Chương 7-8

    
hai nằm viện hai tuần rồi trở ra thành một thằng tập tễnh.
Lúc nó nằm trong viện, hầu như ngày nào tôi, Eik, và Porm cũng đến thăm. Chúng tôi mang kẹo tới và cả bọn khoái trá ngồi chén. Có lúc, mấy đứa buôn chuyện to đến mức y ta phải vào phòng bảo khe khẽ cái mồm. Những ngày đầu Chai vẫn còn tâm trạng để vui vẻ với chúng tôi, nhưng từ khi biết mình không còn có thể đi lại bình thường được nữa, nó ngày càng khổ sở, có lúc còn gào lên chửi bới, nhưng cũng có lúc nằm bất động không nói một lời, như thể trong phòng chỉ có một mình nó. Chúng tôi biết từ lâu rằng Chai luôn muốn trở thành một người lính như bố mình, nhưng những gì xảy ra đã làm tan nát giấc mơ ấy, tan nát mọi thứ mãi mãi.
Dẫu vậy, có người còn thất vọng và đau lòng trước bước ngoặt éo le của số phận hơn cả bản thân Chai, đó là mẹ nó. Bà cứ than khóc không ngừng và cuối cùng thì chúng tôi cũng đã chán ngấy việc cố an ủi bà.
Trong thời gian đó, mải bận với ba đứa kia, tôi không gặp Jom thường xuyên nữa. Chúng tôi không đi bộ cùng nhau vào sẩm tối, cũng không còn tới quán cóc nghe “Chai thời gian”. Cứ như thể tất cả đã bị ném bỏ vào một cái hộp cũ.
Thế rồi, một tối, tôi thấy Jom sánh vai bên một nam sinh lớp mười hai trên con đường quen mà chúng tôi thường dạo bước. Khó mà nói rõ khi ấy tôi cảm thấy thế nào. Một cảm xúc pha trộn giữa khinh thường, cay đắng và đau lòng dâng lên mỗi lần tôi nghĩ đến chuyện ấy. Tôi ít nói chuyện với Jom hơn. Kể cả khi chị ráng bắt chuyện với tôi trong lớp nhạc, tôi cũng kiệm lời nhất có thể.
Porm nhận ra thay đổi ấy trước bất kì ai.
“Cậu với Jom làm sao thế?” Porm điềm nhiên hỏi khi thấy tôi ì ạch kéo hộp đàn vĩ cầm đến chỗ nó với Chai, hai đứa đang ngồi vắt vẻo trên ghế đá bên sân bóng xem Eik luyện tập.
“Chả làm sao cả,” tôi vừa đáp vừa ngồi phịch xuống tràng cỏ nhưng ánh mắt không khỏi đảo về phía tòa nhà nơi Jom đang bước xuống bậc thềm, chú Mean cầm hộp đàn và cặp sách đi ngay sát sau lưng.
“Đừng như con lừa thế.” Porm vừa nói vừa huých khuỷu tay vào sườn Chai. “Chai, mình lêu lêu con là béo kia đi.”
“Để mình yên.” Chai khó chịu quay đi nhìn chỗ khác.
“Cái gì đấy!” Porm gắt lên. “Này, các cậu làm sao thế hả? Bị táo bón hết cả lũ hả? Đứng đấy mình thụi cho một phát.”
“Ra chỗ khác mà lên cơn đi được không?” Chai bực mình đứng lên.
“Không, cậu biến thì có.” Porm sưng sỉa. “Mình ở đây trước cơ mà. Cậu có quyền gì mà đuổi mình đi hả?”
“Cái ghế này là của cậu từ lúc nào đấy?” Chai không chịu thôi.
“Hai đưa thôi đi được không?” Tôi ngán ngẩm lắc đầu. “Cãi nhau như trẻ ranh. Bao giờ hai cậu mới lớn lên được đây?”
“Tức là hẹn hò với con gái như cậu ấy hả?” Chai xỉa xói. “Thế sao cậu còn quay lại chơi với bọn trẻ con này làm gì? Thảo nào mà bà chị ấy đá cậu.”
“Thằng điên này...!” Tôi nhảy chồm lên, nhưng Chai đã nhanh nhẹn kéo cái chân đau đi..
“Béo,” Porm khẽ gọi. Tôi quay phắt lại, đã sẵn sàng cho nó ăn đấm, nhưng khi nhìn thấy nét mặt nó, tôi chỉ biết im lặng ngồi xuống.
“Nghe mấy câu này này,” con bé nói.
“Tình yêu không cho gì ngoài chính nó và không lấy gì ngoài chính nó.
Tình yêu không chiếm đoạt và cũng không bao giờ bị chiếm đoạt;
Bởi tình yêu là đủ cho tình yêu.”
“Là sao?” Tôi bối rối trợn mắt nhìn nó.
“Khalil Gibran,” Porm trả lời, nét mặt trang nghiêm.
“Thì sao? Liên quan gì đến mình?” Tôi cục cằn hỏi, lòng đầy khó chịu.
“Có thể chẳng liên quan gì.” Porm chậm rãi đáp. “Nhưng không chừng nó sẽ giúp cậu hiểu một số thứ hơn.’
“Mình không hứng thú với cái đống thơ thẩn rẻ tiền của cậu.” Tôi túm lấy cặp sách và hộp đàn. “Nếu cậu cứ ăn nói linh tinh như thế, có ngày mình đá cho bay mông.”
“Rồi có ngày cậu sẽ hiểu!” Porm hét với theo tôi. Giọng nó nghe như thủy tinh vỡ. Tôi cúi đầu rảo bước biến thật nhanh khỏi đó, tự nhủ rằng tình cảm của tôi giành cho Jom không giống như Porm nói. Chỉ là tôi không muốn chia sẻ chị ấy với ai và không muốn kẻ khác xâm phạm vào thứ từng thuộc về hai chúng tôi.
Tôi nằm nghiêng nhìn đăm đăm vào chiếc đồng hồ cát đặt trên đầu giường. Chậm rãi, không ngừng nghỉ, những hạt cát chảy xuống như những giọt nước mắt thời gian. Một bản nhạc jazz cũ ngân vang từ cái máy nghe nhạc cầm tay bố tặng mấy năm trước. Tôi còn nhớ hai anh em đã phấn khích nhường nào khi bố mang cái máy về nhà. Trông nó như chiếc cặp táp nhỏ, đen bóng và có mùi mới tinh. Bố đặt nó lên bàn, mở ra, cắm điện, chọn một cái đĩa trong túi giấy rồi lắp vào. Bố vặn mấy cái nút thì đĩa bắt đầu quay. Trong lúc đó, chúng tôi quây quanh cái kì quan ấy mà nín thở chờ tiếng nhạc. Tôi nhớ mang máng bài hát đầu tiên là “Hãy nhớ rằng anh yêu em” của Ken Dodd hoặc một bài của Johny Mathis, ca sĩ nhạc nhẹ mà mẹ rất thích.
Hàng năm trời, cái máy đó nằm ngoài tầm với của lũ trẻ con chúng tôi. Mẹ cất nó tít trong tủ đồ của bà và mỗi khi rảnh rỗi lại mang ra bật như thể đó là một chương trình vô tuyến hay phát thanh riêng.
Tôi và Ning thường ca cẩm sau lưng mẹ về tính ki bo của bà, nhưng bố rời đi rồi, mẹ để máy nghe nhạc trong phòng khách và không bao giờ đụng đến nó nữa, cũng không la mắng khi hai đứa bật nhiều đến mòn cả máy. Cuối cùng, khi mẹ vác chiếc đài stereo từ nhà bà ngoại về, cái máy con này được chuyển lên phòng tôi cư ngụ cho tới tận bây giờ.
Có tiếng gõ cửa và giọng Ning vang lên. “Anh Nat, em vào được không?” Tôi rời mắt khỏi đồng hồ cát, ra mở cửa. “Sao chưa ngủ?” tôi hỏi khi nó bước vào phòng.
“Em chẳng buồn ngủ,” Ning đến bên cửa sổ lơ đãng nhìn vào bóng đêm bên ngoài.
“Lại lây bệnh của mẹ rồi,” tôi vừa trêu con bé vừa khép cửa rồi tới đứng cạnh nó.
“Chẳng biết nữa.” Ning lắc đầu. “Nhưng em không nghĩ thế.”
“Có chuyện gì à?” Tôi tì tay lên khung cửa, nghi ngại nhìn em gái. Ning nổi tiếng là nhắm mắt cái là ngủ ngay. Một khi nó buồn ngủ, nó mặc kệ mọi thứ xung quanh. Tôi còn nhớ có năm vào đêm Wachirarwut, nó tựa vai bố ngủ suốt lễ hội, nhưng vừa về đến nhà thì nó thức giấc làm ỏm tỏi lên, đòi đi chơi hội lại.
“Anh có để ý thấy mẹ có gì lạ không, Nat?” Ning hỏi mà không quay lại nhìn tôi.
“Không,” tôi lắc đầu. “Sao thế?”
“Dạo này tối nào mẹ cũng về nhà muộn.” Ning quay sang tôi. Đôi mắt nó chất chứa ưu tư muộn phiền. “Đến giờ này mẹ còn chưa về.”
“Chắc mẹ đang lo công việc gì đấy thôi,” tôi an ủi nó và tự thấy bản thân dạo này ít quan tâm tới mẹ và Ning: về đến nhà là tôi chui vào phòng đóng cửa một mình.
“Nhưng em nghĩ là mẹ thay đổi,” Ning nói như tự lầm bầm với chính mình. “Mẹ ăn mặc gọn gàng hơn. Mẹ cũng có nhiều quần áo mới, lại còn tối nào cũng có xe hơi đưa về.”
“Ái chà, xem ai trinh sát tốt chưa kìa!” Tối khẽ vò mái tóc xoăn của nó. Chẳng ai hiểu vì sao tóc nó lại xoăn như vậy, nhưng bố mẹ từng tranh cãi về chuyện này khi mẹ cố là thẳng tóc nó còn bố nhất quyết không chịu. Khi bố vui vẻ, ông sẽ chải tóc con bé cho tới khi tóc nó xù tung như cây chổi của Chú hề Bozo, rồi Ning sẽ đi đi lại lại, nhảy tưng tưng hoặc liếc xẹo mắt trong khi mẹ chán chường ngó đi chỗ khác.
“Em không biết.” Ning lùi lại. “Có thể chẳng có chuyện gì cả.”
“Thế này đi,” tôi đến bên máy nghe nhạc thay đĩa, nhìn Ning trong lúc cân nhắc. “Bọn mình xuống dưới nhà cùng đợi mẹ về.”
Ning liếc nhìn đồng hồ để bàn đặt bên giường rồi chậm rãi gật đầu.
Ti vi đã hết chương trình từ lâu mà mẹ vẫn chưa về. Tôi ngáp dài, ngả người nằm xuống ghế mây và với cái gối nhỏ kê đầu. Trong lúc đó, Ning ngồi đọc sách trên sàn, nhưng mắt nó vẫn liên tục hướng ra cửa.
“Đang đọc gì đấy?” tôi hỏi vu vơ.
“Cuốn Người mẹ của Maxim Gorky,” nó đáp rồi giơ cuốn sách lên cho tôi nhìn.
“Nghe nhạc không? Anh đi lấy máy nghe nhạc cho.”
“Thôi,” nó đáp. “Em muốn yên tĩnh hơn.”
“Ning,” tôi khẽ gọi nó. Nó ngơ ngác quay lại nhìn tôi. “Anh nhớ bố.”
“Em cũng thế,” nó gập sách lại để xuống sàn. “Bố mà ở đây đêm nay thì tốt bao nhiêu.”
Bên ngoài, gió thổi mạnh khiến cửa sổ cứ kẽo kẹt liên hồi. Tiếng côn trùng đêm vỗ cánh mơ hồ vẳng lại từ xa, thoảng cùng hương đất ẩm và mùi cỏ khô.
Tôi nhớ lại một đêm hồi chúng tôi còn sống trong căn nhà cũ bên sông. Mẹ vừa cãi nhau với bố và bỏ nhà đi được mấy tiếng. Khi đêm xuống, ba bố con tôi nằm thao thức trong màn. Chúng tôi lắng tai nghe tiếng lá khô lạo xạo rồi lại nhìn nhau thất vọng khi nhận ra không phải bước chân mẹ về. Khi một con thằn lằn mắt đỏ rực bò lên xà nhà trên đỉnh màn kêu “Tắc! Tắc!”, bố quàng tay ôm chặt hai đứa. “Bố,” tôi khẽ gọi, trong khi mắt vẫn nhắm nghiền. “Mẹ đi đâu thế bố?” Bố lặng đi một lúc, rồi trả lời, giọng nửa đùa nửa thật: “Mẹ đi gặp người yêu mới rồi.” “Con không chịu đâu!” Ning bực bội. “Con sẽ lấy gậy đánh vào đầu ông người yêu mới.” “Con cũng thế,” tôi vội vàng hùa theo. “Con sẽ bắn chết ông ta.” “Đừng vội vàng,” bố nói. “Mình phải có kế hoạch cẩn thận. Bố sẽ để một cái vỏ chuối ngoài cửa. Khi ông ta trượt vỏ chuối ngã, thùng nước mình treo trên cửa sẽ rơi trúng đầu ông ta. Khi đó con có thể chạy đi kiếm gậy, Ning, còn Nat thì chạy đi mua súng.” “Cả chó nữa!” Ning phấn khích. “Chúng ta sẽ xùy chó cắn ông ta.” Hai anh em quên khuấy luôn con thằn lằn mắt đỏ và những lo lắng trong lúc đợi mẹ về, mải mê hứng thú lập kế hoạch trừ khử gã người yêu mới của mẹ thế nào cho tới khi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, đã thấy bố mẹ ngồi đợi bên bàn ăn sáng. “Người yêu mới của mẹ đâu?” Tôi hỏi mẹ. “Con sẽ tự tay đánh chết ông ta,” Ning hăng hái tuyên bố. Biết ngay chuyện gì đã xảy ra, mẹ lập tức gây sự với bố. Hai người lại mắng chửi nhau đến tím cả mặt và đĩa bát lại bay đi các hướng. Lần này bố là người lao ra khỏi nhà mất mấy ngày không về, bỏ lại tôi và Ning ôm nhau sợ rúm mỗi lần con thằn lằn mắt đỏ rực trèo lên xà nhà buông ra những tiếng ghê người.
Điện thoại đột ngột đổ chuông, phá vỡ bầu tĩnh mịch. Cả hai chúng tôi giật mình lao đến bên nó.
“A lô?” Ning sốt sắng. “Mẹ đấy ạ?”
“Mẹ, con Nat đây.” Tôi giằng lấy ống nghe.
“Đêm nay mẹ không về nhà đâu Nat,” giọng mẹ nghèn nghẹt. “Chúng mày làm gì mà giờ này chưa ngủ? Mai không dậy đi học được bây giờ.”
“Mẹ?” tôi nuốt nước bọt. “Mẹ đang ở đâu đấy?”
Ning vội vã áp tai vào ống nghe.
Mẹ im lặng một hồi, rồi đáp khẽ: “Mẹ đang ở nhà bác Amorn. Hai đứa đừng lo.”
Tôi còn định nói tiếp thì mẹ đã dập máy. Những tiếng bíp bíp nghe như tiếng cười mỉa mai. Tôi uể oải đặt ống nghe xuống.
Ning lặng nhìn tôi rồi tóm lấy quyển sách chạy lên gác không nói một lời.

Chương 8
ôi vẫn nhớ ngôi nhà cũ bên sông. Đó là một ngôi nhà gỗ hai tầng sơn màu lục sẫm, mái ngói bằng, ba chái. Một dải họa tiết được đục theo đường viền mái, và khi ánh mặt trời chiếu qua các họa tiết, nó tạo thành những bóng nắng nghiêng nghiêng trên giường hay sàn nhà. Mái nhà được lợp những viên ngói kiểu cũ. Hai anh em tôi thích nhặt những mảnh ngói vỡ liệng xuống sông. Nếu vẩy cổ tay chuẩn xác, mảnh ngói sẽ chỉ chạm sượt qua mặt nước rồi lại nẩy thêm một đoạn khá xa.
Sàn nhà lát những tấm gỗ lớn, được mẹ lau chùi nhiều nên láng bóng. Thỉnh thoảng, mẹ mua dầu hỏa về rồi bảo tôi và Ning thoa khắp sàn. Như thế sàn không chỉ bóng lộn mà còn trừ được những con côn trùng nhỏ sống trong các khe gỗ.
Còn một thứ nữa tôi vẫn còn nhớ rất rõ là những bậc thang, chúng cao tới nỗi tôi với Ning phải trèo từng bậc một, và đã có lần Ning bị ngã lộn cổ từ trên cầu thang xuống, phải băng đầu mấy ngày liền.
Sau nhà có một con mương nhỏ nông choèn. Mấy con cá lon mây với đôi mắt lồi và bộ vây ngắn vẫy vùng trong bùn lầy bên bờ. Vào mùa mưa, những con thuyền nhỏ có thể chèo qua đó. Thỉnh thoảng cũng có cả thuyền bán than hay nước mắm. Những lúc ấy, bùn từ dưới đáy sủi lên trên mặt nước, làm cả con mương đen sì bốc mùi nồng nặc.
Tôi và Ning thích nhất là dùng vợt cá có tay cầm dài để chụp cá nhái. Anh em tôi chỉ bắt mấy con to đuôi đỏ, cho vào bát rồi ngắm nhìn chúng lanh lẹ bơi vòng quanh, nhưng chẳng được mấy chốc thì chúng lao đầu như điên vào thành bát cho đến khi miệng nứt toác ra. Chẳng ai biết tại sao chún” bố vừa hỏi vừa rót rượu vào cốc.
“Không phải bận tâm đến tôi đâu,” mẹ nhạo báng đáp và vẫn ngồi thẳng đơ.
“Đây, Nat, vậy con uống với bố.” Bố rót soda vào cốc đưa cho tôi.
“Anh không thể dạy thằng bé thứ gì tốt dù chỉ một lần trong đời thôi hả?” Mẹ ném vào bố ánh mắt ghê tởm.
“Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Bố bắt đầu châm chích mẹ.
“Hẳn rồi. Vậy thì, Ning, đừng quên kiếm cho mày một thằng nát rượu.”
“Không đời nào. Con ghét rượu.” Ning nhăn mặt và đút thêm lưỡi bò hầm vào miệng.
“Nếu nó không nát rượu thì lại là một thằng Sở Khanh,” bố nhướng mày. “Phải chọn thôi.”
“Dù mày yêu ai, cố mà đừng chọn một thằng được cả hai phẩm chất ấy,” mẹ lập tức phản pháo.
“Hai bao giờ chả hơn một.” Bố nâng cốc uống. “Như người ta vẫn quảng cáo đấy, mua một tặng một. Không dễ lấy không thế đâu, con biết đấy, nhóc.”
“Anh chỉ nghĩ đến bản thân thôi.” Mẹ ném dao dĩa sang một bên. “Nếu anh vẫn còn muốn la cà và chài gái thì anh cưới tôi làm gì?”
“Cô chẳng bao giờ hiểu tôi hết.” Bố đặt sầm cốc rượu xuống bàn. “Không bao giờ hiểu tôi từ đầu cho tới tận bây giờ.”
“Rõ rồi. Hiểu anh đồng nghĩa với chấp nhận con đàn bà kia, phải không?”
“Không cần đến mức đó. Chỉ cần đầu óc cô thoáng ra và có tí trân trọng cảm giác của người khác thôi.”
“Anh muốn tôi quỳ mọp trước con đàn bà khốn nạn đó mà ca ngợi cô ta vì đã cướp chồng ngời khác?” mẹ cao giọng.
“Đừng xúc phạm cô ấy.” Giọng bố còn to hơn.
“Sao không được? Con đó thì có gì tốt đến nỗi tôi không được động đến một câu hả? Nếu nó tốt thật thì nó đã không…”
“Im ngay!” bố hét to đến nỗi tất cả mọi người trong nhà hàng đều quay lại nhìn chúng tôi.
“Nat, Ning, về.” Mẹ tóm lấy túi xách, đứng bật dậy sầm sầm dời bàn, Ning chạy theo bà.
“Nat…” Bố chộp tay tôi. “Chăm lo cho mẹ và em con. Sinh nhật con tuần sau, bố sẽ đến.”
“Bố.” Tôi nhìn ông và cắn mạnh môi.
“Đợi đã.” Bố rút ví lấy ra ít tiền nhét vào tay tôi. “Cầm lấy. Đừng quên cho Ning một ít và thay bố trả tiền taxi.”
Nếu ai đó hỏi tôi bản nhạc yêu thích của thầy Wa-thin là gì, tôi sẽ trả lời ngay là “Cây bồ đề buông mành”. Ngoài ông Suthin Theisarrak, tác giả bản nhạc, mà tôi từng được xem biểu diễn vài lần trên ti vi, tôi chưa từng thấy ai chơi “Cây bồ đề buông mành” sống động như thầy Wa-thin.
“Bao giờ thì thầy định dạy bọn em chơi bài này ạ?” Jom hỏi trong lúc thầy dạy nhạc của chúng tôi đang lên dây đàn.
“Các trò quá nôn nóng muốn đi tắt.” Thầy Wa-thin vừa cười vừa hạ cây vĩ cầm khỏi vai. “Vào thời các thầy học vĩ cầm, chúng ta không nóng vội vậy đâu. Chúng ta phải tập luyện vất vả hằng ngày trong nhiều năm liên tục.”
“Thôi mà, thầy,” một bạn khác cười. “Nếu bọn con tập như thầy bảo, bọn con sẽ sớm chết đói đấy ạ. Bọn con không thể đọ với hội chơi ghita: những tay đó, sau vài buổi họ đã tập ding-deng-dong, và giờ họ đã lập cả một ban nhạc rồi.”
“Mọi thứ trên đời này đều nằm ở cách đánh giá của ta,” thầy Wa-thin trầm ngâm đáp. “Thầy không phải là người quyết định thứ gì tốt hơn hay tồi hơn. Điểm quan trọng nằm trong chính trái tim của mỗi chúng ta. Nó sẽ mách bảo chúng ta điều ta yêu mến và điều ấy có giá trị với ta đến chừng nào.”
“Thầy ơi, con muốn nghe ‘Cây bồ đề buông mành,’” tôi lên tiếng. “Thầy chơi cho chúng con nghe được không ạ?”
“Được.” Thầy Wa-thin im lặng một lát rồi gật đầu. “Ai thích nghe thì giơ tay lên.”
Tất cả chúng tôi đều giơ tay cao hết cỡ.
Thầy Wa-thin nâng cây vĩ cầm đặt lên vai, cúi đầu để cằm tựa vào miếng đỡ cằm rồi hít một hơi dài đưa vĩ lên dây...
“Vậy em đã quên, đã quên tất cả rồi phải không em?” Tôi khẽ ngân nga theo dòng chảy tinh tế của giai điệu.
“Béo!” Jom dùng vĩ khẽ chọc vào tôi. “Coi kĩ xem. Chị nghĩ thầy đang khóc.”
“Ôi trời, chị nói đúng!” Tôi gật đầu. “Em nghĩ bản nhạc này khiến thầy xúc động sâu sắc.”
“Chị không chắc là vậy.” Jom lắc đầu. “Chị nghĩ nó liên quan tới điều gì đó trong quá khứ của thầy.”
“Chết thật!” tôi than. “Đáng nhẽ mình không nên khơi lại vết thương cũ của thầy ấy.”
“Thôi quên đi.” Chị cúi người tới thầm thì. “Có lẽ đó là lý do vì sao thầy chơi cảm động lòng người đến thế. Chắc chị cũng nên tìm cho mình một bản nhạc khuấy động lại những kí ức cũ để chị có thể chơi hay như vậy.”
“Đừng dại thế,” tôi ngăn chị. “Ai mà biết được mỗi lần khơi lại những vết thương cũ như thế này thì người chơi cảm thấy ra sao.”
“Có thể cậu đúng,” Jom công nhận. “Nhưng chị thích nỗi đau, vì nó đem lại cho chị một cảm giác hạnh phúc. Có những lúc, sau khi khóc lóc vật vã chị lại cảm thấy đỡ hơn.”
“Em không biết chuyện đó,” tôi lắc đầu. “Em chỉ biết rằng nỗi đau, dù như thế nào, luôn nhức nhối.”
“Tối nay đi quán cóc đi,” Jom đề nghị.
“Đi.” Tôi nhìn thầy Wa-thin. “Chị nhớ kẹo lạc hả?”
“Không,” Jom đáp. Thật ra chị đang nghĩ đến ‘Chai thời gian’.”
“Chai thời gian” cứ ngân đi ngân lại, buồn bã và cô độc khôn tả. Jom đang ngồi trên cùng chiếc ghế đó. Chị trông ra những cánh đồng hoang và dãy lều lụp xụp dựng từ các mẩu gỗ bỏ đi hoặc mấy tấm nhôm mạ kẽm mọc lên như nấm.
“Thời gian đã qua không bao giờ có thể như xưa nữa,” Jom dịu dàng nói. “Nếu chúng ta thật sự có thể cất giữ thời gian mà giành bên người ta yêu, chị không chắc chúng ta có thể thực sự hạnh phúc lần thứ hai.”
“Cuộc sống là hi vọng.” Tôi cúi đầu nhấp một ngụm cà phê đá trong cốc, “Ít nhất, chúng ta có thể luôn hi vọng có thứ gì đó tốt đẹp hơn đang đợi ta phía trước.”
“Đó là sai lầm khủng khiếp nhất mà nhân loại mắc phải...” Chị lóng cóng nhích người. “Bởi vì nó khiến ta không biết hài lòng với cái đang có, vậy nên chúng ta chỉ cố chịu đựng và không ngừng đeo đuổi cái không có được.”
“Em nghĩ chị nên học triết,” tôi thật lòng bảo chị.
“Vì sao?” Chị bật cười. “Cậu nghĩ chị nói hươu nói vượn?”
“Không.” Tôi khoát tay xua lũ ruồi. “Em chỉ đang nghĩ triết học có thể đem lại một vài lời đáp cho những câu hỏi của chúng ta về cuộc đời.”
“Chị có câu trả lời của mình.” Jom đặt bàn tay lên cốc cà phê đá.
“Chúng là gì?” tôi vừa hỏi vừa nhìn chiếc Mercedes-Benz đen bóng - biểu tượng của thanh thế, danh tiếng và gia sản mà chị sở hữu.
“Rồi cậu sẽ sớm tìm ra thôi.” Cô gái thở dài ơ hờ. “Bài hát sắp hết rồi. Nhét thêm xu đi.”
“Lại ‘Chai thời gian?’ ” tôi hỏi.
“Tất nhiên.” Chị cười. “Chị sẽ nghe bài này cho đến khi mòn đĩa.”
Nếu cất được thời gian trong chai
Điều đầu tiên tôi mong được làm
Là chắt chiu giành dụm từng ngày
Cho tới khi vĩnh hằng trôi qua
Chỉ để giành trọn chúng bên em
...
Nếu tôi có một chiếc hộp chỉ giành cho ước nguyện
Và những giấc mơ không bao giờ thành hiện thực
Chiếc hộp đó sẽ chẳng có gì đâu
Ngoài kí ức
Về cách em đáp lại những ước nguyện kia”

Chương 4
 
au sự cố ở quán người đầu bếp già hôm đó, không khí trong nhà tôi càng căng thẳng hơn. Tôi không biết phải giải thích ra sao. Cứ như thể mỗi người trong ba chúng tôi đã tự giam bản thân vào thế giới riêng chật hẹp, ngột ngạt của mình. Mẹ cứ mãi chửi rủa bố và “con kia” với những từ ngữ mà tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ tuôn ra từ miệng mẹ mình. Bà cố khắc sâu trong đầu chúng tôi rằng bố là một kẻ vô tích sự chưa từng tỏ ra có chút trách nhiệm nào với gia đình, không bao giờ thèm ngó ngàng đến chúng tôi một tẹo teo nào. Còn về “con kia”, ả đần độn, ích kỉ và hoàn toàn vô liêm sỉ. Nếu chúng tôi có việc gì không vừa ý bà, thậm chí những thứ nhỏ nhặt nhất, bà sẽ nổi cơn tam bành như thể đó là chuyện sống chết và sẽ đi đến kết luận rằng chúng tôi khốn nạn giống bố.
Ning trở nên lặng lẽ bất thường. Nó thất vọng và thường chìm đắm vào suy tư, cứ như chỉ qua một đêm, nó đã trút bỏ lại cả tuổi ấu thơ. Không còn những tràng cười hồn nhiên, không còn vẻ mơ màng trong mắt nó, không còn niềm mê say với mọi thứ xung quanh, không còn nhảy cẫng lên vui sướng. Càng ngày nó nói càng ít, ngay cả với tôi, người từng gần gũi với nó xiết bao, và thậm chí còn ít hơn với mẹ, như thể Ning tránh phải đối diện với bà. Nó chỉ mở miệng khi cần và điều ấy khiến hố sâu ngăn cách giữa chúng tôi càng lớn.
Còn với tôi, ngôi nhà đã trở thành một nơi tẻ ngắt. Vào những ngày có tiết vĩ cầm, tôi và Jom sẽ tới quán cóc, tiêu tốn thời gian vào kẹo lạc và cà phê đá, nghe đi nghe lại “Chai thời gian”. Mặc dù có nhiều đĩa khác, chúng tôi chỉ chọn nghe bài này, cảm thấy nó thuộc riêng về mình. Đây là quãng thời gian đẹp nhất của hai chúng tôi. Đôi lúc, chúng tôi ngồi trong im lặng tuyệt đối, như sợ rằng thoáng thanh âm mỏng nhất cũng sẽ làm phiền người khác, nhưng có lúc hai đứa lại buôn chuyện không ngừng mà chẳng hề để ý đến những người khác trong quán.
Vào những ngày không có tiết vĩ cầm, tôi hay ngồi với Porm ở sân bóng hoặc trong căng tin, chán nản nhìn Eik và Chai tập luyện. Tôi chưa bao giờ có hứng thú với thể thao, có lẽ vì ở tôi sớm hình thành mặc cảm về ngoại hình mập mạp của mình. Khi còn nhỏ, bị kêu là yếu ớt vụng về, tôi bị đá ra khỏi đội. Thỉnh thoảng tôi vào chơi thế chỗ tạm thời cho ai đó và dù có cố hết sức cũng chỉ khiến đối phương cùng đội mình cười nhạo.
Porm luôn đợi để về nhà cùng Eik và Chai, bỏ lại mình tôi chán nản lang thang ở các trung tâm thương mại. Chưa phải thật khuya thì tôi sẽ không về nhà, cốt để tiếp xúc với mẹ càng ít càng tốt.
Tôi nhớ như in rằng sinh nhật lần thứ mười bốn của mình rơi vào một hôm thứ Tư bởi vì ngày hôm đó có nhiều chuyện xảy ra đã khắc sâu vào kí ức tôi.
Vào thứ Ba, một ngày trước sinh nhật, tôi học vĩ cầm như mọi bữa. Hôm đó tâm trạng thầy rất tốt, quá giờ lâu rồi thầy vẫn say sưa chuyện trò với chúng tôi. Tôi không còn nhớ thầy nói gì, chỉ nhớ lúc thầy lại đứng lên chơi đàn để minh hoạ một điểm nào đó, và điều đó gợi tôi nhớ đến thầy giáo thể dục ở trường tiểu học. Tên thầy là But, quê thầy ở Nakhorn See Thammart thuộc miền Nam. Vóc người thầy nhỏ bé nhưng săn chắc. Những buổi đầu đến trường, tôi khóc lóc giãy giụa đòi theo mẹ về, thầy But liền tóm tôi lại ôm cho tới lúc tôi nín. Lúc ấy tôi thấy thầy thật khổng lồ và đáng sợ, nhưng thời gian trôi qua, tôi cũng nhận ra rằng thực ra thầy là người nhỏ thó và chẳng có gì phải sợ. Trong tiết thể dục, sau khi chúng tôi khởi động vã mồ hôi, thầy But bảo chúng tôi ngồi thành vòng tròn vây quanh thầy rồi thầy kể cho nghe câu chuyện về một cậu nhóc tên Son Bé có trong tay một cây sáo thần. Mỗi khi gặp nguy hiểm, Son Bé sẽ rút cây sáo ra thổi - đến đoạn này tiếng kèn clarinet rộn rã của thầy But sẽ vang lên thay thế. Son Bé đã thổi sáo xua đi bao nguy hiểm khác nhau hết tuần này qua tuần khác kể từ thời khắc tôi bước vào lớp một cho đến thời khắc tôi học xong lớp năm, luôn có tiếng kèn clarinet vui tươi đồng hành.
“Hôm nay chị phải về sớm.” Jom bảo tôi khi thầy Wa-thin cho lớp nghỉ.
“Vậy thì không tới quán cóc nữa.” tôi thất vọng đáp.
“Ừm...” Jom nhìn tôi như thể đang cân đo đong đếm trong đầu rồi liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Thật ra, chúng ta có thể đi, nhưng phải nhanh. Đi ô tô nhé, như vậy sẽ có chút thời gian nói chuyện.”
“Được thôi,” tôi đồng ý, gượng cười kéo hộp đàn vĩ cầm khỏi tay chị.
Jom quan sát điệu bộ sốt sắng của tôi với nụ cười vui thú. “Nếu cậu biết bay, chị cá là cậu đã cất cánh rồi.”
“Chắc chắn. Nếu em bất ngờ hiện ra ở đó ngay lúc này thì còn hay hơn.”
“Thế sao cậu không thử đào đường ngầm xem?” Jom vừa bước ra cửa vừa trêu tôi.
“Không đời nào.” Tôi lắc đầu. Em sợ sẽ gặp Phra Ruang mất. Em không muốn lập tức biến thành đá như cái người Khmer trong truyền thuyết ấy đâu.”[1]
 “Thế không tốt sao? Cậu sẽ chẳng phải đi đâu và được nghe ‘Chai thời gian’ suốt cả ngày.”
“Không, vậy không ổn.” Tôi bước một bước rồi quay sang nhìn chị. “Bài hát này là của chúng ta. Chúng ta nên cùng nghe mới phải.”
Đó là lần đầu tiên tôi và Jom cùng ngồi trong chiếc xe Mercedes đen bóng tới quán cóc thay vì đi bộ buôn chuyện suốt dọc đường trong khi chú Maen lái chầm chậm phía sau như mọi khi.
“Đợi chút,” Jom bảo tôi khi chúng tôi bước vào quán. Chị tới bên máy hát, lục trong túi áo lấy vài đồng xu đút vào máy. Cô gái mỉm cười khi bước trở lại bàn. Chiếc đĩa hát tự động trượt vào vị trí, kêu tách một cái. Tôi dỏng tai lắng ngheuôi dài đang nối nhau cập bờ. Tất cả những cây lamphu bên rìa nước đã bị đốn bỏ. Đám đom đóm hẳn phải cảm thấy lẻ loi lắm, và buổi tối của bọn trẻ ngày nay bởi thế mà cũng buồn tẻ hơn. Tôi rời ánh mắt khỏi bờ sông nhìn về cái nơi từng sừng sững một ngôi nhà gỗ mái bằng màu lục sẫm và thấy khó lòng mường tượng lại nó trong tâm trí. May sao, cây me tây vẫn tỏa bóng ở đó dù trông nó giờ già cỗi và rệu rã đi nhiều.
Cây me tây nhắc tôi nhớ đến Ning và một cậu con lai tên Johnny. Bố Johnny là người da trắng tóc vàng cao lớn. Tôi không biết chú là người nước nào, vì trong mắt chúng tôi thời đó tất cả người da trắng trông đều na ná nhau. Mẹ Johnny là người Philippin, nói tiếng Thái bập bõm. Khi họ chuyển đến sống kế bên nhà tôi, Johnny chừng năm tuổi rưỡi. Nó còn có một đứa em gái bé tí rất hay khóc nhè. Johnny không nói được tiếng Thái, nhng nó cũng cố gắng kết bạn được với Ning. Hai đứa nó cùng chơi, cười đùa vui vẻ với nhau, trong khi cô em gái nhỏ của Johnny luôn lẽo đẽo theo anh nó khắp mọi nơi. Còn tôi thì đã quá lớn không thể chơi búp bê hay mấy trò con nít đó nữa.
Johnny làm một căn nhà nhỏ bằng thùng gỗ dưới gốc cây me tây. Nó trộm sơn trắng của bố sơn được một mặt thì bị nện một cú khiến nó la oai oái, và mặt nhà đó vẫn giữ nguyên màu trắng cho tới khi cả căn nhà mục nát. Tôi không biết Johnny bày tỏ với Ning bằng cách nào nhưng con bé kể với tôi rằng cậu bé hứa lớn lên sẽ cưới con bé và xây cho nó một ngôi nhà thật ngay bên gốc me tây.
Ngày gia đình Johnny chuyển đi, cả hai đứa đều ảo não lắm. Ning đứng bám chặt hàng rào, trơ trọi nhìn bố mẹ Johhny chất đồ lên chiếc xe tải nhỏ. Còn Johnny thì lien tục lấy tay quệt nước mắt. Khi xe tải sắp chuyển bánh, nó chộp lấy con búp bê của em gái chạy tới đưa cho Ning. Hai đứa bị rịn lâu lắm mới chịu chia tay, và Ning tin rằng một ngày nào đó Johnny sẽ quay lại tìm nó, cưới nó và xây cho nó một ngôi nhà thật. Nhưng từ đó chúng tôi chẳng còn hay tin gì về Johnny nữa.
Tôi vẫn nhớ ngày chúng tôi phải chuyển nhà. Đầy nâng niu, Ning mang con búp bê mà Johnny tặng nó chậm rãi đặt vào hốc cây me tây và bảo búp bê ở đó chờ Johnny về để báo cho thằng bé biết chúng tôi đã chuyển nhà.
Bố luôn dặn dò tôi phải chăm sóc em gái vì chúng tôi chỉ có nhau. Ông không bao giờ nhắc đến mẹ, không bao giờ nhắc tôi phải nghe lời mẹ hoặc chăm sóc mẹ khi tôi lớn. Tôi không bao giờ hiểu được nguyên nhân vì đâu, chỉ có thể thầm nhủ rằng bố lo lắng về tôi và Ning hơn là về mẹ.
Sự nghiệp của bố như một đồ thị đầy thăng giáng. Ông chuyển việc thường xuyên và dù làm bất cứ thứ gì ông cũng thích nghi rất nhanh, nhưng không bao giờ trụ được lâu; lúc nào cũng có sự gì đó khiến ông mất việc và lại vất vả tìm việc mới. Đôi khi chúng tôi sống như giới thượng lưu, dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng, suốt ngày tới nhà hát và rạp chiếu bóng, hầu như cuối tuần nào cũng lên rừng xuống bể dã ngoại. Nhưng cũng có những lúc chúng tôi phải sống tằn tiện, mua từng nắm gạo để bỏ vô nồi và từng cút rượu Siangchun cho bố sống qua ngày, nhưng bất kể khổ sở thế nào, bố cũng không bao giờ cho phép bản thân nom tuềnh toàng. Mỗi khi ra ngoài bố vẫn diện quần áo đẹp, đi giày da bóng loáng và cười vang như thể ông không có gì phải lo lắng trên đời.
Mẹ bảo chúng tôi đó là đặc trưng của đàn ông cung Sư tử, những người kiêu ngạo, yêu cái đẹp và thích tiện nghi, dễ bị quyến rũ và không quan tâm tới gia đình. Bà rất tin vào chiêm tinh và tới lượt chúng tôi tin rằng tính mẹ ngoan cố bướng bỉnh như vậy là bởi bà sinh dưới ánh sáng của chòm Kim Ngưu.
Nếu những ngôi nhà biết nói, tôi chắc ngôi nhà của gia đình chúng tôi có nhiều chuyện để kể, không chừng là những chuyện tôi chưa bao giờ hay biết hoặc đã lãng quên. Điều lạ lùng là tôi cứ luôn nghĩ về căn nhà này và cảm thấy cơ hồ mình vẫn đang sống ở đó, không lớn lên nổi, mặc dù chẳng còn gì sót lại nữa, bản thân ngôi nhà, cả cái mái chạm trổ nhô ra, những viên ngói, những con thằn lằn, tiếng cười hay tiếng khóc.
Khi nhìn những gì còn sót lại của chòi nghỉ trên bến thuyền ngày nay, tôi không hiểu sao mình lại tìm đến đây, chỉ để nhận ra mọi thứ đã thay đổi và làm tổn thương đến những kí ức của chính mình thay vì cứ giữ chúng vẹn nguyên trong một góc bí mật của tâm hồn như trước. Có thể tôi cô đơn quá và cần một ai đó, một cái gì đó, mang đến cho tôi chút hơi ấm và yêu thương. Cũng có thể chỉ là tôi nhung nhớ tuổi ấu thơ thuần khiết và ngây ngô, hoặc có lẽ chỉ là tôi đang huyễn hoặc những thứ ấy mà thôi.
Tôi cố gắng níu giữ thời gian để nó trôi đi càng chậm vàng tốt. Tôi lặng ngắm hết con thuyền này đến con thuyền khác đi qua và bị hút hồn bởi những chiếc sà lan gạo chất cao đến tận mép, được kéo thành những chuỗi dài không dứt như hàng đoàn học sinh thẳng hàng ngay lối nối đuôi nhau.
Hôm đó bữa trưa của tôi là một bát bún bán trên thuyền ngon tuyệt. Tôi tháo giày tất ngồi trên bậc thềm, vừa đung đưa chân dưới nước vừa ngấu nghiến đến sợi bún cuối cùng. Tôi không chắc người Tàu bán bún kia vẫn là người bán bún năm xưa. Chúng tôi chỉ nói với nhau vài câu. Trông ông ta mệt lả nhưng vẫn luôn mỉm cười. Dù đôi mắt ông rất kém nhưng vẫn ánh lên niềm hi vọng.
Tôi về nhà vào lúc trời sẩm tối sau cả một buổi chiều lang thang vô định. Tôi chán ngấy bản thân mình, trường lớp, gia đình, chán ngấy mọi thứ. Tôi chỉ muốn bỏ trốn tới một nơi xa thật xa và quên đi tất cả.
Ning chưa đi học về, mẹ cũng không có nhà. Tôi tự hỏi không biết từ đêm qua tới giờ, mẹ đã tạt qua nhà chưa. Ngôi nhà tĩnh mịch và cô độc, như thể nó chỉ là một cái thùng các tông cũ dùng để chứa những thứ đồ bỏ đi. Tôi quẳng cặp sách lên bàn phòng khách, kéo tất ra ném sang một bên rồi thả người xuống ghế mây. Thứ gì đó đã thay đổi trong căn nhà này, nhưng tôi không rõ đó là gì. Gió luồn lách qua các khe tường nứt khiến căn nhà vốn mát mẻ nay trở nên lạnh lẽo - lạnh thấu xương. Tôi chỉ không muốn đối diện với sự thật rằng tôi đang ở đây một mình.
Tôi mơ màng về bãi biển cát trắng xóa bên bố, mẹ và Ning cười đùa vui vẻ, mơ về những đêm bố nằm ôm tôi và Ning kể chuyện hài, mơ về những lúc hai anh em gối đầu trên đùi mẹ tận hưởng bàn tay mẹ vuốt tóc chúng tôi quá đỗi dịu dàng...
Nhưng rồi một lần nữa, tôi lại choàng tỉnh, bởi vì những giấc mơ ấy của tôi sẽ không bao giờ thành sự thật.

“Không sao đâu, thế này là quá đủ rồi,” tôi an ủi cô em gái mặt đã trắng bệch. “Em đã tặng anh bài thủ công của em trong khi đáng lẽ phải nộp cho cô giáo.”
“Em có thể làm lại mà.” Ning nhìn tôi chăm chú. “Mất mấy ngày thôi.”
Tôi gật đầu và dịu dàng vuốt tóc con bé. Ning ghét nhất việc may vá nhưng mẹ lại thích vô cùng và bà luôn ép Ning phải giống mình.
“Nộp cái này cho cô giáo trước đi. Đưa anh sau cũng được.” Tôi trả con bé gói quà.
“Không.” Ning lắc đầu nguầy nguậy tới mức mớ tóc mái lăng bên này qua bên nọ. “Em thêu nó cho anh. Anh cầm đi.”
“Ngốc ạ.” Tôi cầm hộp quà lên khẽ cụng vào đầu nó. “Mẹ dậy chưa?”
“Chưa,” con bé đáp rồi ngoảnh ra ngoài cửa sổ nhìn về phía một chú chim ác là nhỏ bé đang nhảy nhót trên cành xoài. “Chắc đêm qua mẹ dùng nhiều thuốc ngủ.”
Tôi thở dài. Gần đây mẹ khó ngủ nên thường phải dùng đến thuốc. Thi thoảng thuốc khiến mẹ ngủ tới tận trưa. Đêm xuống, mẹ vẫn tỉnh như sáo, vậy là bà lại phải uống thêm thuốc, cứ như thế bà luẩn quẩn trong cái vòng hung hiểm do chính mình tạo ra, như một chú cún rượt theo cái đuôi của chính mình.
“Nat, anh có muốn đi chào mẹ bây giờ không?” Ning dịu dàng hỏi.
Đã thành truyền thống, cứ mỗi dịp sinh nhật là chúng tôi lại tới quỳ lạy chào bố mẹ và đợi lời chúc của hai người. Nhưng năm nay, tôi cảm thấy chán ngán khôn tả.
“Có lẽ để tối đi,” tôi vươn người. “Anh không muốn làm phiền mẹ bây giờ.”
“Vậy em đi thay đồ. Như thế hai anh em mình có thể đón cùng xe buýt.” Ning đứng dậy.
“Mau lên,” tôi vừa hét theo nó vừa ra khỏi giường.
Lối đi từ nhà chúng tôi ra đường lớn thật yên tĩnh vào buổi sớm và ngập tràn không khí ngoại ô. Con đường đẫm sương mai, đám cỏ dày bên đường còn vương lóng lánh những hạt sương. Bụi cây trái nổ vươn những cánh hoa tím mỏng manh đón chào lũ bướm và chuồn chuồn. Ning dừng chân hái trái nổ. Nó bóp mở trái bằng bàn tay ướt đẫm và một giây sau những trái màu nâu sẫm bật tách ra.
Tôi nhớ lại mấy năm về trước bố đưa hai đứa tới Hua Hin. Hai anh em - tôi và Ning – đi hái trái cườm thảo suốt cả ngày. Khi ấy chúng tôi thấy những hạt đen đen chấm đỏ ấy quá dị thường đến nỗi đem khoe hết với mọi người xung quanh. Xa xa, một nhà sư đang bước tới, tấm áo cà sa chói mắt, Ning đứng lại nhìn tôi. Hai mắt chúng tôi thoáng gặp nhau rồi cùng lảng đi. “Nat?” Ning khẽ gọi tên tôi. “Thôi bỏ đi.” Tôi lắc đầu. Vị sư lặng lẽ bước qua chúng tôi. Đầu cúi gằm, ông ta dán mắt xuống đất không hề liếc chúng tôi lấy một cái hay lưu tâm gìtới cảnh vật xung quanh. Tôi quay đầu nhìn vị sư lần nữa trước khi theo Ning bước vào đường lớn.
Chú thích

[1] Theo truyền thuyết, Phra Ruang là một vị vua của vương quốc Sukho-thai đã xuất gia và mỗi lời của ngài đều trở thành sự thật. Ngài đã biến một kẻ sát nhân thành đá chỉ bằng cách bảo ông ta cứ đứng nguyên tại chỗ.
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: saugao, Leptolida, meduong32, graywonder
Nguồn: Stent
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 26 tháng 10 năm 2013

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--