne trả lời, rõ là bối rối.
“Phải chăng nguyên tắc của hội này là: Mọi người vì một người, một người vì mọi người?”
Pearson đứng dậy trước khi Payne kịp trả lời. “Thưa ngài, tôi cho rằng tìm hiểu quá khứ của thành viên một hội ở đại học không liên quan gì đến những sự kiện xảy ra vào ngày mười tám tháng Chín năm ngoái.”
“Tôi có phần đồng tình với ông, ông Pearson,” ngài thẩm phán trả lời. “Nhưng rõ ràng là ông Redmayne đang cung cấp thêm thông tin cho chúng ta.”
“Đúng như vậy, thưa ngài,” Redmayne trả lời, cặp mắt vẫn không rời khỏi Payne. “Có phải nguyên tắc của tổ chức này là: Mọi người vì một người, một người vì mọi người?” Redmayne nhắc lại.
“Đúng vậy,” Payne trả lời, giọng hơi chút cáu kỉnh.
“Các thành viên hội này còn có điểm chung gì nữa?” Redmay hỏi.
“Kính ngưỡng Dumas(1), công lý và một chai vang ngon.”
“Cũng có thể là vài chai vang ngon?” Redmayne gợi ý, và rút ra một cuốn sách nhỏ màu xanh nhạt trong đống giấy tờ trước mặt. Anh chậm rãi lật từng trang. “Phải chăng một quy tắc của hội này là nếu một thành viên đang trong tình thế nguy hiểm, tất cả thành viên khác phải có nghĩa vụ đến giúp đỡ anh ta?”
“Đúng vậy,” Payne trả lời. “Tôi luôn coi sự trung thành như một tiêu chuẩn, qua đó có thể đánh giá bất kỳ người nào.”
“Có thực là,” Redmayne hỏi, “ông Spencer Craig tình cờ cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm?”
“Đúng.” Payne trả lời. “Anh ấy còn là chủ tịch gần đây nhất.”
“Và anh cùng các hội viên khác đã đến giúp đỡ ông ta vào tối ngày mười tám tháng Chín năm ngoái?”
“Thưa ngài,” Pearson nói và đứng dậy. “Chuyện này thật kỳ cục.”
“Điều kỳ cục, thưa ngài, “Redmayne nói, “là mỗi khi nhân chứng của ông Pearson có vẻ gặp rắc rối, ông ấy đều đứng dậy giúp đỡ họ. Phải chăng ông ấy cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm?”
Vài thành viên bồi thẩm đoàn mỉm cười.
“Ông Redmayne”, ngài thẩm phán nhẹ giọng, “ông cho rằng nhân chứng đang phạm tội khai man trước tòa vì ông ta là thành viên của một hội từ hồi còn ở đại học?”
“Nếu như bạn thân ông ta phải sống cuộc sống tù đầy, thưa ngài, thì có, tôi cho rằng ông ta phải nghĩ tới chuyện này.”
“Thật kỳ cục,” Pearson nhắc lại, vẫn đứng đó.
“Có kỳ cục bằng chuyện tống một người vào tù suốt phần đời còn lại,” Redmayne nói, “vì tội giết người mà anh ta không hề phạm phải?”
“Rõ ràng, thưa ngài,” Pearson nói, “chúng ta sắp biết thêm nhân viên phục vụ ở quán bar cũng là thành viên của Những người lính ngự lâm.”
“Không,” Redmayne phản ứng, “nhưng chúng ta sẽ bằng lòng rằng nhân viên phục vụ là ngươi duy nhất trong Dunlop Arms không ra ngoài ngõ tối hôm đó.”
“Tôi nghĩ ông đã đạt được mục đích,” ngài thẩm phán nói. “Có lẽ đến lúc ông hỏi câu tiếp theo rồi.”
“Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài,” Redmayne nói.
“Ông có cần hỏi thêm nhân chứng không, ông Pearson?”
“Có, thưa ngài,” Pearson nói. “Ông Payne, ông có xác nhận, để bồi thẩm đoàn khỏi nghi ngờ, rằng ông đã không theo ông Craig ra ngoài ngõ sau khi nghe thấy tiếng phụ nữ hét?”
“Có, tôi xác nhận,” Payne trả lời. “Trong hoàn cảnh đó tôi không có lý gì phải chạy ra ngoài.”
“Rõ là vậy. Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.”
“Ông có thể rời tòa, ông Payne,” ngài thẩm phán nói.
Alex Redmayne dễ dàng nhận thấy khi bước ra khỏi phòng xử án, Payne đã không còn giữ được vẻ tự tin như lúc ban đầu.
“Ông có muốn gọi nhân chứng tiếp theo không, ông Pearson?” ngài thẩm phán hỏi.
“Tôi định gọi ông Davenport, thưa ngài, nhưng có lẽ ngài cũng thấy rằng sẽ hợp lý hơn nếu bắt đầu cuộc đối chất với ông ta vào ngày mai.”
Ngài thẩm phán không nhận ra đa số phụ nữ trong phòng xử có vẻ muốn ngay lập tức cho gọi Lawrence Davenport. Ông ta nhìn đồng hồ, hơi lưỡng lự, rồi nói, “Có lẽ đối chất với ông Davenport vào đầu giờ sáng ngày mai là tốt nhất.”
“Hoàn toàn đồng ý với ngài,” Pearson nói, ngấm ngầm vui mừng nhận ra sự có mặt của nhân chứng tiếp theo của mình có ảnh hưởng khá mạnh lên năm phụ nữ trong bồi thẩm đoàn. Ông ta cũng hi vọng Redmayne trẻ tuổi sẽ đủ khờ khạo để tấn công Davenport theo cái cách anh ta đã làm với Gerald Payne.

Truyện Kẻ Mạo Danh PHI LỘ Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 acute;ng tôi ra về tay không.”
“Cái gì? Tại sao lại có thể như vậy được? Ông đã có mọi giấy tờ cần thiết để chứng thực cho yêu cầu của mình, kể cả di chúc của bố ông.”
“De Coubertin nói bản di chúc là giả mạo, và gần như đã tống cổ chúng tôi ra khỏi văn phòng của lão.”
“Nhưng tôi không hiểu gì cả,” Galbraith nói, vẻ thực sự ngạc nhiên. “Tôi đã đem nó đến các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực để giám định, và nó đã vượt qua mọi hình thức kiểm tra đã được biết đến.”
“Thế ư, de Coubertin rõ ràng không đồng ý với vị chuyên gia hàng đầu của ông, vì thế tôi gọi điện để hỏi ông bước tiếp theo chúng ta nên làm gì.”
“Tôi sẽ lập tức gọi cho de Coubertin, và khuyên ông ta chuẩn bị đối mặt với một đơn kiện cả ở London và Geneva. Điều đó sẽ khiến ông ta phải suy nghĩ cẩn thận trước khi tính chuyện giao dịch với bất cứ ai khác trước khi tính xác thực của bản di chúc được phán xử trước tòa.”
“Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần tiến hành công việc còn lại mà chúng ta đã trao đổi trước khi tôi bay đi Geneva.”
“Tất cả những gì tôi cần để làm điều đó,” Galbraith nói, “là số hiệu chuyến bay của cháu ông.”
° ° °
“Ông có lý,” Munro nói khi Danny ra khỏi phòng tắm hai mươi phút sau đó.
“Về chuyện gì?” Danny hỏi.
“Người tiếp theo gõ cửa là người phục vụ,” Munro nói tiếp khi Danny ngồi vào bàn ăn sáng. “Một anh chàng trẻ tuổi sáng dạ rất sẵn lòng cung cấp cho tôi vô số thông tin.”
“Vậy thì anh ta không thể là người Thụy Sĩ rồi,” Danny vừa nói vừa mở khăn ăn ra.
“Có vẻ,” Munro nói tiếp, “ông Hunsacker đã đặt phòng tại khách sạn này từ hai ngày trước. Viên giám đốc đã cử một chiếc limousine ra sân bay đón ông ta từ máy bay riêng. Anh chàng trẻ tuổi nọ còn cho tôi biết thêm, để đổi lấy mười franc Thụy Sĩ, rằng thời gian thuê phòng được để mở.”
“Một món đầu tư khôn ngoan,” Danny nói.
“Còn đáng quan tâm hơn nữa là việc cũng chiếc limousine nọ đã chở Hunsacker tới Ngân hàng de Coubertin sáng hôm qua, tại đó ông ta đã gặp vị chủ tịch trong bốn mươi phút.”
“Chắc là để xem qua bộ sưu tập,” Danny đoán.
“Không,” Munro nói. “De Coubertin sẽ không bao giờ chấp nhận để bất cứ ai đến gần căn phòng đó nếu chưa được ông cho phép. Điều đó sẽ phá vỡ mọi nguyên tắc trong chính sách của ngân hàng. Mà dù sao đi nữa, điều đó cũng không cần thiết.”
“Tại sao không?” Danny hỏi.
“Chắc ông vẫn còn nhớ khi ông nội ông đưa toàn bộ bộ sưu tập ra trưng bày tại Học viện Smithsonian ở Washington để kỷ niệm sinh nhật thứ tám mươi của mình, một trong những người đầu tiên bước qua ngưỡng cửa trong buổi sáng khai mạc chính là Gene Hunsacker.”
“Anh chàng phục vụ còn cho ông biết gì thêm không?” Danny hỏi một cách bình thản.
“Lúc này ông Hunsacker đang dùng bữa sáng trong phòng mình, ở tầng sát trên tầng chúng ta, có lẽ chờ anh tới gõ cửa.”
“Vậy ông ta sẽ phải đợi lâu đấy,” Danny nói, “vì tôi không định trở thành người đi bước đầu tiên.”
“Tiếc quá,” Munro nói,”tôi vẫn nóng lòng được chứng kiến cuộc chạm trán. Tôi đã từng có dịp được tham dự một cuộc thương lượng có ông nội ông tham gia. Khi cuộc thương lượng kết thúc, tôi trở về cảm thấy cả người tả tơi như bị ai dần - và tôi đã ở cùng phía với ông ấy.” Danny bật cười.
Có tiếng gõ cửa vang lên.
“Sớm hơn tôi nghĩ,” Danny nói.
“Có thể đó là chú Hugo của anh đang giơ cao một tờ đơn kiện nữa,” Munro đoán.
“Hoặc chỉ là người phục vụ đến dọn bữa sáng. Dù thế nào đi nữa, tôi cần một chút thời gian để dọn dẹp đống giấy tờ này. Không thể để Hunsacker nghĩ tôi không biết bộ sưu tập trị giá bao nhiêu.” Danny quỳ xuống sàn, Munro cũng tới cạnh anh, và hai người bắt đầu thu dọn những tờ giấy vứt tung tóe khắp sàn.
Lại có tiếng gõ cửa vang lên, lần này có vẻ to hơn. Danny mang toàn bộ đống giấy tờ chạy vào trong buồng tắm, trong khi Munro ra mở cửa.
“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Hunsacker, rất vui được gặp lại ông. Chúng ta đã từng gặp nhau ở Washington,” ông nói, đồng thời chìa tay ra, nhưng người đàn ông Texas đã lao qua trước mặt ông, rõ ràng muốn tìm Danny. Một tích tắc sau, cửa buồng tắm mở ra, và Danny xuất hiện trong chiếc áo choàng của khách sạn. Anh vươn vai ngáp dài.
“Đầu người,” Hunsacker nói. Đồng xu rơi xuống tấm thảm dày trải bên lò sưởi. Nó đứng thẳng trên cạnh rìa.
“Hãy thống nhất ở mức 57 triệu năm trăm nghìn đô la,” Danny nói.
“Chấp nhận,” Hunsacker nói, cúi xuống nhặt đồng xu cho vào túi áo.
“Tôi nghĩ ông sẽ thấy đồng xu đó là của tôi,” Danny hỏi, đưa bàn tay ra.
Hunsacker trả lại đồng xu, cười nói. “Giờ đưa cho tôi chiếc chìa khóa, Nick, để tôi có thể kiểm tra hàng hóa.”
“Không cần thiết phải vậy,” Danny nói. “Nói cho cùng, ông đã nhìn thấy cả bộ sưu tập khi nó được trưng bày ở Washington. Tuy nhiên, tôi sẽ cho ông được cầm cuốn sổ danh sách của ông nội tôi,” anh nói, cầm cuốn sổ bìa da dành cộp từ một chiếc bàn lên đưa cho ông ta. “Còn về phần chiếc chìa khóa,” anh mỉm cười nói tiếp, “ông Munro sẽ trao lại cho ông khi tiền được chuyển vào tài khoản của tôi. Tôi nghĩ ông đã nói sẽ mất vài giờ.”
Hunsacker bắt đầu đi ra phía cửa.
“Và, Gene,” Hunsacker quay lại. “Cố làm chuyện đó trước khi mặt trời mọc ở Tokyo.”
° ° °
Desmond Galbraith nhấc máy điện thoại trên bàn làm việc nối với đường dây riêng của mình.
“Tôi có thông tin đáng tin cậy từ một nhân viên khách sạn,” Hugo Moncrieff nói, “cho hay cả hai người bọn họ đều đặt vé trên chuyến bay 737 của British Airway sẽ cất cánh tại đây lúc 8 giờ 55 phút tối và hạ cánh xuống Heathrow lúc 9 giờ 45 phút tối.”
“Đó là tất cả những gì tôi cần biết,” Galbraith nói.
“Chúng tôi sẽ bay về Edinburgh trên chuyến bay đầu tiên sáng mai.”
“Như thế de Coubertin đã có quá đủ thời gian để cân nhắc xem nên giao dịch với thành viên nào của gia đình Moncrieff.”
° ° °
“Ông có muốn một ly champagne không?” cô chiêu đãi viên hỏi.
“Không, cảm ơn,” Munro nói, “hãy cho tôi một scotch với soda.”
“Còn ông dùng gì, thưa ông?”
“Tôi sẽ dùng một ly champagne, cảm ơn cô,” Danny nói. Sau khi cô chiêu đãi viên đã quay đi, anh quay sang hỏi Munro, “Tại sao ông nghĩ ngân hàng sẽ không quan tâm đến yêu cầu của chú tôi? Nói gì thì nói, ông ấy hẳn đã cho de Coubertin xem bản di chúc mới.”
“Hẳn họ đã phát hiện ra điểm nào đó tôi đã bỏ qua,” Munro nói.
“Tại sao ông không gọi cho de Coubertin hỏi xem đó là gì?”
“Ông ta sẽ không bao giờ thừa nhận đã từng gặp chú ông, chứ chưa nói đến việc đã từng xem qua di chúc của ông nội ông. Tuy thế, bây giờ khi ông đã có gần sáu mươi triệu đô la trong tài khoản, tôi đoán ông sẽ muốn tôi kháng cáo lại mọi cáo buộc?”
“Tôi không rõ Nick sẽ làm gì,” Danny lúng búng trong khi ngủ thiếp đi.
Munro nhướng một bên mày, nhưng không hỏi dồn thân chủ của mình thêm nữa khi nhớ ra Sir Nicholas đã thức trắng cả đêm hôm trước.
Danny giật mình tỉnh dậy khi càng hạ cánh của máy bay tiếp đất tại Heathrow. Anh và Munro nằm trong số những hành khách đầu tiên rời máy bay. Khi xuống cầu thang, họ ngạc nhiên trông thấy ba cảnh sát đứng chờ dưới đường băng. Munro nhận ra họ không mang theo súng tiểu liên, vậy đây không phải là nhân viên an ninh sân bay. Danny vừa đặt chân xuống bậc thang cuối cùng, hai cảnh sát lập tức giữ lấy anh, trong khi người thứ ba bẻ quặt tay anh ra sau lưng và còng lại.
“Ông đã bị bắt, Moncrieff,” một trong ba người nói với anh trong khi họ giải anh đi.
“Vì lý do gì?” Munro hỏi, nhưng ông không có được câu trả lời vì chiếc xe cảnh sát đã rú còi lao đi.
Danny đã trải qua hầu như mỗi ngày kể từ lúc được thả tự hỏi mình đến khi nào người ta sẽ bắt được anh. Điều ngạc nhiên duy nhất là họ gọi anh là Moncrieff.
° ° °
Beth không còn chịu đựng nổi nữa khi nhìn bố nàng, người nàng đã không nói chuyện nhiều ngày qua. Bất chấp những lời cảnh báo của bác sĩ, nàng vẫn không thể tin ông có thể trở nên tiều tụy như thế chỉ sau một thời gian ngắn.
Cha Michael đã đến thăm người con chiên của mình hàng ngày từ khi ông nằm liệt giường, và sáng hôm đó ông đã yêu cầu mẹ Beth tập hợp cả gia đình cũng như các bạn bè thân thiết đến bên giường buổi tối hôm đó, vì ông không thể trì hoãn tiến hành những nghi thức cuối cùng lâu hơn nữa.
“Beth.”
Beth giật mình ngạc nhiên khi bố nàng gọi. “Vâng, bố,” nàng nói, đưa tay nắm lấy tay ông.
“Ai đang trông coi gara?” ông hỏi bằng giọng phều phào hầu như không còn nghe rõ.
“Trevor Sutton,” nàng khẽ trả lời.
“Cậu ta không đủ khả năng. Con cần chỉ định người khác, và thật sớm.”
“Con sẽ làm, bố,” Beth ngoan ngoãn trả lời. Nàng không thể cho ông biết chẳng ai khác muốn đảm nhiệm công việc.
“Chỉ có con và bố thôi phải không?” ông hỏi sau khi im lặng hồi lâu.
“Vâng, bố. Mẹ đang ở phòng ngoài nói chuyện với bà...”
“Bà Cartwright?”
“Vâng,” Beth xác nhận.
“Cảm ơn Chúa vì lương tâm của bà ấy,” Bố nàng ngừng lại lấy hơi trước khi nói thêm, “mà con đã được thừa hưởng.”
Beth mỉm cười. Giờ đây thậm chí nói vài lời cũng đã là quá sức với ông. “Hãy nói với Harry,” đột nhiên ông nói, giọng ngày càng yếu dần, “bố ước gì được gặp cả hai trước khi bố chết.”
Beth đã không còn nói “Bố sẽ không chết” trước đó một thời gian, và chỉ nói thầm vào tai ông, “Tất nhiên con sẽ nói, bố.”
Một lúc lâu sau, ông lại cố gắng thở lấy hơn trước khi thì thầm, “Hãy hứa với bố một điều.”
“Bất cứ điều gì.”
Ông nắm chặt lấy tay con gái. “Con sẽ tranh đấu để lấy lại sự trong sạch cho nó.” Nắm tay của ông yếu dần, rồi tay ông buông ra.
“Con sẽ làm,” Beth nói, dù nàng biết ông không thể nghe thấy nữa.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: Mọt sách
Nguồn: Vnthuquan - Thư vieejn Online
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 17 tháng 10 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--